CÂU 1: Anh (chị) hãy phân tích nguồn gốc lý luận hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh:
1. Nguồn gốc khách quan:
a. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
- Hoàn cảnh gia đình: được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, mỗi
thành viên trong gia đình là một tấm gương sáng có ảnh hưởng sâu sắc tới nhân cách
và auy nghĩ của HCM.
- Hoàn cảnh quê hương: truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của Nghê
Tĩnh góp phần hun đúc nên nhân cách, tư tưởng HCM.
- Hoàn cảnh đất nước: giữa TK19 VN trở thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội VN phân hóa giai cấp sâu sắc, hình
thành giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản tạo tiền đề cho phong trào giải phóng dân tộc.
- Bối cảnh thời đại: CN Mác ra đời và thắng lợi CMT10 Nga, Quốc tế cộng
sản thành lập chỉ đạo phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử chung của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ
Chí Minh đã xuất hiên, đáp ứng đòi hỏi bức thiết của dân tộc và thời đại
b. Nguồn gốc tư tưởng - lý luận:
1. Giá trị truyền thống của dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết bắt nguồn từ các giá trị truyền thống của dân
tộc, là sự kế thừa và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Đặc biêt là chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Viêt Nam mà Bác tiếp thu từ truyền thống gia đình và đã
được hun đúc bởi truyền thống 2 quê hương để kết luận: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước”. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống ấy có các giá trị tiêu biểu:
+ Yêu nước là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử Viêt Nam. Mọi học
thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Viêt Nam đều được tiếp nhận
khúc xạ qua lăng kính của chủ nghĩa yêu nước đó.
Lòng yêu nước là điểm tương đồng lớn nhất của mọi người Viêt Nam. Chủ
nghĩa yêu nước là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hoá, tinh thần Viêt
Nam. Kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước Viêt Nam, Hồ Chí Minh trở thành nhà
ái quốc vĩ đại. Người luôn khẳng định truyền thống yêu nước là một thứ vốn quý giá.
+ Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong
khó khăn, hoạn nạn.
+ Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình, tin vào sự tất thắng của
chân lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ.
+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở rộng
cửa đón nhận tinh hoa văn hoá bên ngoài làm giàu cho văn hoá Viêt Nam.
Trước 1911, gia đình, quê hương, đất nước đã chuẩn bị đầy đủ hành trang
1
yêu nước để Người ra đi tìm đường cứu nước.
2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hoá phương Đông với các thành
tựu của văn minh phương Tây - đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành
nhân cách và văn hoá Hồ Chí Minh.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã được trang bị và hấp thụ nền
Quốc học và Hán học khá vững vàng, chắc chắn. Trên hành trình cứu nước, Người đã tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiêm để làm giàu tri thức của mình và
phục vụ cho cách mạng Viêt Nam.
- Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo,
và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.
Nho giáo là học thuyết về đạo đức và phép ứng xử, triết lý hành động, lý tưởng về một
xã hội đức trị. Đặc biêt Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong
dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng
phê phán Nho giáo có những tư tưởng tiêu cực như bảo vê chế độ phong kiến, phân chia đẳng
cấp (quân tử và tiểu nhân), trọng nam khinh nữ.
Hồ Chí Minh là một hiên thân của bậc quân tử, đấng trượng phu trên nền tảng
chủ nghĩa yêu nước Viêt Nam.
Phật giáo có hạn chế về thế giới quan duy tâm chủ quan, hướng con người tới
xuất gia tu hành làm hạn chế tính tích cực xã hội của con người. Nhưng ưu điểm của
Phật giáo là tư tưởng vị tha, bình đẳng, từ bi, bác ái. Phật giáo cũng đề cao nếp sống
đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động. Phật giáo vào Viêt Nam
kết hợp với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với dân, hoà vào cộng đồng chống kẻ thù
chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân.
Nói như Phật giáo Ấn Độ thì Hồ Chí Minh là hiên thân của vị “Phật sống”.
Người cũng đã tìm thấy ở “chủ nghĩa tam dân” (Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân
sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn những điều phù hợp với điều kiên của cách mạng nước ta là
Tư tưởng dân chủ tiến bộ. Nhưng Tôn Trung Sơn làm cách mạng đưa Trung Quốc lên CNTB,
còn Hồ Chí Minh làm cách mạng đưa Viêt Nam lên CNXH.
Người cũng đã chắt lọc những tinh túy của các triết thuyết Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử..
Hồ Chí Minh là nhà mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, biết khai thác những yếu tố tích cực của
tư tưởng văn hoá phương Đông để phục vụ cho sự nghiêp của cách mạng Viêt Nam.
- Văn hoá phương Tây:
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng
phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong “Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền” của Đại cách mạng Pháp 1791; tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ 1776. Trước khi ra
nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Sau này Người nhớ
lại “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác
ái… và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem
2
những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Lần đầu sang, Pháp Hồ Chí Minh đã thể hiên
bản lĩnh, nhân cách, phẩm chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy
mặt trái của “lý tưởng” tự do, bình đẳng, bác ái. Người tiếp thu dân chủ tư sản qua tư
tưởng tiến bộ của những nhà Khai sáng Pháp như Voltaire, Rousso, Montesquieu.
Đạo Công giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, có hạn chế về thế giới
quan là duy tâm khách quan hữu thần, về nhân sinh quan là thường hướng con
người tới xuất gia tu hành. Hồ Chí Minh quan niêm Tôn giáo là văn hoá. Điểm
tích cực nhất của Công giáo là lòng nhân ái, là tấm gương nhân từ của Chúa hi
sinh vì sự nghiêp cứu rỗi con người. Đây là điều tác động mạnh nhất đến con
đường và sự nghiêp cách mạng của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông-Tây để phục vụ cho cách
mạng Viêt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới
thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”
a.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư tưởng
Hồ Chí Minh, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời tư tưởng của Người góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các
dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do. Người khẳng định: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đối
với chúng ta… là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ
nghĩa xã hội…”.
Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở Hồ Chí Minh nổi lên một số
điểm đáng chú ý:
Một là, khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có một vốn học vấn
chắc chắn, một năng lực trí tuê sắc sảo, Người đã phân tích, tổng kết các phong trào
yêu nước Viêt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; Người tự hoàn thiên
vốn văn hoá, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú, nhờ đó Bác đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách quan và hợp với quy luật”. Chủ
nghĩa Mác-Lênin là bộ phận văn hoá đặc sắc nhất của nhân loại: tinh tuý nhất, cách
mạng nhất, triêt để nhất và khoa học nhất
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là tìm con đường giải
phóng cho dân tộc, tức là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn Viêt Nam chứ không phải từ
nhu cầu tư duy. Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lênin, “khi ấy ngồi
một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông đảo quần chúng:
hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng cho chúng ta”.
Ba là, Người vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin theo phương pháp mác-xít và theo
tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viên, không tìm kết luận có sẵn mà tự
tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Viêt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Vai
trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiên ở chỗ:
3
- Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Quyết định phương pháp hành động biên chứng của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin ở Viêt Nam, là tư tưởng Viêt
Nam thời hiên đại.
2. Nhân tố chủ quan:
Cùng thời có biết bao Đảng viên Đảng Xã hội Pháp người Viêt cũng đọc
Luận cương của Lênin, nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc sớm nhìn ra con đường chân
chính cho sự nghiêp cứu nước và giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong viêc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuê của Hồ Chí Minh đã
tác động rất lớn đến viêc hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Những nhân tố
chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh là:
+ Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường và sáng
suốt trong viêc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng ltrong nước và trên thế giới.
+ Hồ Chí Minh có sự khổ công học tập, rèn luyên chiếm lĩnh vốn tri thức
phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiêm đấu tranh của phong trào giải phóng dân
tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách là
học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản.
+ Hồ Chí Minh có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản
nhiêt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người cùng khổ, sẵn sàng
chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bác Hồ từ một người
tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo.
Trong các nguồn gốc lý luận thì nguồn gốc chủ nghĩa Mác-Lênin là quan
trọng nhất, quyết định bước ngoặt cách mạng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí
Minh. Giữa nguồn gốc lý luận với nhân tố chủ quan thì không thể xác định yếu tố nào
quan trọng hơn, bởi thiếu một trong hai nội dung đó sẽ không có tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng hồ chí minh về cách
mạng giải phóng dân tộc và vận dụng nội dung tư tưởng trên vào trong giai đoạn
hiện nay.
1. Nội dung tư tưởng HCM về con đường CMVS:
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin
và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải có Đảng Cộng sản
của giai cấp công nhân lãnh đạo:
a) Cách mạng trước hết phải có Đảng
4
Người đã chỉ ra, muốn làm cách mênh “trước hết phải làm cho dân chúng giác
ngộ... phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân chúng hiểu”. “Cách mênh phải hiểu
phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức mênh phải tập trung,
muốn tập trung phải có đảng cách mênh”.
Trong “Đường Kách mênh” Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách
mênh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mênh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
b) Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất
- Đầu 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Viêt Nam, một chính đảng của giai
cấp công nhân và dân tộc Viêt Nam, lấy CNMLN “làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật
nghiêm minh và liên hê mật thiết với quần chúng.
+ Hồ Chí Minh là người chuẩn bị những điều kiên về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho sự ra đời, đồng thời là người sáng lập và rèn luyên Đảng ta.
+ Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Viêt Nam là đảng của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của dân tộc Viêt Nam. => Đây là luận điểm Người đã phát
triển học thuyết MLN về Đảng Cộng sản, nhờ nó mà Đảng Cộng sản Viêt Nam có sự
gắn bó chặt chẽ với nhân dân, với toàn dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Viêt
Nam.
- Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã qui tụ được lực lượng
và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Viêt Nam. Đó là một đặc điểm,
đồng thời là ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh
đạo duy nhất đối với cách mạng Viêt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi
thắng lợi của cách mạng Viêt Nam.
3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc trên
cơ sở liên minh công – nông – trí thức:
Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, trừ bọn tay sai bán nước, tất cả mọi giai
tầng ở Viêt Nam đều có khả năng tham gia cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh
phân tích: “... dân tộc cách mạng thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng định lực lượng
cách mạng là bao gồm cả dân tộc.
Trong phạm vi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh
đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, Hồ Chí Minh chủ trương
tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Viêt Nam đang bị làm nô lê trong một mặt trận
dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh toàn dân. Sách lược vắn tắt chỉ rõ “Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Viêt,.. để kéo
họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung
lập. Bộ phận nào ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì cần phải đánh đổ”.
5
Trong lực lượng toàn dân tộc, Người luôn nhắc nhở không được quên cốt lõi của
nó là công - nông. Phải nhớ: “Công nông là gốc cách mênh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn
của cách mênh, của công nông thôi”, và phải thực hiên theo đúng nguyên tắc: “Trong khi
liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của
công nông mà đi vào đường thoả hiêp”.
Hồ Chí Minh chưa bao giờ vì vấn đề dân tộc mà quên đi hoặc coi nhẹ vấn đề
giai cấp, ngược lại, Người luôn tìm thấy mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, để có thể tập hợp lực lượng thì phải đoàn kết tất cả
những người Viêt Nam yêu nước để cùng đánh đổ kẻ thù chung của cả dân tộc, trong
đó bộ phận trung tâm là công nhân, nông dân và khối liên minh công – nông do giai
cấp công nhân lãnh đạo.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
a) Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo
- Hồ Chí Minh khẳng định sức sống và nộc độc của chủ nghĩa đế quốc tập trung
ở các nước thuộc địa. Chính sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đế quốc
đã tạo nên mâu thuẫn gay gắt giữa các dân tộc thuộc địa với CNTB.
- Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, cách mạng thuộc địa có tầm quan
trọng đặc biêt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Chủ nghĩa
dân tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là một động lực to lớn của cách
mạng giải phóng dân tộc.
- Trong khi yêu cầu QT III và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng thuộc
địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nổ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiêp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải
phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa), chỉ có thể thực hiên được bằng sự nổ lực của
bản thân anh em”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế
quốc thực dân; chủ trương phát huy nổ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động,
trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng
thời phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn
là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân
tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng
được độc lập”.
b) Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này
6
vô hình dung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phog trào cách mạng ở thuộc
địa. Hồ Chí Minh đã phê phán và chỉ ra sai lầm của quan điểm đó.
- Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hê mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.Đó là mối quan hệ bình
đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc hay quan hệ chính - phụ.
- Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh
dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước và giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính quốc.
Bởi vì “Vận mênh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biêt là vận mênh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mênh của giai cấp bị áp
bức ở thuộc địa”, và “Ngày mà hàng trăm nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh
để gạt bỏ sự bóc lột đê tiên của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một
lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiên tồn tại của chủ
nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiêm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý luận to lớn; một
cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi
của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực
- Theo Mác: bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền cách mạng, vì giai cấp thống trị
bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiên bằng
con đường cách mạng bạo lực được quy định bởi các yếu tố:
+ Sự thống trị của thực dân đế quốc ở thuộc địa vô cùng hà khắc, không hề có
một chút quyền tự do dân chủ nào, không có cơ sở nào cho thực hành đấu tranh không
bạo lực.
+ “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu rồi”. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con
đường cách mạng bạo lực.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành
chính quyền về tay cách mạng, nó phải được thực hiên bằng một cuộc khởi nghĩa vũ
trang. Như ở Viêt Nam là khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
- Quán triêt quan điểm “cách mạng là sự nghiêp của quần chúng”, Hồ Chí Minh
chỉ rõ, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực của quần chúng, nghĩa là toàn dân vùng dậy
đánh đuổi quân xâm lược.
- Hình thức của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang, nhưng phải “tuỳ tình hình cụ thể mà quy định những hình thức cách mạng thích
7
hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính
trị cho cách mạng”, ngoài ra còn phải tận dụng đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
- Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ
Chí Minh luôn tranh thủ mọi khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm
mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng
biên pháp hoà bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận nhượng bộ có nguyên
tắc.
- Viêc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không
còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn
giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.
- Phương châm chiến lược là toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế
cũng là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức
mạnh toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có
hiêu quả cả về vật chất và tinh thần.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có
những luận điểm sáng tạo, đặc sắc có giá trị lý luận và thực tiễn lớn.
1. Làm phong phú học thuyết Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa
- Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác
định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng Hồ Chí Minh đã
không áp dụng rập khuôn, máy móc những nguyên lý có sẵn. Năm 1924, Người đã phát
hiên thấy chủ nghĩa Mác được xây dựng trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu,
mà châu Âu “chưa phải là toàn thể nhân loại”, và đặt ra nhiêm vụ: “xem xét lại chủ
nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh làm phong phú thêm
CNMLN về cách mạng thuộc địa:Vận dụng phương pháp làm viêc biên chứng của học
thuyết Mác-Lênin, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiên lịch sử cụ thể, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc và truyền bá vào Viêt Nam.
Vận dụng: Trong công cuộc đổi mới hiên nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi dậy sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây
dựng và bảo vê Tổ Quốc; nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp
công nhân; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hê giữa
các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Viêt Nam.
8
Câu 3: Phân tích và chứng minh quan điểm Hồ Chí Minh về CNXH là con
đường tất yếu của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng về XHCN của HCM được hình thành dựa trên quan điểm về bản
chất của chế độ XHCN của Mac-Lenin. HCM còn tiếp cận XHCN từ nhiều giác độ
khác nhau để cho thấy CNXH là tất yêu với CMVN, đó là: từ lập trường yêu nước và
khát vọng giải phóng dân tộc; từ phương diên đạo đức; từ truyền thống lịch sử, văn
hóa và con người Viêt Nam.
Quan điểm của HCM về CNXH là sự thống nhất biên chứng giữa các nhân tố
kinh tế, chính trị, xã hội với các nhân tố nhân văn, đạo đức, văn hóa. Theo đó, CNXH
gồm có các đặc trưng chủ yếu: Là một chế độ xã hội có LLSX phát triển cao, gắn liền
với sự tiến bộ của kh- kt, văn hóa, dân giàu, nước mạnh; Công hữu về TLSX và thực
hiên nguyên tắc phân phối theo lao động; Có chế độ chính trị do nhân dân lao động làm
chủ; Xã hội công bằng, bình đẳng, các quan hê xã hội lành mạnh; CNXH là của quần
chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân xây dựng nên.
Một cách tổng quát, quan điểm của HCM về mục tiêu và động lực của CNXH
là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. HCM quan
niêm mục tiêu cao nhất của CNXH là nâng cao đời sống nhân dân, và Người cho rằng
muốn nâng cao đời sống toàn dân phải tiến lên CNXH. Mục tiêu nâng cao đời sống
nhân dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiêm tính chất XHCN của các
lý luận CNXH và chính sách thực tiễn.
Chỉ rõ mục tiêu của CNXH, HCM đã khẳng định tính ưu viêt của CNXH so
với các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, người chỉ ra nhiêm vụ giải phóng con
người một cách toàn diên: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải
phóng từng cá nhân con người. HCM đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá
độ lên CNXH trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội:
- Về chính trị: đó là xây dựng một nhà nước thực sự của dân do dân vì dân,
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước thực hiên chức năng dân chủ với
nhân dân, chuyên chính với kẻ thù. Nhân dân có quyền dân chủ ở ứng cử, bầu cử. Xây
dựng Đảng vững mạnh, tăng cường lãnh đạo của Đảng với Nhà nước.
- Về kinh tế: đó là thay đổi nền kinh tế lạc hậu, thấp kém thành nền kinh tế
hiên đại; xóa bỏ dần hình thức bóc lột TBCN; Phát triển nền công nghiêp và nông
ngiêp là hai chân của nền kinh tế, thương nghiêp là cầu nối giữa công nghiêp và nông
ngiêp; Đa dạng hóa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế.
- Về văn hóa xã hội: xây dựng một nền văn hóa mới theo phương châm dân
tộc khoa học đại chúng; Văn hóa phải sửa đổi được tham ô, lãng phí, quan liên, phải
soi đường cho quốc dân đi; Xây dựng con người mới phát triển toàn diên đức trí thể
mỹ; Xây dựng mối quan hê tốt đẹp giữa con người với con người.
Để thực hiên các mục tiêu trên, cần phát hiên những động lực và điều kiên bảo
9
đảm cho những động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng
CNXH. HCM đã xác định động lực xây dựng CNXH trên các mặt về chính trị, kinh tế,
văn hóa xã hội,… trong đó, động lực con người là quan trọng nhất, Người chỉ ra rằng
ở động lực này có sự kết hợp cả sức mạnh cộng đồng và sức mạnh cá nhân.
Sức mạnh cộng đồng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, liên minh công nông
trí, do đó Đảng phải có đường lối, chủ trương đúng tạo điều kiên các tổ chức, hiêp hội
hoạt động hiêu quả, đặc biêt phải chú ý đoàn kết các dân tộc ít người vùng sâu vùng
xa.
Về bình diên cá nhân, HCM cho rằng không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi
ích chính đáng cá nhân con người bằng chế độ XHCN. Do đó, phải tác động vào nhu
cầu lợi ích vật chất, đó là đúng người, đúng viêc, đãi ngộ xứng đáng. Tuy nhiên, phải
giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, nếu lợi ích cá nhân là chính đáng
thì phải tôn trọng, đảm bảo. Ngoài ra, bên cạnh lợi ích vật chất, HCM cũng quan tâm
về mặt tinh thần của xã hội XHCN, phải xây dựng xã hội công bằng dân chủ, mở rộng
hiểu biết, nâng cao dân trí cho nhân dân, tăng cường giáo dục đạo đức, ý thức, lý
tưởng XHCN cho nhân dân.
Bên cạnh các động lực bên trong nêu trên, theo HCM còn chỉ ra các động lực
bên ngoài là phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế,
chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, ứng dụng khoa
học kỹ thuật công nghê,… Giữa động lực bên trong và động lực bên ngoài, thì động
lực bên trong là quyết định nhất, nhưng động lực bên ngoài cũng rất quan trọng. Tất cả
các động lực bên trong và bên ngoài nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát
triển. Giải pháp làm thế nào để những nguồn lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và
không ngừng phát triển, theo HCM, đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mang ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển của CNXH, đây là hạt nhân trong hê động lực
của CNXH.
Ngoài ra, HCM còn đề cập đến các trở ngại trong xây dựng CNXH, các yếu tố
kìm hãm, triêt tiêu nguồn lực, làm CNXH trở nên trì trê, đó là: chủ nghĩa cá nhân;
tham ô, lãng phí, quan liêu; sự chống phá của các thế lực thù địch; sự lười học tập,
không chịu đổi mới, mâu thuẫn nội bộ, mất đoàn kết.
Như vậy, quan điểm của HCM về CNXH là sự thống nhất biên chứng giữa các
nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội với các nhân tố nhân văn, đạo đức, văn hóa. Từ bản
chất ưu viêt của CNXH, HCM đã đi đến khẳng định tất yếu của sự lựa chọn XHCN và
con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tuy nhiên, theo Người để đạt được mục tiêu đó
phải là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn
nóng.
10
Câu 4: Anh/ chị hãy phân tích nội dung TT HCM về xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh và vận dụng TT trên vào xây dựng Đảng ở cơ quan đơn vị mình
công tác:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong điều kiên cụ thể của nước ta và đã trở thành một tài sản tinh thấn quí báu
của Đảng và của dân tộc. Trong toàn bộ tư tưởng của Người thì tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng CS là một bộ phận quan trọng, là sự kế thừa, bổ sung và phát triển, sáng tạo
tư tưởng của Mác – Ănghen và nhứt là những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của Lênin
trong điều kiên Viêt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng : “trước hết phải có
Đảng cách mạng, để trong thời vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Đảng CSVN ra đời là kết
quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. Đảng đã đảm nhận sứ mênh lãnh đạo cách mạng Viêt Nam, đáp ứng được
yêu cầu KQ của xã hội Viêt Nam lúc bấy giờ đang khủng hoảng đường lối cứu nước.
Cách mạng tháng 8 thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, đưa Đảng ta lên
đảng cầm quyền, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội. Trên cương vị mới
Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng Viêt Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước tiến lên CNXH.
Đảng ta là Đảng của giai cấp côngnhân và nhân dân lao động : “Là Đảng cách
mạng, là Đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng
ta không có lợi ích nào khác”. Là một Đảng cầm quyền, Đảng có chức năng lãnh đạo
chính quyền nhà nước và lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội. Sự lãnh đạo đó được
thể hiên bằng đường lối chủ trương, bằng quy hoạch bố trí đội ngũ cán bộ và bằng viêc
kiểm tra đôn đốc giám sát, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo cho mọi thắng lợi
của cách mạng Viêt Nam theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Muốn thực hiên được vai trò chức năng của một Đảng cầm quyền, hoàn thành
được sứ mênh mà giai cấp và dân tộc đã ủy thác, Đảng ta phải được trang bị lý luận
tiên tiến, cách mạng và khoa học. Hồ Chí Minh cho rằng : “Đảng muốn vững mạnh
phải lấy công nhân làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo CN ấy.
Đảng mà không có CN cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Vào những năm đầu thế kỷ 20, khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, trên
thế giới có rất nhiều hê thống lý luận, nhưng sau bao năm bôn ba hải ngoại, tiếp cận
với phong trào công nhân, tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng T.10 Nga,
Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Bây giờ học thuyết nhiều và chủ nghĩa nhiều nhưng
chủ nghĩa chân chính nhứt , chắc chắn nhứt, cách mạng nhứt là chủ nghĩa Lênin” và
Đảng ở Viêt Nam phải là một Đảng “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
11
Sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học
thuyết cách mạng và khoa học chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn để
giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa đứng lên làm cách mạng cải tạo
thế giới giải phóng cho giai cấp, cho dân tộc khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Sự đúng đắn
của đường lối cách mạng do Đảng ta vạcg ra ngay từ buổi đầu mới thành lập bắt nguồn
từ viêc Hồ Chí Minh đã quán triêt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác –
Lênin đã giúp Đảng ta vượt qua những trận thử thách … Nhờ vậy, Đảng ta không
những đã giành được quyền lãnh đạo CM trong cả nước mà còn giữ vững được quyền
lãnh đạo đó trên mọi lãnh vực và đập tan mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh
quyền lãnh đạo cáchmạng với Đảng ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vạch ra được đường lối
chủ trương đúng đắn, sát hợp đưa cách mạng Viêt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác mà thực tiễn cách mạng Viêt Nam là chứng minh hùng hồn nhứt để đảm bảo
sứ mênh dẫn lối soi đường đó thì viêc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiêm
vụ xuyên suốt của Đảng ta và là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh : “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”.
Đảng ta phải thực hiên nghiêm túc các nguyên tắc về tổ chức và xây dựng Đảng mà
trong đó tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, phê bình và tự phê bình
là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt Đảng cơ bản và quan trọng nhứt trong học thuyết về Đảng kiểu mới của Lênin và
được Hồ Chí Minh rất coi trọng và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể để xây dựng Đảng
CSVN. Tập trung nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tất cả
Đảng viên phải chấp hành vô điều kiên nghị quyết của Đảng. Người nhấn mạnh :
“Đảng tuy đông người nhưng ít khi tiến hành chỉ như một người”. Bên cạnh đó, Người
cũng nhấn mạnh dân chủ (trong Đảng) “Dân chủ là của quí báu nhứt của nhân dân”,
phải chú ý thực hành rộng rãi dân chủ trong Đảng “Phải thực sự mở rộng dân chủ để
tất cả các Đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình, phải gom góp ý kiến của Đảng viên
để giúp đỡ trung ương chuẩn bị đại hội Đảng cho thật tốt”. Ở Hồ Chí Minh về nguyên
tắc này trong dân chủ và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biên chứng giữa dân chủ và
tập trung, tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dướisự chỉ đạo tập trung. Nguyên
tắc này là tiêu chí quan trọng để xem xét một Đảng còn là Đảng mác – xít chân chính
nữa hay không ?
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta. Hồ
Chí Minh cho rằng : “tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi
với nhau. Nếu lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tê bao biên, độc đoán, chủ quan.
Kết quả là hỏng viêc”. Còn nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tê người
này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành như tục
ngữ có câu : “Nhiều sải không ai đóng cửa chùa”.
12
Phê bình và tự phê bình được coi là “quy luật” phát triển của Đảng “Tự phê
bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhứt, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng
thêm mạnh. Nhờ đó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, ưu điểm, tiến bộ không
ngừng”.
Hồ Chí Minh cho rằng con người ai cũng có khuyết điểm chỉ khác nhau ở mức
độ và trạng thái biểu hiên mà thôi. “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh
khỏi khuyết điểm”.
Theo Hồ Chí Minh “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm viêc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống
nhất nội bộ”. Mỗi cán bộ Đảng viên phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa hàng
ngày giống như mỗi ngày phải rửa mặt, và vấn đề này Hồ Chí Minh rất gương mẫu
thực hiên.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, còn phải thường xuyên chỉnh đốn
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng. Chỉnh đốn Đảng để lúc khó khăn
không bị bi quan dao động, để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo khi cách mạng chuyển
sang giai đoạn mới. Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiêm vụ phải “chấn chỉnh” bộ máy
chính quyền “chỉnh đốn”. Các đoàn thể quần chúng và “muốn làm được những viêc
trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Chỉnh đốn là để tăng cường sự đoàn kết
nhất trí trong Đảng, để tăng cườngsức chiến đấu của Đảng. Người đã chỉ ra rằng “Sự
đoàn kết nhất trí trong Đảng càng thêm vững chắc bảo đảm cho Đảng ta càng trong
sạch, càng mạnh mẽ, đảm bảo cho sự nghiêp cách mạng vĩ đại của chúng ta càng giành
được thắng lợi to lớn hơn nữa”.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên, Người rất quan tâm đến giáo dục, rèn
luyên, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng viên về tất cả các mặt trong đó có 03 vấn đề
chủ yếu nhứt là : Suốt đời phấn đấu hy sinh cho Đảng, cho tổ quốc ; Đặt quyền lợi của
Đảng, của tổ chức lên trên hết ; có một đời tư trong sáng”. Theo Hồ Chí Minh “Cán bộ
là cái gốc của mọi công viêc”, “Muốn viêc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”. Người đã so sánh “cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền
không tốt, không chạythì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liêt”. Trong sử
dụng cán bộ, Người yêu cầu phải “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”, phải “khéo dùng cán
bộ” ; “dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy
chỗ mà dùng được” ; phải “chiêu hiền đãi sĩ”, “cần người hiền tài” “có gan cất nhắc
cán bộ” ; phải chống bênh địa phương, cục bộ, phe phái , họ hàng.
Câu 5: Anh (Chị) hãy phân tích quan điểm của HCM về tính chất và bản
chất giai cấp công nhân của Nhà nước và vận dụng quan điểm trên vào xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. (5đ).
13
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc.
Tư tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa nhân loại và của dân tộc, là sự
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiên Viêt Nam. Trong
toàn bộ nội dung tư tưởng của Người thì tư tưởng về nhà nước chính là sự kế thừa và
phát triển của Hồ Chí Minh về các kiểu nhà nước trong lịch sử, là sự vận dụng lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước vào điều kiên nước ta.
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ lòng yêu nước
thương dân, Người đã ra đi tìm đường cứu nước và đã tìm thấy con đường cách mạng
vô sản, đồng thời Hồ Chí Minh cũng lựa chọn xây dựng một nhà nước kiểu mới ở Viêt
Nam, một nhà nước của dân do dân, vì dân khác về bản chất so với nhà nước thực dân
phong kiến. Người đã nhận thức được tất cả các nhà nước trước cách mạng vô sản đều
chỉ là nhà nước của một số ít người, nhà nước của giai cấp bóc lột. Vì thế Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ : “Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm xong cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng, chớ để trong tay một bọn ít
người”.
Nhà nước kiểu mới theo Hồ Chí Minh là một nhà nước của dân, do dân. “Tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Viêt Nam. Viêc nước là viêc chung,
mỗi một người con rồng cháu tiên, bất kỳ già trẻ gái trai, giàu nghèo, nồi giống, tôn
giáo đều phải gánh vác một phần …”. Nhân dân là người bầu ra nhà nước, bầu ra quốc
hội và chính phủ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh “tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể
quốc dân tự do lựa chọn những người có tài có đức để gánh vác công viêc nước nhà”
và “hễ là công dân đều có quyền đi bầu cử”. Nhân dân có quyền kiểm soát, góp ý, phê
bình chính phủ, dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân nếu họ
không còn xứng đáng, làm hại dân.
Nhà nước kiểu mới là phải coi viêc đưa lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân
là mục tiêu hoạt động của mình. Đó là nhà nước vì dân, phải đặt quyền lợi của nhân
dân lên trên hết “Viêc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Viêc gì có hại cho dân ta
phải hết sức tránh”. Nhà nước phải chịu trách nhiêm trước dân, nhà nước là công bọc,
là đầy tớ của nhân dân, phải yêu dân, kính dân.
Như vậy nhà nước kiểu mới theo Hồ Chí Minh là nhà nước của dân do dân vì
dân, thể hiên rõ quan điểm : “Nước lấy dân làm gốc”. Đó là nhà nước xây dựng trên
khối liên minh công nông, trí thức do Đảng CS lãnh đạo là nhà nước quản lý xã hội
bằng hiến pháp và pháp luật. Vấn đề xây dựng một nhà nước pháp quyền dựa trên cơ
sở phục vụ nhân dân, đã được thể hiên rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người có ý
thức rất sớm về tầm quan trọng của pháp luật trong viêc quản lý xã hội, trong bảng yêu
sách của nhân dân An Nam do Người soạn thảo gởi đến hội nghị Vecsây 1919 đã thể
hiên tư tưởng pháp quyền của Hồ Chí Minh. Người đã yêu cầu “Cải cách nền pháp lý
ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo
14
về mặt pháp luật như người Âu Châu” “Thay chế độ ra sắc lênh bằng chế độ ra các đạo
luật. Trong quan niêm của Hồ Chí Minh, pháp luật phải là ý chí của giai cấp công
nhân đồng thời là ý chí của nhân dân lao động, là văn kiên của một giai cấp thống trị.
Luật pháp của chế độ thực dân phong kiến, đặt ra là để bảo vê lợi ích cho giai cấp bóc
lột … còn hiến pháp, pháp luật của ta là bảo vê quyền lợi cho nhân dân lao động. Pháp
luật là phải lấy chữ nhân làm trọng và phải thấy mối quan hê giữa đức trị và pháp trị.
Đây là điểm rất đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng thắm đượm chủ
nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn, luôn chú trong đến con người, vì sự nghiêp giải
phóng con người, luôn tìm cách hướng con người đến cái chân thiên mỹ. Người đã bao
giờ cũng nhấn mạnh đến cả hai yếu tố “có lý có tình”. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn
cả “đức trị” và “pháp trị”. Người dùng sức cảm hóa để ngăn ngừa tiêu cực có thể xảy
ra với phương châm phòng bênh hơn chữa bênh. Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng
bao dung, nhân hậu nhưng Người cũng rất nghiêm khắc không bỏ qua sai lầm, khuyết
điểm, không bao che, luôn đòi hỏi sự bình đẳng trước pháp luật.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Người đã có ý trước
hết tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực nhà nước. Khi nhà nước Viêt Nam mới ra
đời năm 1945, Người muốn làm nhanh “càng sớm càng tốt” cuộc tổng tuyển cử để bầu
ra quốc hội và sau đó lập ủy ban soạn thảo hiến pháp đầutiên của nước Viêt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa. Trong 24 năm làm chủ tịch nước (1945 – 1969) Hồ Chí Minh đã chủ
trì soạn thảo hai hiến pháp năm 1946 và 1959. Đó là cơ sở pháp lý của quyền lực nhà
nước. Trong thời kỳ chống Pháp 1945 – 1954, do không có điều kiên họp đoàn thể
quốc hội, Hồ Chí Minh với tư cách là chủ tịch nước, buộc phải ra những sắc lênh
nhưng Người luôn tôn trọng tính hợp hiến của các sắc lênh bằng cách xin ý kiến ban
thường trực quốc hội. Người cũng thường xuyên nhắc nhỡ hoạt động của bộ máy hành
pháp, tư pháp phải dựa trên cơ sở vững chắc của hiến pháp và pháp luật.
Hồ Chí Minh không theo thuyết “tam quyền dân lập”, đây là lý luận xây dựng
nhà nước tư sản được nhiều nước áp dụng từ trước đến nay. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là không có sự chia sẻ quyền lực mà quyền lập pháp (quốc hội) hành pháp
(chính phủ), tư pháp (viên kiểm sát tòa án) phải thống nhất chặt chẽ với nhau để tất cả
quyền lực đều thống nhất là quyền lực của nhân dân. Nhưng giữa các quyền đó có sự
phân công, phối hợp nhau, tránh chòng chéo và phản quyền.
Nhà nước quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật là tư tưởng nhất quán
của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Tư tưởng này được thể hiên rất sớm qua
bản yêu sách 8 điểm gởi đến hội Nghị Vec-sây 1919. Người chú trọng đặc biêt đến
viêc xây dựng pháp luật và viêc đưa pháp luật vào thực hiên có kết quả trong cuộc
sống. Theo Người, phải tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, làm cho dân
nắm được pháp luật, hiểu được luật và làm theo uật. Người yêu cầu các cơ quan nhà
nước, cán bộ viên chức kể cả cán bộ chủ chốt phải gương mẫu chấp hành. Ngay cả
Đảngcầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Bản
15
thân Hồ Chí Minh là một tấm gương về chấp hành hiến pháp và pháp luật, không có
ngoại lê nào dù đó là chủ tịch nước.
Về xây dựng bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh nhất quán quan điểm xây dựng
ở Viêt Nam. Quốc hội lthực sự là cơ quan quyền lực cao nhất ; chính phủ là cơ quan
hành chính cao nhứt. Với một nền hành chính quốc gia hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhân dân. Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng tổ chức tư pháp hiên đại và dân chủ. Tòa án được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc của cơ quan tài phán nghĩa là độc lập với cơ quan hành chính, trong xét xử
cóphụ thẩm nhân dân tham gia, thẩm phán do chính phủ bổ nhiêm, phiên tòa xét xử
công khai, quyền bào chữa của các bị cáo được bảo đảm trong xét xử. Thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không có quyền can thiêp. Tóm lại, một bộ máy
nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ máy nhà nước hiên đại, dân
chủ, có hiêu lực, phải cấu tạo luôn luôn từ yêu cầu khách quan của từng thời kỳ cụ thể,
tránh tùy tiên, tránh chủ quan. Hồ Chí Minh cũng coi trọng vấn đề cán bộ, công chức
nhà nước, đề cao vị trí và vai trò của họ. Người cho rằng : “Cán bộ là dây chuyền của
bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liêt. Cán bộ là những người đem chính sách của chính phủ, của đoàn thể
thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dỡ thì chính sách hay cũng không thể thực hiên
được”. Người có quan điểm nhất quán về tiêu chuẩn cán bộ – viên chức nhà nước là
phải vừa có đức, có tài, vừa hồng “vừa chuyên”. Hai mặt đó phải luôn luôn đi đôi với
nhau mà đức phải là gốc. Theo Hồ Chí Minh tiêu chuẩn người cán bộ – công chức nhà
nước có những yêu cầu là : phải tuyêt đối trung thànhvới sự nghiêp cách mạng (là yêu
cầu đầu tiên phải có), thành thạo công viêc, phải có mối liên hê mật thiết với dân, phải
dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiêm nhất là trong những tình huống
khó khăn, thất bại không hoang mang, thắng lợi không kiêu ngạo, phải trung thực,
luôn có chí tiến thủ, luôn luôn tự phê bình và phê bình, biết người, biết viêc, không
thành kiến, không bao che.
Trong viêc lựa chọn người vào đội ngũ cán bộ – công chức nhà nước, Hồ Chí
Minh coi trọng biên pháp thi tuyển đội ngũ cán bộ – công chức. Điều này thể hiên rõ
trong hai sắc lênh do Người ký 1948, 1950 hoặc sắc lênh năm 1946 qui định tiêu
chuẩn chuyên môn hóa cán bộ tư pháp. Những qui định về thi tuyển, về tiêu chuẩn hoá
đội ngũ viên chức nhà nước của Người vẫn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình cải
cách hành chính hiên nay.
Câu 6: Anh/ chị hãy phân tích nội dung tư tưởng HCM về Đại đoàn
kết dân tộc và vận dụng TT trên vào xây dựng khối ĐĐKDT ở nước ta hiện
nay:
Tư tưởng ĐĐK HCM là một hê thống những luận điểm, những nguyên tắc,
những phương pháp giáo dục và tập hợp tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát
16
huy với mức cao nhất sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại vào sự
nghiêp đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
Đoàn kết là truyền thống quí báu, là sức mạnh vô địch của dân tộc ta trong
lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, tư tưởng ĐĐK HCM là nội dung xuyên suốt
và nhất quán trong toàn bộ hê thống tư tưởng HCM nói chung và là cơ sở cho chiến
lược của Đảng ta, nhờ đó mà đã dẫn tới những thành công của cách mạng Viêt Nam
trong cách mạng dân tộc dân chủ và XHCN.
Tư tưởng ĐĐK HCM được hình thành trên cơ sở truyền thống đoàn kết,
nhân ái, tình cảm trong lối sống tự nhiên và triết lý nhân sinh của người Viêt Nam.
Đoàn kết dựa vào dân là tư duy chính trị và là kế sách giữ nước của ông cha ta
(biểu hiên trong thơ các văn học), và HCM đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng
văn hóa của phương đông có giá trị hợp lý như: tư tưởng nhân ái, tư tưởng đại
đồng, tinh thần từ bi bác ái và những trào lưu dân chủ tư sản phương tây về tư
tưởng tự do bình đẳng, bác ái. Mặt khác HCM tiếp thu và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết và tập hợp lực lượng.
Người đã thấm nhuần quan điểm cách mạng của Mác: cách mạng là sự nghiêp của
quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cho nên cách mạng muốn mạnh
phải đoàn kết các dân tộc, các giai cấp và các tầng lớp khác thành lực lượng hùng
mạnh để chống thực dân đế quốc và áp bức bất công. Những quan điểm này được
đúc kết thành các khẩu hiêu trong phong trào cộng sản như “GCVS và các dân tộc
bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”.
Xuất phát từ thực tiễn XH Viêt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
lúc này XH bị phân hóa sâu sắc, các giai cấp khác thì có thái độ khác nhau đối với
vận mênh của dân tộc, thực dân Pháp dùng chính sách chia rẽ để tự làm cho mâu
thuẫn XH gay gắt thêm. Phong trào quần chúng chống pháp của Viêt Nam lúc này
rất sôi nổi nhưng đều thất bại (hê tư tưởng phong kiến, tư sản dân chủ Phan Chu
Trinh, Phan Bội Châu…). HCM đã khảo sát tình hình thế giới và đi đến kết luận rất
quan trọng gắn liền với tư tưởng ĐĐK: trên thế giới có hai loại người là người bóc
lột và người bị bóc lột, họ có cùng cảnh ngộ, cùng tâm tư nguyên vọng. Vì vậy, họ
đoàn kết lại với nhau để chống kẻ thù chung. HCM cho rằng các phong trào giải
phóng dân tộc chưa thành công là do các nước thuộc địa chưa đoàn kết trên phạm
vi toàn thế giới, HCM đã nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới
như Công xã Paris (1871), vì tổ chức không khéo léo, không liên lạc với dân cày
nên họ bị thất bại; còn cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) dạy chúng ta muốn
cách mạng thành công phải dân chúng là gốc. Mặt khác tư tưởng ĐĐK HCM được
hình thành từ những nhân tố chủ quan của Người như môi trường giáo dục của gia
đình, tư chất thông minh, bản lĩnh chính trị vững vàng và tính năng động sáng tạo
của HCM, Người sớm tiếp thu với các nhà tiền bối yêu nước (Phan Chu Trinh,
Phan Bội Châu…), có tinh thần phấn đấu vươn lên không ngừng trong học tập.
17
Trong nắm bắt tri thức của Người, HCM có bản chất nhân văn, đạo đức trong sáng,
lòng rộng lượng bao dung, lo cho dân, lo cho nước, yêu thương con người và có
sức thu hút rất lớn với mọi người, thu hút được sức mạnh ĐĐK.
Tư tưởng ĐĐK HCM định hướng cho viêc xây dựng củng cố, mở rộng,
tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiêp đấu tranh nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng XH, giải phóng con người. Đoàn kết là truyền thống quí báu của
dân tộc ta, đã được HCM nâng lên tầm cao mới “Đoàn kết, ĐĐK, thành công đại
thành công”, ở đây muốn nói lên phạm vi và đối tượng ĐĐK rất rộng, nhiều tầng,
nhiều lớp.
Đối với Đảng, thì viêc đoàn kết trong Đảng là nhân tố hạt nhân của mọi sự
đoàn kết, vì Đảng là người lãnh đạo toàn diên, chỉ có đoàn kết nhất trí cao trong
Đảng thì mới có thể tập hợp đoàn kết các tầng lớp khác. Đây là một quan điểm luôn
được HCM quan tâm và đã khắc ghi trong di chúc thiêng liêng của Người “Đoàn
kết là cực kỳ quí báu của Đảng ta. Các đồng chí từ TW đến cơ sở phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đoàn kết trong nước (toàn dân) là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng, đoàn kết toàn dân là đoàn kết tất cả những người Viêt Nam yêu nước, không
phân biêt tôn giáo, sắc tộc, đảng phái, lứa tuổi… thể hiên trong đường lối tập hợp
lực lượng, xác định lực lượng cách mạng rất rộng rãi, bao gồm không chỉ nhân dân,
công nhân, nông dân mà còn cả tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, trung
địa chủ, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc được biểu hiên thông qua lời kêu gọi toàn dân
(đặc biêt là lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến).
Tư tưởng đoàn kết quốc tế được HCM rất coi trọng, mặc dù yếu tố nội lực
là chính, nhưng cũng phải đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
phong trào giải phóng dân tộc và đoàn kết với phong trào hòa bình, dân chủ thế
giới. Bởi vì trong thời đại mới, kẻ thù mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước là
một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới, cho nên lực lượng cách mạng không
thể là một lực lượng của một dân tộc mà là phải có lực lượng to lớn của quốc tế
đồng tình ủng hộ.
Tư tưởng ĐĐK HCM phải được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm
lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Trong
XH, dân tộc và quốc tế có rất nhiều mối quan hê lợi ích chồng chéo: giữa cá nhân
và tập thể, giữa gia đình và XH, giữa bộ phận và toàn thể, giữa giai cấp và dân tộc,
giữa quốc gia và quốc tế. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hê lợi ích này
sẽ dẫn đến có đoàn kết hay không đoàn kết. Giải quyết đúng mối quan hê dân tộc,
giai cấp HCM phát huy những điểm tương đồng để tập hợp lực lượng cách mạng và
khắc phục những hạn chế, những điểm khác biêt và mâu thuẫn giữa các quốc gia và
các bộ phận. Tư tưởng ĐĐK HCM dựa vào dân, tin tưởng vào dân, vai trò và khả
năng cách mạng của nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
18
kết của nhân dân, cho nên Đảng và Nhà nước ta phải dựa vào dân, phải lấy dân làm
gốc và coi nhân dân là mục tiêu của đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Tư
tưởng ĐĐK toàn dân HCM được xây dựng trên nguyên tắc lấy liên minh công,
nông, trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì nó đảm bảo tính giai cấp
của khối ĐĐK, bảo đảm lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên cơ sở
liên minh công nông làm nòng cốt. Liên minh công nông còn là xương sống của
khối ĐĐK, nhằm đảm bảo vững chắc của khối ĐĐK dân tộc.
Khối ĐĐK của chúng ta là một tập hợp các lực lượng XH có định hướng
chính trị rõ rêt và có tổ chức chặt chẽ, tổ chức cao nhất là mặt trận dân tộc thống
nhất có sự lãnh đạo của Đảng CS Viêt Nam, nó vừa là vấn đề lâu dài và chiến lược,
nhưng cũng không được tuyêt đối hóa vai trò liên minh và mặt trận.
Tư tưởng ĐĐK HCM được xây dựng trên các ph.pháp cụ thể sau:
Phương pháp tuyên truyền giáo dục và vận động quần chúng: yêu cầu
phương pháp này là nội dung, cách thức tuyên truyền, giáo dục và vận động quần
chúng phải thật sự khoa học nhằm mục đích làm cho mọi người tự nhận thức được
sự cần thiết phải tập hợp lại, đoàn kết lại để tự giác tham gia gánh vác công viêc
của cách mạng. Vì muốn cho dân làm cách mạng phải cho dân hiểu, dân tin và vận
động quần chúng thì phải nói đi, nói lại nhiều lần. Nội dung tuyên truyền phải cụ
thể hóa đường lối chính sách của Đảng và của Nhà nước thành những mục tiêu
chính trị cụ thể để đáp ứng nguyên vọng của nhân dân, nội dung phải sát hợp đối
tượng nhằm đánh vào tâm lý thói quen, công viêc tuyên truyền phải thích hợp,
cách nói và cách viết phải cụ thể làm cho nhân dân dễ hiểu.
Phương pháp XD và kiên toàn hê thống chính trị tức là xây dựng mặt trận
dân tộc thống nhất từ thấp đến cao phù hợp với trình độ của quần chúng nhân dân.
Mặt trận là tổ chức rộng rãi liên quan đến viêc tập hợp, đoàn kết dân tộc. Do vậy
mặt trận dân tộc càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối ĐĐK mạnh
mẽ và bền chặt bấy nhiêu, mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, có ch.trình
hành động rõ ràng đáp ứng yêu cầu và nguyên vọng của nh.dân, cán bộ đoàn thể
phải gương mẫu, phải yêu dân, tin dân, học hỏi nhân dân và kính trọng nhân dân.
Phương pháp kế hoạch đồng bộ các giải pháp ứng xử nhằm mở rộng tối đa
lực lượng cách mạng và thu hẹp tối đa lực lượng đối địch. Theo HCM, chia lực
lượng thành ba tuyến (tuyến cách mạng, tuyến trung gian và tuyến phản cách
mạng). Đối với lực lượng cách mạng phải phát huy điểm tương đồng để tập hợp lực
lượng; đối với lực lượng trung gian phải khơi gợi lòng yêu nước, xóa bỏ mặc cảm,
hợp tác và trọng dụng họ một cách trung thành; đối với lực lượng phản cách mạng
phải chia rẽ, phải phân tán họ để thu hút những bộ phận nào có thể thu hút được.
Thực tiễn cách mạng Viêt Nam trong những năm qua thể hiên sức sống kỳ
diêu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng ĐĐK HCM. Từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ
19
kính yêu trở thành chiến lược ĐĐK của Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh của
cả dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc sâu xa của thắng lợi trong cách mạng Tháng
8 năm 1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu nước (19541975).
Bước vào c.cuộc đổi mới, ĐCS Viêt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu
sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng ĐĐK HCM.
Đặc biêt là những năm đổi mới vừa qua càng cho phép Đảng và nhân dân
ta nhận thức rõ ràng, lúc nào, nơi nào tư tưởng ĐĐK HCM được quá trình và thực
hiên đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ thuận lợi; lúc nào, nơi
nào xa rời tư tưởng ĐĐK HCM thì khi đó, nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn,
tổn thất. Đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta thể hiên sâu sắc
sự quá trình tư tưởng ĐĐK HCM: “thực hiên ĐĐK các dân tộc, tôn giáo, giai cấp,
tầng lớp, thành phần KT , mọi giới , mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người
trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi
thành viên trong đại gia đình dân tộc Viêt Nam dù sống trong nước hay ở nước
ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí
tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập , thống nhất ,
vì dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng;
tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc , xóa bỏ
mặc cảm, định kiến, phân biêt đối xử về quá khứ, hướng tới tương lai. Khối ĐĐK
toàn dân trong mặt trận Tổ quốc Viêt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu
rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức.
Xây dựng khối ĐĐK toàn dân gắn với viêc phát huy dân chủ trong đời
sống XH dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiên dân chủ trên các lĩnh vực chính trị,
KT, văn hóa, XH ở tất cả các cấp các ngành.”(VK NQĐH IX – trang 123,124).
Hiên nay, chúng ta đang đứng trước những vận hội mới đồng thời cũng có
những thách thức mới. Những vận hội và thách thức đó tác động hàng ngày hàng
giờ đến khối ĐĐK dân tộc. Để tiến lên chúng ta chỉ có con đường là phải kiên trì,
vững vàng, quán triêt và thực hiên tư tưởng ĐĐK HCM , đồng thời chúng ta cũng
phải đổi mới, phát triển những nội dung , phương pháp ĐĐK HCM cho phù hợp với
sự vận động , biến đổi của đời sống KT XH trong nước và thế giới. Kế thừa, phát
triển tư tưởng ĐĐK HCM trong sự nghiêp đổi mới đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
sâu sắc toàn diên tất cả các vấn đề chính trị, KT, XH và quốc tế. Trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiêp hóa hiên đại hóa đất nước cần luôn luôn quán triêt và vận dụng
sáng tạo tư tưởng HCM về ĐĐK DT.
20