Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.71 MB, 199 trang )

Header Page 1 of 148.

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HÒE

NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN THÀNH

HÀ NỘI - 2015

Footer Page 1 of 148.


Header Page 2 of 148.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là
trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.


Tác giả luận án

Trần Thị Hòe

Footer Page 2 of 148.


Header Page 3 of 148.

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền

6

con người
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người

6
15

1.3. Những giá trị của các công trình liên quan đến luận án và những vấn đề
đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu


23

Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

26

2.1. Quyền con người và bảo đảm quyền con người

26

2.2. Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người - Tầm quan trọng và
biểu hiện

43

Chương 3: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

63

3.1. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đến nhà nước trong việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam

63

3.2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người
trong điều kiện hội nhập quốc tế


76

3.3. Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện
hội nhập quốc tế hiện nay - Những vấn đề đặt ra

104

Chương 4: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

112

4.1. Một số quan điểm cơ bản

112

4.2. Một số giải pháp chủ yếu

122

KẾT LUẬN

152

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


156

PHỤ LỤC

166

Footer Page 3 of 148.


Header Page 4 of 148.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Footer Page 4 of 148.

HNQT

:

Hội nhập quốc tế

HTQT

:

Hợp tác quốc tế

KTTT


:

Kinh tế thị trường

LHQ

:

Liên hợp quốc

QCD

:

Quyền công dân

QCN

:

Quyền con người

TCH

:

Toàn cầu hóa

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


Header Page 5 of 148.

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con người (Human Rights) (QCN) là giá trị cao quý, là thành quả đấu
tranh chung của toàn nhân loại chống lại áp bức, bất công. Do đó, bảo đảm QCN trở
thành khát vọng của loài người, là giá trị cơ bản mà các chế độ xã hội luôn hướng tới.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vấn đề bảo đảm QCN cũng được nhận
thức và thực hiện tốt hơn với những giá trị, chuẩn mực về QCN ngày càng được mở
rộng. Tuy nhiên tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử, chế độ kinh tế, chính trị, quan điểm giai
cấp khác nhau... mà những chuẩn mực, nguyên tắc bảo đảm QCN khác nhau. Do vậy,
bên cạnh những giá trị chung, phổ biến về QCN, khó có một quan niệm thống nhất về
QCN và bảo đảm QCN, nhất là trong điều kiện trên thế giới đang tồn tại đa dạng các
nhà nước với các giai cấp với những chế độ chính trị vì những mục tiêu, lợi ích khác
nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong quan điểm chính trị, cách tổ chức, thực thi quyền
lực của các nhà nước cụ thể.
Ngày nay, toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập quốc tế (HNQT) là một xu thế tất yếu
đối với các quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình TCH và HNQT
đã làm cho các quốc gia "xích" lại gần nhau hơn, tạo ra các điều kiện và cơ hội thuận
lợi hơn cho sự phát triển vì sự tiến bộ chung của nhân loại, góp phần quan trọng vào
việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN. Tuy nhiên, TCH và HNQT cũng nảy sinh
nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tình trạng
mâu thuẫn giữa các dân tộc do sự chênh lệch, bất công về cơ hội, điều kiện trong việc

chiếm lĩnh các nguồn lực để thực hiện và phân chia hệ thống lợi ích xã hội; trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia dân tộc trong hội nhập;
những mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong một nhà nước cụ thể đang cản trở cuộc
đấu tranh vì những lợi ích chung cho xã hội, vì tiến bộ xã hội... dẫn tới phạm vi và mức
độ bảo đảm, thực hiện QCN ở các quốc gia có khác nhau. Giải quyết vấn đề này mỗi nhà
nước có quan điểm, nguyên tắc riêng về bảo đảm QCN vì sự phát triển chung của xã hội
và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, nhà nước Việt Nam đã nhận thức ngày càng sâu sắc và tham
gia tích cực vào quá trình đấu tranh để bảo vệ QCN trên phạm vi quốc tế vì sự phát triển
chung của nhân loại và bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự tham gia ngày càng tích cực vào các
tổ chức quốc tế bảo vệ và đấu tranh cho QCN, quyền tự quyết của các dân tộc, chống

Footer Page 5 of 148.


Header Page 6 of 148.

2

phân biệt chủng tộc, đảm bảo phân chia lợi ích giữa các quốc gia... đã cho thấy vai trò
của Việt Nam trong thế giới hiện nay.
Theo Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhiều chủ thể,
trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng. Bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhà
nước và là vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động của nhà nước. Nguyên tắc này
đã được khẳng định trong Lời nói đầu Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ (1776), rằng: "quyền lực chính đáng của các chính phủ phải xuất phát từ sự nhất trí
của nhân dân" [124, tr.15]. Chính phủ đó phải "dựa trên nền tảng của những nguyên tắc
và tổ chức quyền lực theo cách thức mà nhân dân thấy thích hợp nhất để đảm bảo an
ninh và hạnh phúc cho họ" [124, tr.15] và nếu chính phủ nào "đối nghịch" hoặc không
đáp ứng được yêu cầu trên thì nhân dân "có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ nó"để thiết lập

một chính phủ mới"…
Ở Việt Nam, tư tưởng về một chính quyền của dân, bảo vệ các quyền của dân đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nếu để dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi;
Nếu để dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi; Nếu để dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi" [85, tr.572]. Do đó, ngay từ Hiến
pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, việc tôn
trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động của Nhà nước.
Quán triệt nguyên tắc này, bảo đảm QCN đã trở thành một trong những mục tiêu
đầu tiên và quan trọng hàng đầu của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội củ
nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Chính vì vậy, trong việc hoạch định các chính sách phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại..., Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn
đề con người và bảo đảm QCN vào vị trí trung tâm và là mục tiêu quan trọng nhằm
hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
Nhiệm vụ "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia ký kết" [30, tr.76] được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và
"Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do của mỗi người [33, tr.85] tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định chủ trương đúng đắn về định vị trí, vai trò, trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, xác định nguyên tắc bảo vệ các QCN
của công dân trước quyền lực chính trị của nhà nước.

Footer Page 6 of 148.


Header Page 7 of 148.

3


Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong việc thực hiện xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; tổ
chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm
QCN; tham gia hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực QCN...
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội đã đem lại cho chúng ta những
kinh nghiệm quý báu về tổ chức nhà nước, về phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối
với việc bảo đảm các QCN. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc bảo đảm QCN của
Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực pháp luật, nhiều quy định của pháp luật
còn chồng chéo, bất cập, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với Hiến pháp, khó triển
khai trong thực tiễn.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về QCN cho người dân và đội ngũ cán bộ công
chức mang tính hình thức, nặng về lý thuyết, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, bên cạnh
đó, nhận thức và am hiểu về QCN của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, gây trở
ngại cho việc thực hiện QCN của người dân.
Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, một số cơ quan còn chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của
đổi mới và hội nhập. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trách nhiệm, vô cảm, thậm chí vi
phạm nghiêm trọng các QCN của người dân của một số cán bộ, công chức, gây bức
xúc trong xã hội, tạo kẽ hở cho một số thế lực thù địch coi đó là lý do để vu cáo Việt
Nam vi phạm QCN.
Hội nhập quốc tế mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội trong việc bảo
đảm QCN, song cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về QCN, gây trở ngại cho
việc bảo đảm QCN của nhà nước. Bởi lẽ, việc tuân thủ các định chế, các nguyên tắc,
các cam kết của các tổ chức quốc tế và khu vực trong quá trình hội nhập làm cho việc
hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm QCN của nhà
nước đứng trước nhiều thách thức.
Ngoài ra, việc phân bổ nguồn lực chưa hợp lý; quy trình ban hành chính sách,
pháp luật về QCN còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy
định của định chế quốc tế cũng như những đòi hỏi của quá trình HNQT. Chất lượng

của chính sách kinh tế, chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của
thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về QCN còn nhiều bất cập, lúng

Footer Page 7 of 148.


Header Page 8 of 148.

4

túng... Thực tế này đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết, can thiệp ở mức độ nhất định
nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất cho mục tiêu bảo đảm QCN.
Từ những hạn chế, bất cập kể trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận về nhà nước
đối với việc bảo đảm QCN; phân tích thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo
đảm QCN trong điều kiện HNQT, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu
quả của Nhà nước đối với việc bảo QCN ở nước ta thời gian tới là một yêu cầu cần
thiết và cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn
vấn đề "Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN
và thực tiễn bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm
và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc
bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về QCN và bảo đảm QCN, luận án tập trung:
- Làm rõ khái niệm quyền con người, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của việc bảo
đảm QCN và những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.

- Làm rõ quá trình HNQT của Việt Nam và những tác động của HNQT đến QCN
và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao tính hiệu quả của Nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án không nghiên cứu toàn bộ lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN mà chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
này dưới góc độ triết học.
- Trong phần thực trạng, luận án chỉ giới hạn khảo sát thực trạng Nhà nước Việt
Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT (từ 1995 đến nay).

Footer Page 8 of 148.


Header Page 9 of 148.

5

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo đảm QCN; những vấn đề lý
luận và thực tiễn về nhà nước đối việc bảo đảm QCN. Luận án có kế thừa một số kết
quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học khác liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương pháp lô-gíc và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê và so sánh, trừu tượng và cụ thể

và một số phương pháp khác.
4. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của
nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.
- Trên cơ sở phân tích về những tác động của HNQT đến QCN và nhà nước đối
với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, luận án phân tích và làm rõ thực trạng Nhà nước
Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN (những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân) và
những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao tính hiệu quả của
Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Những kết luận rút ra trong luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những người hoạch định chính sách và quản lý xã hội khi đề xuất, đánh giá, xem xét và
giải quyết các vấn đề có liên quan đến QCN, bảo đảm QCN, nâng cao tính hiệu quả
của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về QCN
và các vấn đề khác có liên quan.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên
quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu
gồm 4 chương, 10 tiết.

Footer Page 9 of 148.


Header Page 10 of 148.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về QCN, những vấn đề lý luận và thực tiễn
bảo đảm QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN đã và đang là đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và các nhà khoa học trong và
ngoài nước. Vì vậy, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản, thể hiện tập trung ở
các nội dung sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người
Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về QCN của
nhiều học giả trong và ngoài nước, tiêu biểu là cuốn sách Quyền con người của Jacques
Mourgon, giáo sư trường đại học khoa học xã hội Toulouse (Pháp) [60]. Bằng việc
phân tích bản chất của con người và QCN, tác giả khẳng định QCN là trung tâm của
chính trị và trung tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con người, nhưng QCN
cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con người. Quyền con người là "những
đặc quyền" được các quy tắc điều khiển mà con người "giữ riêng" lấy trong các quan
hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Như vậy, QCN trước hết là các
quyền cố hữu, tự nhiên con người sinh ra đã có (cả thể xác và tư tưởng) và các quyền
này được sử dụng trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính
quyền. Trên cơ sở khái niệm QCN, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để
bảo đảm, thực hiện QCN như: sự công nhận quyền trong các điều ước quốc tế về QCN;
sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế kiểm soát các quyền
nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước
bảo đảm QCN và sự phụ thuộc của các quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nước.
Giáo sư Hoàng Nam Sâm, trường đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung Quốc trong
bài "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn hóa Trung Quốc" (2002) cho
rằng: "Quyền con người là những quyền cơ bản mà con người sinh ra đã được hưởng,
bao gồm trước hết là quyền được sống và quyền được phát triển; sau đó là các quyền

khác" [98, tr.40], chẳng hạn như "quyền được tham gia các hoạt động chính trị, xã hội,
trong đó quyền bình đẳng là quan trọng nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi
người có thể sống như một cá nhân độc lập và quan hệ giữa con người với con người
là bình đẳng, xét trên phương diện nhân phẩm" [98, tr.40]. Để có được một học thuyết

Footer Page 10 of 148.


Header Page 11 of 148.

7

về QCN, tác giả cho rằng phải được thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về
QCN; thứ hai là tư tưởng về QCN; thứ ba là QCN dưới góc độ pháp lý; thứ tư là khái
niệm QCN và thứ năm là học thuyết về QCN. Tác giả cũng khẳng định việc Trung
Quốc thực hiện cải cách, mở cửa đã đưa sự phát triển về QCN sang một giai đoạn mới.
Bằng việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền, các QCN của người dân
Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập thể kết hợp hòa quyện
với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện mức sống của người dân.
Bài viết "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh vì
quyền con người trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng định: "Quyền
con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận xã
hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và
giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội" [48, tr.231]. Theo
tác giả, QCN nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, do đó,
QCN trước hết là quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển
QCN, sự cải thiện mối quan hệ QCN là quá trình lâu dài trong lịch sử, tự do và bình
đẳng trừu tượng không phải là thước đo thông dụng đối với QCN mà chỉ là tiêu chí để
đánh giá mức độ phát triển của QCN mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc
bảo đảm QCN và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và

biện chứng với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về QCN cũng như
các cơ chế, thiết chế bảo vệ QCN.
Ở nước ta, việc nghiên cứu QCN được bắt đầu từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ là bước đầu và chưa được
xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là thời gian đánh dấu sự "bùng nổ"
về hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy
hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi
bổ sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư về Vấn đề
quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta. Hiến pháp 1992, Hiến pháp
của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm QCN được quy định tại điều 50, thể
hiện sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong nhận thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự
kiện này khẳng định việc đánh giá một cách chính thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam
với vấn đề QCN, tạo nền tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy và tổ chức thực hiện bảo đảm các QCN ở Việt Nam.

Footer Page 11 of 148.


Header Page 12 of 148.

8

Trong Chương trình "Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, QCN đã trở thành đối tượng nghiên cứu cấp
nhà nước. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong
sự nghiệp đổi mới đất nước", do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân
tích những vấn đề lý luận về QCN như: khái niệm QCN, lịch sử phát triển của QCN,
những nội dung cơ bản của QCN; thực trạng việc vi phạm QCN trên thế giới cũng như
các điều kiện đảm bảo QCN [43]. Từ đó đến nay, vấn đề QCN được nhiều học giả tập
trung nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố có giá trị cả về mặt lý
luận và thực tiễn trên hầu hết lĩnh vực của QCN, như đề tài khoa học cấp bộ "Quan

điểm C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con người", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997)
[46]; đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người", Cao Đức Thái chủ nhiệm
(1998) [104]; đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con
người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm [119],
đề tài "Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người", Hoàng Mai Hương chủ nhiệm (2009)
[58]; đề tài "Tư tưởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý cơ bản",
Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) [101]. Các công trình trên đã tập trung phân tích
những vấn đề lý luận cơ bản về QCN: nguồn gốc của QCN, khái niệm QCN, các quan
điểm, luận điểm khác nhau về QCN trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin về QCN; tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN cũng như các điều kiện cần thiết để bảo
đảm QCN và khẳng định: QCN là một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính
giai cấp; nó là sản phẩm của phương thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nước và
pháp luật, được bảo vệ bằng pháp luật; được thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phương pháp luận cho
việc triển khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về QCN.
Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về QCN đã được
công bố như: "Quyền con người trong thế giới hiện đại", tác giả Phạm Khiêm Ích và
Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) [59], sách "Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới
hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên [111]; sách tham khảo "Góp phần tìm hiểu
quyền con người" (2006) của tác giả Phạm Văn Khánh [61]; sách "Triết học chính trị
về quyền con người" (2006) của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh; "Quyền con người, tiếp cận
đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tư tưởng
về quyền con người, Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội [64], "Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc

Footer Page 12 of 148.


Header Page 13 of 148.

9


gia" (2011) của Hội đồng Lý Luận Trung ương [55], "Quyền con người, lý luận và
thực tiễn" (2014) của Viện NC quyền con người [139],... Mặc dù cách tiếp cận và phân
tích có khác nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái
niệm QCN, bản chất đặc trưng của QCN, nội dung các quyền cơ bản của con người
cũng như các điều kiện, cơ chế bảo đảm QCN...
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn giáo
trình giảng dạy về QCN. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về quyền con người" do Viện
nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên
soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người" của Khoa luật, Đại học
quốc gia (2009) [63]... Mặc dù cách tiếp cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung,
các giáo trình này đều tập trung giới thiệu về những vấn đề lý luận của QCN như: khái
niệm QCN; đặc trưng cơ bản của QCN; nội dung cơ bản của QCN; sự phát triển QCN
trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về QCN; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về QCN;
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QCN; phân tích
các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh "Ngày
nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên
tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con
người. Tuy nhiên, việc bảo đảm các quyền con người hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong
khuôn khổ quốc gia, trong thẩm quyền pháp lý của các nhà nước" [138, tr.126]. Vì vậy,
các quốc gia đều có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi QCN theo quy định
của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám sát quốc
tế và phải tuân thủ các công ước mà quốc gia đã ký kết, gia nhập....
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người
- Về khái niệm bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN,
tuy nhiên phần lớn các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc
bảo đảm QCN, còn vấn đề lý luận bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập. Tác
giả Lê Hồng Sơn trong bài "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành và hoạt
động của các cơ chế bảo đảm quyền con người" cho rằng: "Bảo đảm quyền con người
là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế,

chính trị, văn hóa, pháp luật trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tâm quan trọng hàng
đầu" [99, tr.123]. Điều đó có nghĩa bảo đảm QCN không thực hiện một cách đơn lẻ mà
phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau, vấn đề là phải tạo ra các điều
kiện để việc bảo đảm QCN được thực hiện.

Footer Page 13 of 148.


Header Page 14 of 148.

10

Khái niệm bảo đảm QCN còn được đề cập đến trong một số bài viết như: "Bảo
đảm quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính" (2009) của tác giả Lê
Thị Hồng Nhung, [90]; "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân" (2014) của Hoàng Hùng Hải [41]. Tác giả Hoàng Hùng Hải cho rằng:
"Bảo đảm quyền con người là hoạt động của các chủ thể thực hiện một hệ thống các
điều kiện và biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật hướng tới việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức" [41, tr.1]. Như vậy, bảo đảm
QCN theo tác giả là hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm tạo ra các điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện QCN.
Ngoài ra có công trình không đề cập trực tiếp về khái niệm bảo đảm QCN mà tập
trung bàn về các điều kiện bảo đảm QCN. Chẳng hạn, nhóm tác giả đề tài "Các điều
kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước"
[43] cho rằng, bảo đảm QCN gắn liền với dân chủ, nhà nước pháp quyền, pháp luật,
dân trí, thông tin, kinh tế..., trong đó nhấn mạnh: dân chủ gắn bó hữu cơ với nhân
quyền và là công cụ, phương tiện bảo đảm và phát triển QCN. Mỗi nấc thang của dân
chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất lượng của QCN. Pháp luật là
phương tiện để ghi nhận các QCN, là một trong những điều kiện quan trọng nhất để
QCN được thực hiện.

Tác giả Nguyễn Thị Báo trong bài viết "Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay" (2009) cho rằng, "các quyền con người
chỉ được bảo đảm và thực hiện khi bảo đảm được các điều kiện bảo đảm về chính trị;
về mặt thể chế; về nguồn lực kinh tế và về văn hóa" [6, tr.121]. Trên cơ sở phân tích
các điều kiện bảo đảm QCN, tác giả nhấn mạnh: "sự hiện diện ở tất cả các điều kiện
bảo đảm quyền con người trên chỉ có thể được bảo đảm khi có sự vận hành của các cơ
quan trong tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp" [6, tr.121]. Như vậy, theo tác giả, bảo bảo đảm QCN cần có hai yếu
tố, thứ nhất là các điều kiện để bảo đảm QCN; thứ hai, cơ chế bảo đảm QCN.
- Về thực tiễn bảo đảm QCN, đã có nhiều công trình được công bố, trong đó phải
kể đến công trình nghiên cứu "Hiến pháp, pháp luật và quyền con người- Kinh nghiệm
Việt Nam và Thụy Điển", do Trung tâm NC quyền con người Việt Nam và Viện Raoul
Wallenberg Thụy Điển thực hiện (2001). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các học
giả hai nước về cơ chế bảo đảm QCN, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc bảo
đảm QCN, những thành tựu bảo đảm QCN ở Việt Nam và Thụy Điển. Bằng những lập

Footer Page 14 of 148.


Header Page 15 of 148.

11

luận khoa học và các dẫn chứng sinh động về thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam
những năm qua, tác giả Hoàng Văn Hảo nhấn mạnh "Việt Nam đã đạt được những
thành tựu rất to lớn, rất cơ bản trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân. Đó là
quyền sống trong độc lập, tự do. Phạm vi quyền ngày càng được mở rộng theo tiến
trình phát triển của đất nước, đặc biệt là, chúng ta đã giải quyết thành công một khối
lượng lớn các vấn đề xã hội" [125, tr.153-154].
Bài viết "Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt

ra hiện nay" của tác giả Đặng Dũng Chí (2014) tập trung phân tích thực tiễn việc bảo
đảm QCN của Việt Nam như quyền bầu cử ứng cử; quyền tự do lập hội; quyền tự do
ngôn luận, báo chí, thông tin; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền giáo dục; quyền
chăm sóc sức khỏe; quyền phụ nữ, trẻ em...Tác giả khẳng định "Những thành tựu đạt
được trên lĩnh vực quyền con người trong thời gian qua tạo nền tảng vững chắc để
chúng ta giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực nhân quyền trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" [19, tr.270].
Bài viết "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con người trong thời
kỳ đổi mới", tác giả Tạ Ngọc Tấn (2014) đã phân tích những thành tựu về QCN mà
Việt Nam đạt được như: (1) Khẳng định QCN là bản chất của chế độ XHCN, là mục
tiêu của Nhà nước và là động lực của sự phát triển đất nước; (2) Hình thành được
những quan điểm cơ bản về QCN làm cơ sở cho việc xem xét, thực hiện QCN ở Việt
Nam; (3) Xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong việc thực thi QCN ở Việt
Nam....Đánh giá về những thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam, tác giả nhấn
mạnh: "Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang giải quyết thành công những nhiệm
vụ đặt ra trên lĩnh vực quyền con người trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
vừa bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam,
vừa góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nhân quyền quốc tế" [103, tr.10]. Những
thành tựu đó có ý nghĩa to lớn, không chỉ thể hiện sự kiên định lựa chọn con đường
XHCN của Đảng ta, mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của các lực lượng tiến bộ
và cách mạng trên thế giới.
Ngoài các công trình trên, nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn bảo đảm QCN
của các nhóm cụ thể. Chẳng hạn, trên lĩnh vực dân sự, chính trị, công trình: "Một số
vấn đề về quyền dân sự, chính trị" (1999) do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ
biên [45], đề tài "Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị trong pháp luật và thực tiễn ở
Việt Nam" (2010), Tường Duy Kiên chủ nhiệm [68], sách "Những vấn đề lý luận và

Footer Page 15 of 148.



Header Page 16 of 148.

12

thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên
[143]…Các công trình này đã tập trung phân tích cơ chế bảo đảm QCN, quan điểm của
Đảng, chính sách của Nhà nước ta về quyền dân sự, chính trị; phân tích các quy định
của pháp luật quốc tế và quốc gia về các quyền dân sự, chính trị và thực tiễn thực hiện
quyền dân sự, chính trị trên các lĩnh vực: khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận, tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, tự do báo chí, thông tin, bầu cử ứng cử, quyền bình đẳng trước pháp
luật cũng như cơ chế bảo đảm quyền dân sự, chính trị... từ đó đề xuất một số giải pháp,
kiến nghị nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền dân sự, chính trị ở nước ta.
Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, sách "Một số vấn đề về quyền kinh tế, xã
hội", do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên (1996) [44]; đề tài khoa học
cấp bộ "Thành tựu về thực hiện quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam" (2001) do
Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm [47]; sách tham khảo "Bảo vệ và thúc đẩy quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam", Nhà xuất bản Lao động xã
hội ấn hành (2011) [52]… Các công trình này tập trung phân tích những quy định pháp
luật quốc tế và quốc gia về kinh tế, xã hội, văn hóa; đánh giá thực trạng những thành
tựu, hạn chế trong việc thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (quyền giáo dục;
quyền lao động, việc làm; quyền an sinh xã hội; quyền chăm sóc sức khỏe…). Từ đó
đề xuất các giải pháp, kiến nghị bảo đảm tốt hơn các quyền trên như: hoàn thiện pháp
luật về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường các chính sách, chương trình và hành
động hỗ trợ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là các nhóm xã
hội dễ tổn thương,huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng;
cần tích cực chủ động trong việc tuyên truyền, giáo dục về các kinh tế, xã hội, văn hóa
làm cho tất cả các cơ quan, viên chức nhà nước và toàn thể nhân dân....
Về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, đã có nhiều công trình được triển khai
nghiên cứu như: sách "Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã
hội dễ bị tổn thương" (2007) của nhóm tác giả Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao,

Tường Duy Kiên biên soạn [112]; đề tài nghiên cứu "Những cản trở trong việc bảo
đảm quyền của nhóm người dễ bị tổn thương" (2011) do Trần Thị Hòe chủ nhiệm [53];
"Dự án điều tra cơ bản việc thực hiện quyền công dân của nhóm yếu thế tại các tỉnh
miền núi Phía Bắc" (2014) do Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm [102]… Các công trình trên
tập trung phân tích những thành tựu, hạn chế trong việc bảo vệ quyền của nhóm xã hội
dễ tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người có HIV, người khuyết tật, người cao tuổi, người
nghèo, người dân tộc thiểu số…), phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn

Footer Page 16 of 148.


Header Page 17 of 148.

13

chế, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp bảo đảm tốt hơn quyền của các
nhóm xã hội trên như: (1) Hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, chính sách về
quyền của nhóm dễ tổn thương, (2) Đổi mới bộ máy, cơ chế hoạt động của cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ và thực hiện quyền của các nhóm dễ tổn thương, (3) Chú
trọng đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý, thực
thi việc bảo vệ quyền của các nhóm dễ tổn thương, (4) Đẩy mạnh thông tin, truyền
thông và giáo dục nhằm thay đổi hành vi trong việc thực hiện công tác bảo đảm quyền
của nhóm dễ tổn thương...
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong điều
kiện hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vậy
HNQT đã và đang tác động đến QCN và vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN
như thế nào? Trả lời câu hỏi này, tác giả Kieren Pitzpatrick, trưởng ban thư ký của Asia
Pacific Forum có bài viết "Toàn cầu hóa, thương mại và nhân quyền" (2004). Bằng
những số liệu khảo sát từ nhiều quốc gia, tác giả khẳng định TCH đã và đang là "thách

thức đối với việc tuân thủ quyền con người". Bởi lẽ, TCH đã làm cho khoảng 400 triệu
người trên thế giới phải đối mặt với nạn thiếu lương thực, thất nghiệp và phân hóa giàu
nghèo ngày càng gia tăng (20% dân số thế giới là những người nghèo nhất nhưng chỉ
chiếm 1,3% mức tiêu thụ cá nhân). Nó giúp các nước giàu được giàu hơn, còn công
bằng xã hội bị chối bỏ nhiều hơn, quyền được làm việc, quyền chăm sóc sức khỏe,
quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục luôn bị đe dọa bởi những tác
động của TCH. Vì vậy, "toàn cầu hóa gây nên phản ứng mạnh mẽ trong xã hội công
dân cũng như các cá nhân trên toàn thế giới. Họ nhận thấy những quyết định ảnh
hưởng đến đời sống của học được đưa ra bởi những tập đoàn hùng mạnh nhưng thiếu
trách nhiệm" [69, tr.215-216]. Do đó, các quốc gia cần phải có những "quy tắc mới cho
các cuộc chơi" toàn cầu nhằm bảo đảm những nhu cầu căn bản của nhân dân như: sức
khỏe, giáo dục, việc làm...
Nghiên cứu về QCN trong TCH và HNQT, tác giả Lưu Kiệt có cách nhìn toàn
diện hơn về tác động của HNQT, trong bài viết "Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới và sự nghiệp quyền con người của Trung Quốc" (2002). Theo tác giả, gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội để Trung Quốc cải thiện và
thúc đẩy QCN. Chẳng hạn, gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ có điều kiện để mở rộng và
bảo đảm các QCN của người dân theo một cách thức hiệu quả hơn, kinh tế tăng trưởng,

Footer Page 17 of 148.


Header Page 18 of 148.

14

các quyền lao động, việc làm, quyền có mức sống thỏa đáng của người dân được cải
thiện và bảo đảm và điều quan trọng là việc tham gia WTO đã tác động đến việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm QCN trên lĩnh vực kinh tế, xã hội của
Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu hợp tác về QCN… Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng đưa

đến cho Trung Quốc nhiều thách thức mới, đó là sự can thiệp của các tổ chức phi chính
phủ vào việc bảo vệ QCN cũng như việc đặt ra hàng loạt các QCN mới đòi hỏi chính
phủ phải giải quyết như: bảo vệ quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Trung
Quốc; bảo vệ quyền có việc làm của người dân trong các công ty đa quốc gia; vấn đề
về tiêu chuẩn lao động tối thiểu; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quyền thành lập công
đoàn của người lao động… Do đó, gia nhập WTO, cơ hội bảo đảm và thúc đẩy QCN,
nhưng thách thức cũng không nhỏ, vì vậy, chính phủ Trung Quốc phải có những chính
sách, bước đi phù hợp để "biến cái tiêu cực thành cái tích cực, tức là chuyển vấn đề này
thành động lực phát triển sự nghiệp quyền con người" [70, tr.479].
Ở Việt Nam, vấn đề TCH với quyền con người và quyền công dân (QCD) đã
được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó, cuốn sách "Toàn cầu hóa và quyền công dân
ở Việt Nam (nhìn từ khía cạnh văn hóa)" (1999), do Trần Văn Bính chủ biên, đã khởi
đầu cho các công trình nghiên cứu được xuất bản tiếp theo. Trên cơ sở phân tích về tính
tất yếu của TCH cũng như các tác động của TCH đến việc thực hiện QCN và QCD,
các tác giả khẳng định, TCH bên cạnh mặt tích cực của nó thì cũng bộc lộ không ít tiêu
cực đến QCN, đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, là những tệ nạn xã hội
nảy sinh tràn lan, là sự du nhập của văn hóa và lối sống vị kỷ của Phương Tây…Theo
nhóm tác giả, "để hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa để khắc phục những yếu kém trước
đây, Nhà nước tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo
định hướng XHCN" [12, tr.25]; xây dựng và hoàn thiện các chính sách xã hội; không
ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân…
Cùng nghiên cứu về tác động của TCH đến QCN, các bài viết: "Toàn cầu hóa,
kinh tế thị trường và nhân quyền", tác giả Cao Đức Thái [106]; "Toàn cầu hóa với việc
bảo đảm quyền con người ở Việt Nam" (2009), tác giả Hoàng Hùng Hải [40]; "Quyền
con người trong bối cảnh toàn cầu hóa", tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, sách "Những vấn
đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự, chính trị" (2009) [57]... Các bài viết
này tập trung đề cập đến tác động của TCH đến QCN. Theo tác giả Cao Đức Thái,
TCH là "cơ hội hiếm có để con người nâng cao nhân phẩm", nhưng đồng thời cũng
"làm hoen ố lương tâm, danh dự, lòng tự trọng, sự khoan dung, lòng nhân ái" của con


Footer Page 18 of 148.


Header Page 19 of 148.

15

người. Toàn cầu hóa bên cạnh việc mở ra cơ hội để con người nâng cao chất lượng
cuộc sống nhưng cũng tạo ra những vấn đề bức xúc đối với QCN, đó là "sự bất bình
đẳng, bất công giữa khu vực với khu vực, quốc gia với quốc gia và cá nhân với cá
nhân" [106, tr.191]. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: TCH không chỉ làm thay
đổi về bức tranh kinh tế mà còn là sự thay đổi về văn hóa trong đó có QCN bởi lẽ, thực
tiễn quá trình TCH làm cho giá trị phổ biến của QCN đang lấn át các giá trị đặc thù.
Toàn cầu hóa "đặt các chính phủ, nhất là ở các nước đang phát triển trước một tình thế
khó xử khi phải đáp ứng cùng một lúc hai thỏa thuận; một là thỏa thuận về bảo đảm và
thực thi QCN nói trên; và hai là thỏa thuận về toàn cầu hóa, yêu cầu nhà nước phải rút
khỏi những hoạt động can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội" [57, tr.48]. Điều này
đòi hỏi các quốc gia phải có sự điều chỉnh chính sách và luật pháp cho phù hợp để vừa
tham gia hội nhập, lại vừa giữ được chủ quyền của mình.
Bàn về tác động của TCH đến QCN, tác giả Hoàng Hùng Hải nhấn mạnh: "toàn
cầu hóa là thời cơ đi liên thách thức trong việc bảo đảm quyền con người" [40, tr.148],
bởi tham gia TCH, các quốc gia có cơ hội mở rộng và hiện thực hóa các QCN, trong đó
có nhiều quyền mới, song nó cũng tạo ra nhiều thách thức và trở ngại trong việc bảo
đảm QCN. Do đó, Việt Nam tham gia vào quá trình TCH cần phải tận dụng được thời
cơ, vượt qua thách thức, bảo đảm tốt hơn các QCN bằng cách: xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
cách tư pháp; mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của các quốc gia
theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi…
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI


1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam
Sách "Quyền lực nhà nước và quyền công dân" (2003) của tác giả Đinh Văn
Mậu tiếp cận QCN từ góc độ tổ chức nhà nước. Theo tác giả, quyền lực nhà nước thực
chất là quyền lực của nhân dân, nhưng nhân dân không thể thực hiện được quyền lực
của mình, mà phải ủy quyền cho nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước do nhân dân
thiết lập và trao quyền. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân và được bảo đảm
thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước. Do vậy, "nhà nước có nghĩa vụ bảo
đảm và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân" [83, tr.88] và "quyền
con người được bảo đảm và thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà

Footer Page 19 of 148.


Header Page 20 of 148.

16

nước như cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân
dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát)" [83, tr.88], trong đó Quốc hội là
cơ quan có vị trí cao nhất, là "trung tâm của cơ chế bảo đảm và thực hiện mối quan hệ
giữa nhà nước và cá nhân công dân". Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp tổ
chức thực hiện mối quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân công dân. Toàn án và Viện
kiểm sát nhân dân là những bộ phận "chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong
pháp luật vào đời sống xã hội qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể". Chính vì vậy, để
ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước trong việc bảo đảm QCN và QCD,
theo tác giả cần hoàn thiện tổ chức Nhà nước, trong đó chú trọng: đổi mới tổ chức thực
hiện thẩm quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính Nhà nước, cải cách tư pháp và
nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân chủ hóa xã hội.
Sách tham khảo "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (2004), tác giả Trần Ngọc Đường tập trung phân tích vai
trò của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Tác giả nhấn
mạnh: những bảo đảm pháp lý trong việc thực hiện QCN bao gồm hệ thống thống nhất
về mặt pháp lý các yếu tố sau: a/ Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ
pháp lý thông qua hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan
hành pháp, thông qua hệ thống cơ quan tư pháp, thông qua mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
b/ Thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; c/ Thông qua hành vi hợp pháp
và trình độ văn hóa pháp lý của mỗi cá nhân công dân. Tác giả nhấn mạnh trách nhiệm
của "cộng đồng quốc tế và Nhà nước thành viên phải ghi nhận và bảo vệ các giá trị của
quyền con người" [35, tr.139] và "muốn đạt được điều đó, bên cạnh hệ thống các quyền
và nghĩa vụ của công dân, phải thiết lập một hệ thống các quyền và nghĩa vụ của Nhà
nước. Đó chính là thiết lập trách nhiệm của các viên chức có chức, có quyền trong bộ
máy Nhà nước" [35, tr.138].
Đề cập đến vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN nhưng trong phạm vi
một quyền cụ thể của con người, Luận án Tiến sỹ "Vai trò của Nhà nước đối việc thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam ở Việt Nam hiện nay" (2002), tác giả
Trần Thị Băng Thanh, đã phân tích vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện quyền
dân chủ, thực trạng vai trò Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân, từ đó đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu

Footer Page 20 of 148.


Header Page 21 of 148.

17

quả tác động của Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân

ở nước ta hiện nay [113].
Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo, bài tạp chí viết về vai trò của Nhà nước trong việc
bảo đảm QCN: bài "Nhà nước, cơ chế bảo đảm quyền con người" (Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 2/2003), tác giả Tường Duy Kiên. Bài viết đã tập trung làm sáng rõ vai
trò của Nhà nước cũng như cơ chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN và khẳng
định: "việc bảo vệ quyền con người, các quyền tự do của công dân là trách nhiệm trước
tiên thuộc về Nhà nước, thông qua họat động thực hiện chức năng của các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước" [65, tr.28]. Điều đó có nghĩa là cơ chế bảo đảm các QCN ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay chính là tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tác giả nhấn mạnh, trong cơ chế bảo đảm
QCN ở Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò trụ cột trong đó, các cơ quan chịu trách
nhiệm chính trong việc bảo đảm QCN gồm: Quốc hội; Chính phủ; các cơ quan Tư
pháp (Tòa án, Viện kiểm sát…). Tuy nhiên, "Nhà nước mới chỉ là một phân hệ trong
hệ thống chính trị", do đó, cơ chế bảo đảm QCN ở nước ta cần xác định rộng hơn, tức
là cả hệ thống chính trị.
Cùng chủ đề này, tạp chí Nghề luật, số 8/2004, tác giả Tường Duy Kiên có bài
viết "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con
người". Theo tác giả, nhà nước đóng vai trò quan trọng, giữ vị trí trụ cột trong việc bảo
đảm QCN và QCD. Để QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tôn trọng
và bảo vệ thì cần phải: a/ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng pháp
luật về quyền con người, quyền công dân; b/ Xây dựng chế độ trách nhiệm của cơ quan
Nhà nước, cán bộ công chức trong quá trình thực thi công vụ; c/ Đảm bảo tính độc lập
của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; d/
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; e/ Đề cao vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự...
Nhận định về vai trò quan trọng của nhà nước trong việc tôn trọng và bảo đảm
QCN, bài viết "Quyền con người và Nhà nước pháp quyền" (2009), tác giả Nguyễn
Trung Tín khẳng định: "...để bảo vệ quyền con người nói chung và thực hiện các cam
kết quốc tế về quyền con người nói riêng, quốc gia phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất
định như: nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện" [121, tr.112].

Nghĩa vụ tôn trọng QCN của quốc gia là đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải kiềm
chế không can thiệp (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào việc hưởng thụ các QCN của cá

Footer Page 21 of 148.


Header Page 22 of 148.

18

nhân. Nghĩa vụ này thường liên quan đến các quyền dân sự, chính trị. Nghĩa vụ thực
hiện của quốc gia đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải có những hành động tích cực
nhằm bảo đảm QCN được thực hiện trên thực tế, tức là đưa các quy định pháp luật về
QCN phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế vào cuộc sống. Nghĩa vụ bảo vệ đặt ra trách
nhiệm của nhà nước phải ngăn chặn các hành vi vi phạm các QCN từ phía các chủ thể
khác (có thể là cá nhân, tổ chức hoặc chính các cơ quan nhà nước) trên tất cả các lĩnh
vực: dân sự, chính trị; kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của nhóm dễ bị tổn thương.
Bài viết "Đảng và Nhà nước ta với quyền con người", tác giả Cao Đức Thái (Tạp
chí quốc phòng toàn dân) (2012) đã khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước trong
việc bảo đảm các QCN của công dân. Nhà nước có trách nhiệm ban hành các chính
sách, đạo luật tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN; tham gia ký kết các Văn kiện
quốc tế về QCN và nội luật hóa các quy định đó vào hệ thống pháp luật Việt Nam.
Phân tích về vai trò của Nhà nước, nhân tố trụ cột trong việc bảo đảm và thực hiện
QCN, tác giả viết "…Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Các quyền cơ bản của mọi người
được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ" [108]. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các
Công ước quốc tế về QCN và luật hóa những công ước đó trong hệ thống pháp luật
quốc gia. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về QCN; các
quyền về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân ta đã được bảo đảm
ngày càng tốt hơn trong thực tế.

Bài viết "Bảo đảm quyền con người thuộc bản chất của Nhà nước ta" của tác giả
Lệ Chi (2012) đã tập trung phân tích những quan điểm, chủ trương và các biện pháp
nhằm bảo đảm QCN của Nhà nước ta, phân tích những thành tựu về QCN mà Nhà
nước Việt Nam đạt được từ khi Đổi mới đến nay và khẳng định, "với bản chất ưu việt
của nhà nước XHCN, bảo vệ QCN, chăm lo cho con người là mục tiêu cao nhất của
Nhà nước Việt Nam" [17].
Khẳng định vai trò nhà nước trong việc bảo đảm QCN, bài viết "Bảo đảm thực
hiện quyền con người ở Việt Nam" của tác giả Võ Văn Ninh (Báo điện tử Đảng cộng
sản Việt Nam) tập trung phân tích những thành tựu về QCN mà Việt Nam đạt được
trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đồng thời khẳng định Nhà
nước Việt Nam đóng vai trò quan trọng và là chủ thể chính trong việc bảo đảm và thực
thi QCN: "Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả và khát
vọng chung của nhân loại...Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động

Footer Page 22 of 148.


Header Page 23 of 148.

19

lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo
và thúc đẩy các quyền con người" [91]. Do đó, để phát huy hiệu quả của Nhà nước
trong việc bảo đảm QCN, Nhà nước cần tích cực ban hành các đạo luật về QCN. Vì
vậy, bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các luật về QCD; xây
dựng, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, xây dựng cơ chế kiểm tra,
giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước; không ngừng
nâng cao mức sống của nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng
xã hội, tạo nền tảng cho phát triển bền vững, bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN…
Cũng đề cập đến vai trò nhà nước trong bảo đảm QCN, bài viết "Cơ chế và các

điều kiện nhằm bảo đảm quyền kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay", trong sách "Một số
vấn đề về quyền kinh tế, xã hội" (1996) [44], tác giả Tường Duy Kiên đã tập trung
phân tích cơ chế, vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền kinh tế, xã hội. Tác
giả nhấn mạnh: Cơ chế bảo đảm là những biện pháp, cách thức tác động của Nhà nước
thông qua việc ban hành các chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện bộ máy, các cơ
quan chuyên trách thực hiện chức năng giám sát đối với tất cả các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội trong những lĩnh vực có liên quan nhằm thúc đẩy, bảo đảm quyền kinh tế,
xã hội của công dân được thi hành trong thực tiễn cuộc sống…Chính vì vậy, trách
nhiệm của nhà nước là phải tạo ra một cơ chế thích hợp để bảo vệ các quyền kinh tế, xã
hội của người dân một cách cao nhất trong khả năng của mình.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người trong điều kiện hội nhập quốc tế
Đề tài cấp bộ "Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế - vấn đề và giải pháp" (2008), do Đặng Dũng Chí chủ nhiệm.
Từ lăng kính nhân quyền, nhóm tác giả cho rằng, TCH và HNQT là cơ hội để các quốc
gia xóa bỏ khoảng cách về địa lý, văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giúp người
dân tiếp cận thông tin, nâng cao trình độ dân trí, tìm kiếm việc làm, cải thiện thu nhập
để thoát khỏi đói nghèo, tạo điều kiện để các quốc gia bảo đảm tốt hơn các quyền kinh
tế, xã hội, văn hóa, đồng thời cũng đặt các quốc gia trước nhiều thách thức, đó là vấn
đề đói nghèo, thất nghiệp, bệnh dịch, khủng bố, chiến tranh nhân danh nhân quyền. Vì
vậy, phát huy vai trò nhà nước trong việc bảo đảm QCN là vấn đề quan trọng hơn bao
giờ hết bởi chỉ nhà nước với vai trò, vị trí, chức năng của mình mới có thể đảm đương
được nhiệm vụ này. Trong điều kiện HNQT, Nhà nước Việt Nam cần: (a) thực hiện
nghĩa vụ đối với các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên; (b) thực thi

Footer Page 23 of 148.


Header Page 24 of 148.


20

tất cả các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm QCN, trong đó chú
trọng cải cách hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện bộ máy thực hiện quyền
hành pháp, hoàn thiện hệ thống tư pháp..; (c) tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục
nội dung các công ước quốc tế về QCN; (d) soạn thảo và đệ trình các báo cáo quốc gia
về QCN; (e) hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực thực hiện công ước về QCN [18]...
Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT còn được đề cập khi
phân tích về nghĩa vụ của các quốc gia thành viên khi tham gia các điều ước quốc tế về
QCN của đề tài cấp bộ "Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia một
số nước ASEAN và Trung Quốc - Kinh nghiệm đối với Việt Nam" do Nguyễn Đức
Thùy chủ nhiệm (2011). Các tác giả khẳng định: Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên
trong việc bảo đảm QCN điều kiện HNQT gồm: (a) Nội luật hóa các quy định của các
điều ước quốc tế về QCN vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, thông qua việc áp
dụng trực tiếp hoặc gián tiếp; (b) Tôn trọng, bảo vệ và thực thi ở mức cao nhất có thể
những quy định, chuẩn mực QCN quốc tế (thông qua hoạch định chính sách, chương
trình hành động); (c) Thúc đẩy việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về QCN cho các
cán bộ công chức cũng như người dân nhằm hạn chế sự vi phạm về QCN từ các cơ
quan và đại diện công quyền; (d) Hợp tác chặt chẽ với các tổ chức liên chính phủ, tổ
chức chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy và bảo đảm QCN; (e) Tiến hành
soạn thảo, đệ trình và báo cáo quốc gia định kỳ kiểm điểm về thực thi những điều ước
quốc tế về QCN, giải trình các vấn đề mà các Ủy ban công ước có liên quan đặt ra, trả
lời kháng thư, tiếp thu các nhận xét, bình luận của các Ủy ban công ước trong việc bảo
đảm, thực thi các nghĩa vụ cam kết quốc tế [120].
Bài viết "Bảo đảm và thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế", tác giả Vũ Hoàng Công (2014). Mặc dù không bàn trực tiếp về vai trò
nhà nước trong việc bảo đảm QCN, song bằng việc phân tích những thành tựu mà Việt
Nam đã đạt được cũng như những khó khăn, thách thức mà Việt Nam gặp phải đối với
việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT, tác giả nhấn mạnh để bảo đảm tốt hơn các
QCN, Nhà nước Việt Nam cần: (1) Chủ động, tích cực tham gia các công ước và diễn

đàn quốc tế về QCN trong phạm vi toàn cầu và khu vực; (2) Tiếp tục hoàn thiện thể
chế pháp lý theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; (3)
Tăng cường pháp chế trong bảo vệ QCN; (4) Tăng cường hợp tác quốc tế, sẵn sàng đối
thoại về QCN, đồng thời đấu tranh với những đòi hỏi và luận điệu phi lý từ bên ngoài;
(5) Tích cực HNQT, lấy sức mạnh kinh tế làm nền tảng lâu dài cải thiện QCN, đồng

Footer Page 24 of 148.


Header Page 25 of 148.

21

thời làm sức hút với quốc tế và ngăn cản các thế lực muốn lợi dụng vấn đề QCN để can
thiệp vào nước ta [22].
Tiếp tục chủ đề trên, tác giả luận án có bài viết "Tác động của hội nhập quốc tế
đến việc bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam hiện nay", (Tạp chí Nhân lực khoa
học xã hội tháng 10/2014). Bài viết phân tích những cơ hội và thách thức đối với việc
bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT và khẳng định, HNQT là một xu thế tất yếu,
khách quan của các quốc gia. Đối với Việt Nam, HNQT đã tạo ra những cơ hội thuận
lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế bảo đảm QCN, thay đổi tư duy pháp lý về QCN,
song nó cũng có nhiều tác động tiêu cực đến QCN như: quyền lao động việc làm,
quyền sống trong môi trường trong sạch, quyền được hưởng an sinh xã hội... Để tồn tại
và phát triển, các nhà nước cần "tận dụng những tác động tích cực, hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của hội nhập quốc tế đến các quyền con người", trong đó, tập trung thực hiện:
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN, sửa đổi, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, nâng cao năng lực cho các chủ thể, tạo điều kiện cho con người thực
hiện đầy đủ các QCN trên các lĩnh vực; hoàn thiện tổ chức bộ máy bảo đảm QCN, tăng
cường cơ chế kiểm tra giám sát việc bảo đảm và thực thi QCN, mở rộng HTQT trên
lĩnh vực QCN, "có như vậy, vai trò và vị thế của nước ta mới không ngừng được nâng

cao trên trường quốc tế" [54, tr.33].
Bàn về phương hướng, giải pháp nâng cao tính hiệu quả của nhà nước đối với
việc bảo đảm QCN, sách chuyên khảo "Chủ nghĩa xã hội và quyền con người" của tác
giả Đặng Dũng Chí và Hoàng Văn Nghĩa (2014) tập trung phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn bảo đảm QCN ở nước XHCN, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá sự phát triển về mặt lý luận và những thành tựu bảo đảm QCN mà Việt
Nam đạt được trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa thời kỳ đổi
mới và hội nhập, nhóm tác giả làm rõ những yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm QCN
trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay, đó là: (1) Hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về QCN; (2) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đổi mới tổ
chức bộ máy của các cơ quan nhà nước; (3) Kiện toàn bộ máy, tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan Tư pháp); (4) Đẩy
mạnh cải cách hành chính Nhà nước; (5) Đẩy mạnh cải cách tư pháp; (6) xây dựng và
hoàn thiện các thiết chế, cơ chế bảo đảm QCN; (7) Tăng cường nâng cao nhận thức
pháp luật về QCN; (8) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường, phát triển văn hóa, chăm lo đến con người và sự phát triển QCN [20].

Footer Page 25 of 148.


×