Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Bài tiểu luận về tài nguyên nước trước biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.56 KB, 8 trang )

Tiểu Luận:
Giải pháp và biện pháp phát triển tài nguyên
nước trước biến đổi khí hậu


Lời mở đầu
Sự biến đổi của khí hậu toàn cầu đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến
tài nguyên nước. Theo đánh giá bước đầu, vào năm 2070 với kịch bản
nhiệt độ không khí tăng thêm 2,5 - 4,5 độ C, lượng dòng chảy sông ngòi
cũng sẽ biến đổi tùy theo mức độ biến đổi của lượng mưa, nếu lượng
mưa giảm 10% thì dòng chảy năm có thể giảm 17 - 53% đối với kịch
bản nhiệt độ không khí tăng 2,5 độ C và giảm 26 - 90% với kịch bản
nhiệt độ không khí tăng 4,5 độ C. Mức độ biến đổi mạnh nhất xảy ra ở
Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Điều này đã hiện hữu tại đây với nạn hạn hán và xâm nhập mặn lịch sử,
đã và đang làm thiệt hại hàng trăm ngàn ha gieo trồng lúa, ước tính 1
triệu người dân ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên bị thiếu nước sinh hoạt. Ngoài ra, trái đất nóng lên sẽ làm
cho nước biển có thể dâng cao thêm 0,3 - 1,0 m, do đó nhiều vùng thấp
ở Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và ven
biển Trung Bộ sẽ bị ngập chìm trong nước biển. Nếu nước biển dâng 1
m, diện tích ngập lụt là 40.000 km vu ông, chủ yếu ở Đồng bằng sông
Cửu Long, 1.700 km vuông vùng đất ngập nước cũng bị đe dọa và 17
triệu người sẽ chịu hậu quả của lũ lụt.
Sự cạn kiệt, ô nhiễm cũng như sự khan hiếm nguồn nước sẽ càng trầm
trọng nếu không có các biện pháp quản lý tốt tài nguyên nước. Cũng vì
lẽ đó, người ta cho rằng khủng hoảng nước hiện nay không chỉ do nước
quá ít không đủ để thoả mãn nhu cầu của con người, mà còn do sự quản
lý nguồn nước quá kém. Khan hiếm và thiếu nước là mối đe doạ rất
nghiêm trọng đối với sự tồn tại của con người trong tương lai. Bởi vậy
cần có các giải pháp quản lý, khai thác và bảo vệ tốt tài nguyên nước.


Trước hết, cần phải củng cố, bổ sung mạng lưới điều tra quan trắc tài
nguyên nước, bao gồm cả nước mặt và nước dưới đất, cả lượng và chất,
hình thành mạng lưới quan trắc điều tra tài nguyên nước thống nhất
trong phạm vi cả nước, tiến hành kiểm kê đánh giá tài nguyên nước
trong các lưu vực sông, các vùng và toàn lãnh thổ. Trên cơ sở kiểm kê


đánh giá tài nguyên nước và cân bằng kinh tế nước mà xây dựng chiến
lược, chính sách phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia nói chung
và các lưu vực nói riêng; cần thực hiện nghiêm chỉnh Luật Tài nguyên
nước và đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng Tài nguyên nước Quốc gia
và Ban quản lý lưu vực các sông.
I/ Suy giảm nguồn nước một cách báo động :
Tiến sĩ Nguyễn Lan Châu, Phó Giám đốc Trung lâm Dự báo Khí
tượng Thủy văn Trung ương cho biết, lưu lượng và mực nước sông
Hồng tại hầu hết các vị trí đo đạc các sông nhánh và trên dòng chính từ
thượng nguồn đến hạ du đều đã đạt những trị số thấp nhất trong lịch sử
trong chuỗi số liệu quan trắc cùng kỳ của hơn 100 năm qua. Dòng chảy
về sông Hồng từ biên giới về các sông và hồ thủy điện của Việt Nam
giảm nhanh từ cuối tháng 6/2009 và thấp hơn trung bình nhiều năm
khoảng 35-65%. Các số liệu quan trắc còn cho thấy, từ tháng 11/2009
đến tháng 3/2010, mực nước hạ lưu sông Hồng liên tục đạt những trị số
nhỏ nhất lịch sử của từng tháng. Tại khu vực Trung bộ và Tây Nguyên
tình trạng cũng không khả quan hơn, dòng chảy trên các sông trong khu
vực cũng giảm dần từ đầu năm đến nay. Tổng lượng dòng chảy trên
phần lớn các sông của khu vực Trung bộ ở mức thấp hơn trung bình
nhiều năm cùng kỳ, riêng hạ lưu các sông khu vực Bắc Trung bộ đã ở
mức thấp nhất trong chuỗi số liệu quan trắc. Cùng số phận với các sông
ở Bắc bộ và Trung bộ, do ảnh hưởng củ a biến đổi khí hậu, khu vực
Nam bộ nắng nóng kéo dài, lượng mưa ít đã làm dòng chảy trên sông

Mêkông giảm nhanh và luôn ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm cùng
kỳ. Tại một số nơi vùng thượng nguồn, mực nước đã xuống mức thấp
nhất trong số liệu quan trắc.
Nguyên nhân đầu tiên của tình trạng cạn kiệt, thiếu nước trên sông
Hồng được lý giải là do mùa mưa năm 2009 kết thúc sớm, lượng mưa ở
Bắc bộ ít cộng với nắng nóng kéo dài. Ngay trong mùa lũ năm 2009, từ
tháng 6-8 lượng mưa đã thiếu hụt nhiều so với trung bình nhiều năm nên
đỉnh lũ các sông đều thấp hơn trung bình nhiều năm, có nơi hoàn toàn
không có mưa. Đặc biệt, trong các tháng mùa khô đã xảy ra ba đợt nắng
nóng khá bất thường tại các tỉnh miền Bắc, một số nơi nhiệt độ cao nhất
trong chuỗi số liệu lịch sử quan trắc. Trong đó, khu vực Hoàng Liên Sơn


có nhiệt độ trung bình các tháng đầu năm đều cao hơn trung bình nhiều
năm từ 2-3 độ C. Nhiệt độ không khí cao làm tăng lượng nước bốc hơi
từ mặt đất, thảm thực vật, hồ ao làm tổn thất
dòng chảy lớn, nhất là
dòng chảy ngầm. Tại khu vực Nam bộ và Tây Nguyên cũng liên tục là
nhiều ngày nắng nóng, nhất là ở khu vực các tỉnh miền Đông Nam bộ đã
dẫn tới nguồn nước bị suy giảm nhanh.
Bên cạnh đó, lượng nước ngầm suy giảm nhanh tại nhiều khu vực
do rừng đầu nguồn bị chặt phá, dẫn tới khả năng giữ nước của rừng
không cao. Tại nhiều địa phương như Sơn La, Lai Châu, Lào Cai... tỷ lệ
che phủ rừng tăng nhưng diện tích rừng nguyên sinh, rừng nhiều tầng,
rừng phòng hộ đầu nguồn và các loại rừng có khả năng giữ nước, sinh
thủy đã giảm sút, làm mất đi khả năng điều tiết nước, giữ nước của lưu
vực sông dẫn tới tình trạng khi có mưa, nước sông lên nhanh, khi không
mưa, sông cạn nước. Ngoài ra, việc khai thác, sử dụng nguồn nước
ngầm quá mức, đáy sông bị hạ thấp... cũng là nguyên nhân làm nguồn
nước bị suy giảm nhanh. Theo kết quả kiểm tra của các cơ quan chuyên

môn, do nhu cầu sử dụng tài nguyên nước tăng, nên trong khoảng 10
năm gần đây mỗi năm nước ngầm ở Hà Nội đã giảm khoảng 1m. Tại
khu vực ở Thành phố Hồ Chí Minh, cũng tụt giảm gần 1 m mỗi năm do
tình trạng khai thác nước ngầm quá mức. Đặc biệt từ đầu năm 2010 đến
nay, nắng nóng và khô hạn kéo dài cũng đã làm nước ngầm ở một số
khu vực bị tụt xuống từ 0,4 đến 0,75 mét so với những tháng trước đây.
II/ Một số giải pháp ứng phó:
Theo kiến nghị của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung
ương, để từng bước giảm nhẹ, khắc phục tình trạng cạn kiệt và thiếu
nước trên lưu vực sông Hồng cần cấp bách thực hiện các giải pháp tăng
cường giám sát nguồn nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam và giám
sát việc khai thác, sử dụng nước, đặc biệt là ở hạ du các hồ chứa.
Trang, thiết bị quan trắc mực nước tự động tại các trạm sát biên
giới Trung Quốc như Mường Tè, Hà Giang, Lào Cai và hạ lưu sông
Hồng tại Sơn Tây-Hà Nội đang quan trắc theo phương pháp thủ công và
chịu tác động mạnh mẽ sự điều tiết từ nguồn nước ngoài biên giới. Đặc
biệt trong mùa cạn, biên độ dao động mực nước trong ngày rất lớn, có
khi gần 1 - 1,5 nên quan trắc theo phương pháp cũ sẽ không chính xác.
Để đảm bảo nguồn nước sử dụng, trong đợt khô hạn này cần xây dựng


lại cơ chế vận hành của các hồ chứa bợp lý, hài hòa giữa yêu cầu phái
điện và các nhu cầu nước khác dưới hạ du. Phù hợp với chế độ dòng
chảy thượng nguồn và hạ du các hồ chứa.
Các địa phương cũng cần nhanh chóng triển khai việc tăng diện
tích các loại rừng có khả năng giữ nước, sinh thủy trong mùa khô. Trước
hết, cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích trồng các loại rừng có khả
năng giữ nước trên các khu vực đầu nguồn.
Đối với thời kỳ cấp nước khẩn trương cho đồ ải, cần kết hợp lợi
dụng thời kỳ triều cường kết hợp với việc tăng xả nước của các hồ chứa

đảm bảo cho các công trình lấy được nước để tưới và tránh nước xả
nhanh ra biển; thay đổi chế độ vận hành xả nước và tích nước của các hồ
chứa như tích nước sớm hơn vào cuối mùa lũ. Ngoài ra, tại các địa
phương đang bị suy giảm nhanh nguồn nước ngầm cần sớm thực hiện
các biện pháp bảo vệ và khôi phục nguồn nước ngầm bằng việc quản lý
chặt chẽ việc khai thác nhằm tăng nguồn cấp nước cho các sông trong
mùa khô.
Nhiều giải pháp tiết kiệm nước và sử dụng nước hiệu quả hơn cũng
được khuyến cáo ứng dụng như thay đổi cơ cấu sử dụng nước, thay đổi
cơ cấu mùa vụ, nhất là cơ cấu cây trồng theo khí khí hậu phù hợp với
khả năng cung cấp nước, sẽ giảm căng thẳng về nguồn nước mà vẫn cho
hiệu quả cao.
Trong những năm qua, nhiều mô hình ở các tỉnh Trung Trung bộ
đã chuyển từ sản xuất ba vụ lúa hàng năm thành hai vụ lúa hoặc một lúa
hai màu vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Qua đó, đã tận dụng được tối
đa hiệu quả nguồn nước mưa và giảm căng thẳng về cấp nước trong mùa
khô.
Một giải pháp khác cũng được các chuyên gia đưa ra là che phủ đất
bằng các giải pháp truyền thống dùng rơm rạ, cỏ khô... đối với cây trồng
lâu năm như cà phê, chè, cây ăn quả vừa có tác dụng giữ ẩm chống hạn,
vừa bổ sung lượng mùn làm xốp đất, tốt cây.
Những năm gần đây, nhiều vùng đã sử dụng vật liêu mới để làm
giảm bốc hơi như biện pháp che phủ nilông trên mặt luống khi gieo
trồng lạc, dưa hấu, dâu tây, cà chua hoặc đưa vào đất các chất giữ ẩm
mang lại hiệu quả cao. Đồng thời, giảm nhỏ mức tưới ở những giai đoạn


sinh trưởng của cây trồng không quyết định đến năng suất và chất lượng
sản phẩm cũng là một giải pháp tốt.
Gần đây nhất tại tỉnh Bạc Liêu đã ứng dụng thành công quy trình

tiết kiệm nước trong sản xuất nông nghiệp. Mô hình này nếu được ứng
dụng ở nhiều tỉnh thành sẽ góp phần quan trọng trong việc ổn định sản
xuất, hạn chế được phần nào những khó khăn do thiếu nước bởi hạn hán
và xâm nhập mặn.
III/ Giải pháp phát triển nguồn nước dưới đất:
Trong bối cảnh nguồn nước mặt đang ngày càng khan hiếm, thì việc đầu
tư khai thác nguồn nước ngầm dưới đất là giải pháp thiết thực và hiệu
quả nhất bởi trữ lượng và chất lượng nguồn nước ổn định, có thể khai
thác lâu dài. Tuy nhiên, việc tìm kiếm ra được các lỗ khoan có lưu lượng
lớn, chất lượng tốt lại chưa được đầu tư khai thác trong khi vấn đề thiếu
nước sinh hoạt và sản xuất của đồng bào các dân tộc ở các vùng núi cao,
vùng khan hiếm nước lại hết sức khó khăn.
Theo Thạc sĩ Triệu Đức Huy, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài
nguyên nước quốc gia, để phát huy những thành quả đã đạt được trong
các giai đoạn điều tra tìm kiếm nguồn NDĐ, tiếp tục giải quyết các hạn
chế về cấp nước cho các vùng cao, vùng khan hiếm về nguồn nước, giải
pháp cần thiết phải có một chương trình toàn diện, tổng thể để giải quyết
các vấn đề tồn tại trên.
Chương trình “Điều tra, tìm kiếm nguồn NDĐ để cung cấp nước sinh
hoạt ở các vùng cao, vùng khan hiếm nước” về cơ bản sẽ khắc phục
được các nguyên nhân vốn còn tồn tại trước đây, và kỳ vọng sẽ đem lại
nguồn nước cho người dân vùng khó khăn một cách hiệu quả bền vững.
Tuy nhiên, việc xây dựng hệ cấp nước tập trung cho các điểm tập trung
dân cư ở các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước là rất cần thiết, nhưng
phải lưu ý đến nguyên tắc phát triển bền vững “làm tới đâu, chắc tới đó”
vừa bảo đảm lượng nước và an toàn về vệ sinh môi trường, sử dụng mô
hình công nghệ phù hợp với trình độ quản lý của nhân dân, đồng thời,
phải giải quyết những vấn đề “hậu đầu tư”. Bên cạnh việc hỗ trợ đào tạo
người quản lý vận hành công trình, trang bị phương tiện cần thiết. Đây là
điều kiện “cần và đủ” để những hệ thống cấp nước sử dụng có hiệu quả

lâu dài.


Để bảo đảm cung cấp nước ổn định cho dân sinh, kinh tế và QP-AN tại
các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp và theo các nguyên tắc: Thứ nhất, để tránh lãng phí trong quá trình
triển khai cần đổi mới tư duy, cách làm, làm tới đâu chắc tới đó và triển
khai từng bước. Một nguồn nước muốn phát triển bền vững vấn đề cốt
lõi phải đạt được 3 yếu tố “Nguồn nước phải được điều tra, đánh giá kỹ
lưỡng; cơ chế quản lý vận hành nguồn nước sau đầu tư và giá thành
nước ở mức người dân chấp nhận được”.
Thứ hai, phải có nghiên cứu, đánh giá cụ thể từng nguồn nước để đưa ra
công nghệ và giải pháp kỹ thuật khai thác, đặc biệt là nguồn NDĐ trong
các hang động karst trên các vùng núi đá vôi; kỹ thuật khai thác nước
trong các thấu kính nước nhạt vùng ven biển; công nghệ và giải pháp kỹ
thuật để tăng năng suất khai thác của các giếng khoan có lưu lượng thấp;
công nghệ, giải pháp kỹ thuật xử lý nước bị ô nhiễm.
Thứ ba, việc lựa chọn triển khai xây dựng công trình cấp nước phải bảo
đảm thành công, đạt hiệu quả KT-XH cao. Trước khi xây dựng bảo đảm
phải làm rõ điều kiện nguồn nước, xây dựng được cơ chế vận hành
nguồn nước hậu đầu tư.
Thứ tư, từng bước xã hội hóa và nhân rộng các mô hình cung cấp nước
sinh hoạt, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn, đầu tư
xây dựng công trình cấp nước, cung ứng các dịch vụ về sử dụng nước
theo khuôn khổ luật pháp, bảo đảm khai thác và phát triển bền vững
TNN.
Trên thực tế, nguồn vốn để đầu tư phát triển mạng cấp nước sạch hiện
nay là rất lớn. Để thực hiện các dự án thì không chỉ có nguồn vốn từ
NSNN, các khoản viện trợ quốc tế, mà còn cần cả sự đa dạng hoá nguồn
vốn từ các nguồn vốn hợp pháp khác (tín dụng ưu đãi, tư nhân đầu tư,

đóng góp của nhân dân). Tuy nhiên, việc thu hút từ các nguồn vốn xã
hội hoá như đầu tư tư nhân, liên doanh cổ phần, hợp tác công - tư vào
lĩnh vực này cũng còn rất khó khăn. Để cung cấp nước sinh hoạt bảo
đảm ổn định dân sinh, kinh tế và QP-AN tại các vùng núi cao, vùng
khan hiếm nước, cần đẩy mạnh xã hội hóa các mô hình cấp nước. Bên
cạnh đó, cần nghiên cứu, có cơ chế, chính sách thu hút và nhân rộng mô
hình tư nhân bỏ vốn đầu tư vào các công trình cung cấp nước sạch và có


hỗ trợ nguồn vốn vay ưu đãi, thủ tục hưởng ưu đãi (thuế, cấp đất, khai
thác nguồn nước) và các hành lang pháp lý để bảo vệ quyền lợi chủ đầu
tư.



×