Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.08 KB, 5 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 9.3. Phân tích bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' của Hàn Mặc tử để làm rõ
vẻ đẹp và nét buồn của bức tranh thôn Vĩ trong bài thơ.
Tôi đã trót yêu cái buồn của thơ Hàn Mặc Tử- người thi sĩ tài hoa bạc mệnh.
Dường nhu cái khoảng thời gian ngắn ngủi Tử hiện hữu trên đời này là để yêu.
Yêu điên cuồng thế giới... cho dù bị bệnh tật hành hạ. Nỗi buồn trong thơ Hàn
Mặc Tử có nhiều cung bậc khác nhau, lúc thê thảm thiết tha, khi chở nặng một
chút lòng man mác...nhưng tất cả đều đội lên một niềm khát khao sống tột độ. Có
những câu thơ, bài thơ đọc lên, ta cảm thấy day dứt, thiết tha; nhưng có những bài
nhà thơ truyền cho ta cảm giác buồn vô cùng tinh tế. ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là một bài
thơ như thế với cảnh, với hồn người xứ Huế đẹp, thấm đượm một nỗi buồn da diết
bâng khuâng:
'' Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mơí lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?''
Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ
Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình) trong
một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha mất sớm, ông sống với
mẹ ở Quy Nhơn và có hai năm học trung học tại trường Pe-lơ-ranh (Pellerin) ở
Huế. Sau đó ông làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định rồi vào Sài Gòn làm
báo. Đến năm 1936, mắc bệnh phong, ông về ở hẳn Quy Nhơn chữa bệnh và mất


tại trại phong Quy Hoà. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một
trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.
Ông làm thơ từ năm 14,15 tuổi với các bút danh: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ
Thanh...; Băt' đầu bằng thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang sáng tác theo
khuynh hướng thơ mới lãng mạn. Qua diện mạo hết sức phức tạp và đầy bí ẩn của
thơ Hàn Mặc Tử, người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc
đời trần thế.
Tác phẩm chính của Hà Mặc Tử: Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Xuân
như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ (kịch thơ-1939), Quần
tiên hội (kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ văn xuôi- 1940).Ngoài tập ''Gái quê''
in lúc sinh thời, còn toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử chỉ được in thành tập sau khi ông
mất. ''Đây thôn Vĩ Dạ'' (lúc đầu có tên ''Ở đây thôn Vĩ Dạ'') sáng tác năm 1938, in
trong tập ''Thơ Điên'' (về sau đổi thành ''Đau thương''). Theo một số tài liệu, bài
thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình. Với
hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, bài
thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của
một con người tha thiết yêu đời yêu nguời.
Đoạn thơ đầu cho ta thấy vẻ đẹp tinh khôi, mơ mộng của thôn vĩ, của xứ
Huế:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mơí lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền."
Mở đầu là một lời chào mời tha thiết, nửa như trách móc dỗi hờn: ''Sao anh

không về chơi thôn Vĩ?''. Hình như ta cảm thấy có hai nhân vật chữ tình trong bài
thơ một người đang trách móc sự vô tình của người kia đối với một kỉ niệm đẹp.
Còn nhân vật trữ tình thứ hai thì bàng hoàng tiếc nuối, anh bị lời trách cứ lôi
kéo:''cảnh đẹp đến nhường ấy sao anh chẳng về chơi''. Có thể thấy những cảnh đẹp
của vườn Vĩ Dạ chỉ là một lớp vỏ ngoài của một nỗi lòng đang khắc khoải, rõ
dàng bài thơ không chỉ đơn thuần để thể hiện cái tình đối với Huế, mà đối với một
bóng hình giai nhân nhà thơ đã từng nặng lòng thương nhớ. Bài thơ được làm ơ
Quy Nhơn, nên những cảnh Huế chỉ là trong mộng tưởng. Thi nhân là một người
đa cảm, lại đang phải sống cách biệt với những người thân yêu của mình nên hơn
bao giờ hết thèm được sống lại những ngày tháng cũ, những kỉ niệm êm đềm. ''Sao
anh không về chơi thôn Vĩ?'' hay chăng đó chính là lời của thi nhân, người đã
nhập vai một người khác để thể hiện lòng mình, nói một lời chào.
Vườn Huế mộng mơ và đẹp nhưng là vẻ đẹp của một bức tranh nhạy cảm.
Cái nắng trinh nguyên của sớm mai nơi thôn Vĩ như rải những vệt sáng lấp loá
trên những cành lá còn ướt đẫm sương đêm. Buổi mai vàng, khi ùa lòng mình vào
Vĩ Dạ, hoà vào cỏ cây, ngước mắt lên nhìn là thẳng tắp những hàng cau đang hứng
đầy buồng nắng, ''Nắng hàng cau'' có lẽ chỉ có thôn Vĩ mới có cái nắng tinh khôi
ấy, ta như cảm được cả hương thơm của nắng toả xuống không gian, cái hương rất
nhẹ của hoa cau mới nở. ''Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên'', câu thơ có bảy chữ
nhưng có đến hai chữ ''nắng'' tạo trong ta cái cảm giác về cấp độ của ánh sáng.
Đầu tiên là ''nhìn nắng'' đó là một thứ ánh sáng của sự chủ động, ta định hướng
được rất tự nhiên và từ đó vươn lên một góc nhìn tập chung ''nắng hàng cau'' để rồi
đón nhận một cảm giác tươi mới trinh nguyên ''nắng mới lên''. Sắc nắng, vị nắng
trộn hoà vào cảnh vật vừa như vút lên trong cái tầm thanh thoát của hàng cau xứ
Huế, lại vừa chợt như ùa xuống, toả rộng tràn lên tất cả ''Vườn ai mướt quá xanh
như ngọc''. Câu thơ cứ như là buột miệng, như không kìm nổi lòng mình phải reo
lên khi bắt gặp cái sắc màu biếc xanh như ngọc ấy. Vườn ai đó chợt sáng bừng
lên, làm rạng rỡ cả một khoảng không gian của trời đất, mượt mà tươi non. Ngắm
nhìn cảnh nơi thôn Vĩ buổi sớm mai, ta cứ tưởng như đêm qua cảnh vật được tắm
mình bằng một trận mưa rào, cây cối như được rửa trôi, sạch sẽ và tinh khôi, chỉ

còn những giọt sương mai rất nhỏ bám vào cành lá đợi chờ từng tia nắng xuyên
qua. Có lẽ chỉ cần từ ''mướt'' là đủ, song thêm từ ''xanh'' sau càng làm tôn thêm,
nổi bật thêm cái tuơi mát, xum xê của Vĩ Dạ. Người dân Huế, thường đồng nghĩa
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

hai từ ''vườn'' và từ ''nhà'', bởi ở nơi đây mỗi ngôi nhà đều được bao quanh bởi
vườn cây. Mỗi nhà là một khoảng khá rộng, ngôi nhà nhỏ được đặt ở giữa, xung
quanh là cây côi' tạo nên một cấu trúc thẩm mĩ rất gắn kết, hài hoà. Đang cái mạch
của sự ngỡ ngàng, câu thơ tiếp theo là một sự phát hiện mới, hoà. Đang cái mạch
của sự ngỡ ngàng, câu thơ tiếp theo là một sự phát hiện mới, hoà vào trong cái
không gian tinh khiết ấy là thấp thoáng một dáng nét của con người: '' Lá trúc che
ngang mặt chữ điền''. Câu thơ đã biểu hiện được thần thái tâm hồn thôn Vĩ. Có sự
xuất hiện của con người, thiên nhiên như càng được thổi thêm một luồng sinh khí
tạo nên nét đẹp hài hoà trong giá trị tạo hình, một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, đôn
hậu và thanh khiết của con người nơi miệt vườn.
Thôn Vĩ chỉ còn là hoài niện, chỉ còn là sự đi về trong tâm tưởng nhớ
thương của một con người đang cần lắm một tình yêu, một tâm hồn để sưởi ấm
lòng mình. Cho nên cảnh hiện lên thật đẹp nhưng lại vẫn thấm đẫn một nỗi buồn
sâu lắng. và chính bởi cái buồn da diết ấy nên nguồn mạch của những kỉ niện vẫn
không bị phá vỡ, nhưng đây không phải là cảnh sớm mai của thôn Vĩ nữa mà là
cảnh sông nước của dòng sông Hương với mây và gió: ''Gió theo lối gió mây
đường mây''. Ở khổ thơ thứ 2, mỗi câu thơ như trải ra thật chậm thật nhẹ nhàng và
cũng thanh thoát như hồn người xứ Huế. Vẫn là hình thức tả cảnh thiên nhiên,
nhưng ở đây dù có lấp liếm che giấu khéo đến đâu, thi nhân vẫn để lộ ra cái tình
thật của lòng mình, vẫn chưa thoát ra được cái mộng ảo của tâm hồn. Gió và mây
đều gợi nên sự chia li ''lối gió'', ''đường mây'' cái ranh giới mỗi lúc như được nới
rộng thêm ra, càng làm tăng thêm cái khoảng phân cách. ''mây'' và ''gió'' mỗi từ

được nhắc lại hai lần trong một câu thơ cách lặp lại ấy như càng bị đẩy ra một
khoảng xa hơn. Sự li tán đó có phải chăng cũng chính là sự li tán của lòng người.
Câu thơ như bị đứt ra, đẩy ra xa chứ không gãy đôi, càng tạo thêm cái da diết đến
nao lòng người, như rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa. Đến đây không
còn là cái tươi mới rạo rực ở khổ thơ đầu nữa mà chuyển sang cái gam màu của sự
trầm lắng: ''dòng nước buồn thiu hoa bắp lay''. Cảnh đẹp nhưng buồn quá, hay bởi
thi nhân đang trải cả hồn mình lên cảnh vật. Xưa nay ''người buồn cảnh có vui đâu
bao giơ'' (trích ''Truyện Kiều''- Nguyễn Du), hơn lúc nào hết, thi nhân bây giờ cảm
nhận thật sâu sắc lòng mình, nhìn dòng nước trôi lững lờ, sự chuyển động của
thiên nhiên như chậm lại, nhưng các chiều không gian vẫn mở và sâu hum hút
càng làm tăng thêm sự đơn độc. Hai chữ ''buồn thiu'' được đặt giữa dòng thơ là
một sự lan toả cuả cái buồn lặng lẽ rủ lên dòng nước đang chảy trôi lại vừa như
ngấm vào toả sang để khẽ lay hoa bắp bên sông, rung nhẹ lên một chút đủ để diễn
tả một nỗi buồn hiu hắt. Trong cái tâm trạng buồn trĩu nặng của cảnh chia lìa ấy,
lại đang đắm mình trong ảo mộng của ánh trăng, nhà thơ như chợt bừng lên cuống
quýt một lời nhắn gửi:
''Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?''
Mộng ảo quá, thiên nhiên như thấm đẫm một màu trăng. Mới ở khổ thơ đầu
còn đang là một bức tranh thiên nhiên ngợp ánh nắng ban mai, đến bây giưò là
nhốm ánh trang. Câu thơ nào cũng đều toả lên một sắc màu, đều có nét ánh lên,
càng làm cho hồn người đa cảm nhận rõ hơn sự trống trải, đơn lạnh của chính
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

mình. Nên chợt nhìn thấy thấp thoáng con thuyền, lòng thi nhân như chợt rung lên
mãnh liệt nhưng vẫn ơ trong trạng thái rất đỗi mơ hồ không xác định. Thơ Hàn
Mặc Tử dường như có sự thâm nhập quá lớn của ánh trăng, nên bao giờ cũng tạo

ra một vẻ đẹp kì ảo của mộng và chất thơ. Giữa cái mênh mang hư ảo, trăng như
thấm vào từng kẽ lá, trộn hoà vào từng dòng nước nhỏ. Dòng sông chở đầy ánh
trăng, ''sông trăng'' chỉ có Hàn Mặc Tử mới có thể tưởng tượng ra được cái sông
trăng ấy của dòng sông Hương, ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ tạo nên một
không khí hư ảo, và chỉ trong cái mộng ảo đó mới có thể cảm nhận được sông
trăng, bến trăng va thuyền mới có thê ''chở trăng về'' như một du khácj trên sông
Hương. Người thơ ở đây đang rất đơn côi, đang khao khát được ai đó chia sẻ tâm
sự: ''có chở trăng về kịp tối nay'' là cả một nỗi lòng mong đợi, một câu hỏi gần như
là sự khắc khoải bồn chồn. Con thuyền ngây ngô trên bến vắng tạo nên trong lòng
người một niêm phấp phỏng, hi vọng, đợi chờ một cái gì đang dời đi, biết có thể
nào, có khi nào quay trở lại. Cái nỗi niềm ấy đang ngập dâng lên trong lòng thi sĩ.
Bốn câu thơ là sự ảo hoá của bút pháp tài tình lên cho cảnh thêm huyền ảo và tình
càng dâng lên vời vợi say đắm.
Bài thơ mang một niềm bâng khuâng, một sự tiếc nuối vẫn trong cái mạch
hư ảo ấy:
''Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra''.
Ở khổ thơ cuối niềm bâng khuâng, sự quyến riết trước cảnh trời mây sông
nước như trải rộng ra cái cảm giác mông lung của hư thực. Nhưng dù mông lung,
dù huyền ảo ''nhìn không ra'' vẫn thấy rõ, cảm nhân rất rõ một bóng hình người
con gái của Huế thơ song lại không thể nào nắm bắt được, lại vẫn là mộng ảo. Cái
hình bóng chập chờn ấy càng làm tăng thêm sự khắc khoải bồn chồn của lòng
người đa cảm, cảm giác gần mà lại như hút xa bởi nhà thơ chỉ có thê cảm nhân
được cái màu áo trắng thoắt ẩn thoắt hiện mà không thể nhìn bằng thị giác của
mình. Màu sắc trắng chỉ còn là một ấn tượng càng làm cho sự hẫng hụt lên tới cao
độ, muốn bấu víu, cầm nắm mà cảnh đầy màu hư ảo quá, nó lại bị chìm trong màu
của sương khói:
''Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.
Ai biết tình ai có đậm đà?''.
Bóng hình giai nhân mờ ảo trong sương, cảnh vật phủ bởi một màu sương

khói, nhưng cũng có thể đó là một ẩn ý của người thơ, sương khói ấy phải chăng
là khoảng cách của thời gian, là màu của một mối tình vô vọng. Thi nhân đã cảm
mến một người con gái Huế, đang sống trong đợi chờ và ảo mộng. '' Ai biết tình ai
có đậm đà?''. Tự cắt nghĩa trong một câu hỏi bâng khuâng, nhà thơ như càng trào
lên một sự băn khoăn vừa da diết vừa xót xa.
Những câu hỏi tu từ trong bài thơ cứ xoáy lên mà không cần một sự trả lời:
những hình ảnh về mảnh vuờn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả
mối tình sâu kín mà nhà thơ đã như là một sự vô tình làm nhoè đi để tạo ra nét
mênh mang ấy. Ba khổ thơ của bài, mỗi khổ thơ là một câu hỏi, một niềm day dứt
của lòng người: ''Sao anh không về chơi thôn Vi?'', ''Có chở trăng về kịp tối nay'',
và câu cuối cùng cũng là để kết thúc bài thơ:'' Ai biết tình ai có đậm đà?''. Âm ''a''
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

như ngân dài, kéo dài ra, như nỗi niềm đau đớn, buồn tủi đang bị cuộc sống kéo
triền miên. Âm hưởng của bài thơ là buồn, nhưng không làm cho người ta bi lụy
yếu lòng, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân, ta thấy vút lên một khát vọng về
cuộc sống tình hơn, hoàn thiện hơn. Những chi tiết những thủ pháp nghệ thuật,
cách thức câu từ được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình,
của hồn mình, nên đọc cả bài thơ, ta không thấy có gì gượng ép, mà ngược lại như
đang cùng sống với nhà thơ trong thế giới của mình. Bài thơ là sưh đan cài giao
thoa của tình của cảnh, bộc lộ được những nét đẹp, cái trong sáng gắn với một
vùng quê xứ Huế- là thôn Vĩ Dạ, với những nét rất độc đáo của miền Trung.
Cảnh đẹp nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết, ''Đây thôn Vĩ
Dạ'' như một biện chứng tình cảm của một nghệ sĩ tài hoa đa tình đa cảm. Con
người luôn khao khát vươn tới sự thánh thiện của cuộc đời ấy, đã sống hết mình
trong sự đớn đau của tinh thần và thể xác. Cái buồn da diết của thi nhân còn là tâm
trạng của một lớp thanh niên lúc bấy giờ yêu cuồng nhiệt, thiết tha nhưng không

thoát khỏi nỗi buồn thời đại. ''Đâu thôn Vĩ Dạ'' là một bức tranh đẹp nhưng rất khó
vẽ. Bởi cái thần kì ảo quá, cái tình da diết và có lẽnh đó chính là cái làm cho bài
thơ sống mãi, như sự trường tồn của tâm hồn Hàn Mặc Tử.
***

5



×