Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích 20 dòng thơ đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.37 KB, 5 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 14.3. Bình giảng 20 dòng thơ mở đầu bài thơ Việt Bắc để thấy được
thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc
"Mình về mình có nhớ ta
......
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,cây đa"
"Việt Bắc" được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng
trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó không chỉ thể hiện
những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết
tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Đó là những
đặc trưng về chất trữ tình chính trị của thơ THữu, là đặc trưng về tính dân tộc, về
màu sắc dân gian trong ngôn ngữ thơ của Tố Hữu. Vì thế bài thơ vừa đem đến cho
người đọc những nhận thức sâu sắc về niềm tự hào đối với cuộc kháng chiến thần
thánh của chúng ta, lại vừa đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ hết
sức mạnh mẽ. Có thể thấy những đặc sắc này ngay từ những dòng thơ mở đầu của
"Việt Bắc".
"Mình về mình có nhớ ta
......
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,cây đa"
Người ta thường nói đến một đặc trưng nổi bật của thơ Tố Hữu, đó là chất
trữ tình chính trị vì mỗi chặng đường thơ của Tố Hữu dường như đều gắn liền với
mỗi chặng đường cmạng của dtộc chúng ta, từ thuở "Từ ấy" cho đến "Một tiếng
đờn" sau này. Nói như thế cũng là nói về "Việt Bắc", bài thơ đã tạo nên một trong
những đỉnh cao vời vợi của thơ Tố Hữu. Bởi vì bài thơ đã ra đời từ một sự kiện
chính trị hết sức lớn lao trong đời sống của dân tộc, sự kiện các cơ quan của trung
ương Đảng, của chphủ, các cơ quan khchiến, các cán bộ chiến sĩ kháng chiến sau
khi hoà bình lập lại đã giã từ Việt Bắc để về xuôi, về tiếp quản Thủ đô. Tố Hữu
muốn thông qua "Việt Bắc" để dựng lại bức tranh tổng quát của cuộc khchiến 9
năm rất đáng tự hào của dân tộc ta trên chiến khu Việt Bắc, lại vừa ghi lấy cái thời
điểm chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với các cơ quan kháng chiến. Nhưng Tố


Hữu đã không làm bản tổng kết về cuộc kháng chiến, không làm bản thông báo về
sự kiện chính trị kia mà đã trữ tình hoá tất cả những nội dung thấm đẫm màu sắc
chính trị ấy. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để
trở thành trí tuệ", nghĩ là từ cảm xúc mãnh liệt của trái tim mà thức nhận những
chân lý sống, chân lý cmạng.
Với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chtrị cũng như đsống chtrị của đất nước,
viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát
đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những khúc hát
đối đáp ấy khơi gợi những kniệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ
vang, rồi từ những kniệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng
chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của
Bác, của Đảng. Vì thế ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện
tâm tình, những câu hát đối đáp giữa "mình" và "ta" vô cùng tha thiết, mặn nồng.
Tố Hữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất quen thuộc trong ca dao, dân ca để
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

cuộc chia tay trở nên đằm thắm như của đôi lứa yêu nhau. Những chữ "mình", "ta"
từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi những
tình cảm mặn nồng, không bao giờ phai nhạt giữa V Bắc và cách mạng, kháng
chiến.
Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của VBắc đối với người về xuôi,
khúc hát chia tay đã được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố Hữu như
muốn nói lòng người VBắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào. Ngay từ
câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới hai tiếng "mình" thân thương.. Sự trở đi trở
lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói lòng người VBắc không nguôi nhớ người
về xuôi, nhưng lại cũng như xoáy sâu vào ký ức của người về xuôi những kniệm
chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu thơ mở đầu, những chữ "mình", "ta" đã

như quấn quýt lấy nhau như sự gắn bó không muốn chia xa giữa người ở và người
về. Âm điệu của câu thơ chủ yếu được tạo bởi thanh bằng: "Mình về mình có nhớ
ta", với một chữ "ta" ở cuối làm cho tcảm nhớ thương vừa lắng vào lòng người
trong cuộc chia tay lại vừa lan xa mênh mang. Kết cấu của hai câu thơ mở đầu là
kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi khơi gợi những kniệm thiết tha mặn nồng,
câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng khơi
sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kniệm đầy
xúc động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một Việt Nam
dchủ c hoà, bởi THữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Những
chữ "mười lăm năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình yêu đã từng
được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ đã ai quên"
Người về làm sao có thể quên được 15 năm ấy của mối tình đầu giữa cách
mạng và VBắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những
tình cảm "nghìn năm hồ dễ đã ai quên", câu thơ còn được tiếp tục bởi những chữ
"thiết tha mặn nồng". Một câu thơ viết về 15 năm của cmạng, của khchiến mà
nồng nàn, mà tha thiết và trữ tình biết bao.
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách
xưng hô hết sức tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở hai dòng thơ tiếp theo lại là câu
hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của những
kniệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược
lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm
bâng khuâng cả núi rừng sông núi, cả đất trời trong khung cảnh chia tay. Dường
như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự hoà hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì
sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một sự kiện lớn lao trong đời sống của đất
nước. Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ
ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể
phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ :
"Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Ta ngỡ như câu ca dao:
"Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao,
dân ca. 4 câu thơ như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn,
trăn trở của người ở lại, của VBắc vô cùng thuỷ chung với cmạng. THữu đã chọn
được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc xuyên suốt "Việt Bắc" hết sức đặc sắc.
Mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.
Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm
trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương
xứng của lòng người về xuôi với VBắc, tương xứng với sự thuỷ chung của VBắc.
ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với
thiết tha, cái bịn rịn không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm
trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu buông một
câu thơ rất tình tứ: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm say
đắm lòng người. Chữ "ai" đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; chữ "ai" đâu cũng còn
là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi ở đây cả
"ta" lẫn "mình" đang lên tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ "ai"
chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tcảm yêu thương, để câu nói trở nên tình tứ
mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng

nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để
rồi bày tỏ tcảm của mình. Đó là trạng thái "bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước
đi". Những chữ "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn tả rất chính xác trạng thái tcảm
của người về xuôi. Bâng khuâng chính là nỗi niềm thương nhớ đối vơí cảnh, đối
với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến,
những kniệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí người về xuôi. Bước
chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với VBắc. Còn "bồn chồn" là
một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời
mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi mỗi bước nhớ nhung, mỗi bước
đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương nhớ ấy. Với câu thơ thứ ba ở khổ thơ
này, Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. Bởi với
những dòng thơ mở đâù trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của "mình" với "ta",
của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả
VBắc đối với người kháng chiến từ một hình ảnh hoán dụ: "Áo chàm đưa buổi
phân ly".Cả Việt Bắc như "ngẩn ngơ" trong cuộc chia tay lịch sử ấy. Hình ảnh "áo
chàm" dùng để chỉ hình ảnh của VBắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái "ngẩn ngơ"
của VBắc hiện ra ở những chữ "đưa buổi phân ly". Trong khi đó, câu thơ:"Cầm
tay nhau biết nói gì hôm nay" không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giây phút
xđộng của người về xuôi mà còn diễn tả cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong
bước chân của người về xuôi qua sự đột biến của nhịp điệu câu thơ, bởi câu thơ
lục bát vốn có kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát
chia tay, đã chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2 ("Cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay").
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ:"Bước đi một bước, giây
giây lại dừng".Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi
mới đối với cảm xúc của người đọc. Câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái

tiết tấu qúa đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.
Sự tiếp nối của 12 dòng thơ nằm trong mạch cấu trúc của hoài niệm như
một sự xuất hiện tất yếu, bởi sau những băn khoăn của VBắc đvới tcảm của người
về xuôi là tiếng hát đầy nghĩa tình của kẻ đi, là sự khẳng định niềm thuỷ chung
của cách mạng đối với VBắc. Tiếng hát ấy đã làm cảm động người ở lại khiến bao
nhiêu kniệm, bao nhiêu hồi ức đầy nghĩa tình đã trào dâng mạnh mẽ trong tâm trí
người tiễn đưa. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một dòng chảy của những
kniệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha thiết. Mỗi cặp 6-8 lại khơi gợi một kỷ niệm về
những tháng ngày sâu nặng nghĩa tình của VBắc. Và những câu 6 tiếp nối nhau
đều là những câu hỏi như một sự khơi gợi nỗi nhớ đối với người về xuôi. Mỗi câu
6 lại hướng tới "mình", những chữ "mình" tiếp nối nhau như một điệp khúc của
tình cảm. Và đặc biệt ở những câu 6, chữ "mình" tha thiết bao giờ cũng gắn với
chữ "đi" đầy nhớ thương (ở đây về cũng là đi, đi cũng là về). Chữ "mình", chữ
"đi" bao giờ cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ về xuôi
biết bao:
"Mình đi có nhớ những ngày
Mình đi mình có nhớ mình"
Sử dụng chữ "mình", một đại từ xưng hô tiềm ẩn bao tình cảm thân thương,
Tố Hữu cũng cho thấy cái biến hoá linh hoạt trong cách nói năng, trong sự cảm
nhận sắc thái ý nghĩa của từ này. ở đây "mình" là mình nhưng cũng lại là "ta".
Mình và ta tuy hai mà 1. Cho nên người ở lại mới nói với người về xuôi: "Mình đi
mình có nhớ mình".Đây là đoạn thơ khơi gợi những kỉ niệm của một thời cách
mạng để dựng nên cộng hoà, vì thế mỗi câu 8 trong cặp lục bát là mỗi câu nhắc
nhở một kniệm không bao giờ quên, như kỷ niệm về những ngày gian khổ xây
dựng phong trào trong hình ảnh "mưa buồn suối lũ những mây cùng mù", về
những ngày "miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", về những ngày náo nức
trong phong trào kháng Nhật của thuở còn Việt Minh và những ngày tưng bừng
chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám nơi "mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào".
Song cái đặc sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật
đối. THữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu 8 ở đây,

nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn
tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kniệm. Đó là lối đối giữa các vế câu với
nhau như: "Miếng cơm chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm
nhất trí giữa nhân dân và cách mạng. Khó khăn lại càng làm chồng chất mối thù
đối với thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc sống gian khổ và
lòng người qua những hình ảnh đối chọi nhau:"Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son".
Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của Việt Bắc đối với cuộc chia tay:"Trám
bùi để rụng, măng mai để già". Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục
ngữ, nhưng với Tố Hữu, nghệ thuật đối đã có những sáng tạo. ở đây không chỉ có
sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. ở đây có lối đối giữa các vế
trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong một vế câu như
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

"mưa nguồn / suối lũ" rồi "những mây / cùng mù"; lại có những biến thể lồng chéo
tạo nên các vế đối như trong trường hợp "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"
vốn nằm trong những cụm từ đã tương đối cố định, đó là "Mái đình Hồng Thái,
cây đa Tân Trào". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc điệu được tạo
nên từ tiết tấu của câu thơ.
Thơ Tố Hữu với "Việt Bắc", đặc trưng trữ tình không chỉ hiện ra từ những
câu thơ lục bát vốn mang âm điệu tha thiết mà còn thể hiện ở cấu tứ, ở ngôn ngữ
luôn luôn tràn đầy cảm xúc. Vì thế khúc hát mở đầu cho "Việt Bắc", khúc hát về
cuộc chia tay lớn gắn liền với đời sống chính trị của dân tộc, khúc hoài niệm về
những tháng ngày cách mạng mà vẫn có sức lay động tình cảm của người đọc, làm
rung động trái tim mỗi con người Việt Nam ở thời điểm tràn đầy sung sướng và
hạnh phúc kia. Với đoạn thơ mở đầu này, ta cũng đã thấy "Việt Bắc" của Tố Hữu
rất giàu chất dân tộc, chất dân gian, giàu nhạc tính.
***


5



×