Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Khái quát tác giả, tác phẩm: Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.76 KB, 2 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 14.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
* Khái quát tác giả, tác phẩm.
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng VN. Các
chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng
đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của
dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng
và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Bài thơ ''Việt Bắc'' (1954) là tiếng ca
hùng tráng thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng
chiến; và là bài ca vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng, biết bao tình
cảm bồi hồi, xúc động của dân tộc trong những giờ phút lịch sử.
Tố Hữu (1920-2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù
Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa thiên-Huế. Năm 12
tuổi, Tố Hữu mồ côi mẹ, một năm sau lại xa gia đình vào học Trường Quốc học
Huế. Bước vào tuổi thanh niên, Tố Hữu tham gia phong trào đấu tranh cách mạng
và trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên dân chủ ở Huế, rồi được
kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong cách mạng tháng Tám năm 1945,
Tố Hữu là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố
Hữu công tác ở Thanh Hoá rồi lên Việt Bắc đặc trách về văn hoá văn nghệ ở cơ
quan Trung ương Đảng. Trong hai cuộc khang' chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữa những cương vị trọng yếu
trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là Uỷ viên Bộ chính trị Đảng
Cộng sản VN, Bí thư Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Năm
1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng
chiến, nơi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, Chính phủ, bộ đội ta trong suốt những
năm kháng chiến chống Pháp gian khổ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết (tháng 7-1954), hòa bình trở lại, miền Bắc
nước ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của
cách mạng được mở ra. Tháng 10 - 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và


Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Với Tố Hữu, Việt Bắc là nơi ông
đã sống và gắn bó suốt thời kì kháng chiến, nay phải từ giã để cùng cơ quan Trung
ương Đảng về Thủ đô. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với
Việt Bắc, Tố Hữu sáng tác bài thơ "Việt Bắc". Bài thơ gồm 2 phần. Phần một tái
hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu
Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần hai nói
lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi
sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
của Đảng đối với dân tộc.
Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc
của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. "Việt Bắc" là
khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể
thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian- tất cả đã góp
phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, con người Việt
Nam.
* Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện trên cả hai phương diện
nội dung và hình thức.
Về phương diện nội dung, Tố Hữu đã sáng tạo, sử dụng lối đối đáp quen
thuộc của ca dao, cách đối đáp sử dụng trong tình yêu đôi lứa. Đối đáp trong bài
thơ Việt Bắc cũng giống như hình thức đối đáp trong ca dao nhưng để nói về tình
cảm lớn, mang ý nghĩa cộng đồng, đó là lòng yêu nước, tình cảm gắn bó giữa nhân
dân và cách mạng… được thể hiện trong hình thức vốn dĩ nói về tình yêu đôi lứa.
Chuyện cách mạng, kháng chiến lại đi vào lòng người qua con đường tiếng nói

của tình yêu nên nó sâu sắc hơn, lay động hơn.
Tố Hữu đã sử dụng sáng tạo cặp đại từ "mình - ta". Từ "mình" trong Tiếng
Việt thường dùng ở ngôi thứ nhất chỉ bản thân, khi nó dùng để chỉ đối tượng ngôi
thứ hai thì phải có đối tượng gắn bó chân thành, ruột thịt. Từ "mình" trong bài thơ
"Việt Bắc" lại chủ yếu dùng ở ngôi thứ hai, như đoạn thơ sau:
"Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Cũng có khi từ "mình" vừa dùng để chỉ bản thân, vừa dùng để chỉ đối
tượng: "Mình đi mình lại nhớ mình". Cách sử dụng ấy tạo nên sự gắn kết giữa
"mình" với "ta", sự gắn bó giữa cách mạng với nhân dân, tuy hai mà một. Trong
cách mạng có nhân dân, trong nhân dân có cách mạng. Đó là sự gắn bó thủy
chung, son sắt.
Về phương diện hình thức, bài thơ "Việt Bắc" sử dụng thể thơ lục bát quen
thuộc thường thấy trong ca dao. Như câu thơ sau trong bài thơ "Việt Bắc":
"Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói mù sương
Sớm hôm bếp lửa người thương đi về."
Có những câu thơ đạt đến giá trị cổ điển, mẫu mực trong nghệ thuật tiểu
đối. Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: "Miếng cơm chấm muối /mối thù
nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và cách mạng; khó
khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó cũng là sự
tương phản giữa cuộc sống gian khổ và lòng người qua những hình ảnh đối chọi
nhau:"Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"…
Tính dân tộc thể hiện ở hình thức Tố Hữu sử dụng những hình ảnh đậm đà
chất dân tộc, gần gũi với nếp sinh hoạt, tư duy của dân tộc:
"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô"
***


2



×