1
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA-GIÁO DỤC
1.1.
Mục tiêu của văn hóa-giáo dục
Để thưc hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục là : Giáo dục để mở
mang dân trí , nâng cao kiến thức , bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp,
những phẩm chất trong sáng vầ phong cách lành mạnh cho nhân dân ; Giáo dục để đào
tạo con người có ích cho xã hội. Học đẻ làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục đẻ đào
tạo những con người vừa có đức vừa có tài, những công dân biết làm chủ để đóng góp
tích cực vào sự nghiệp xấy dựng bảo về tổ quốc; Giáo dục còn là để “ cải tạo tri thứ cũ” ,
“ đào tạo tri thức mới”, thực hiện “ công nông tri thức hóa”, xây dựng đội ngũ tri thức
ngày càng đông đảo và có trình dộ ngày càng cao. Nền văn hóa giáo dục còn phải đào tạo
lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng , xây dựng đất nước giàu mạnh sánh vai cùng các
cường quốc năm châu.
Trước khi ra đi tìm đường cứu quốc , Hồ Chi Minh đã nhận thấy chính sách ngu
dân hết sức thâm độc của thực dân Pháp. Người cũng sớm thực tế cụ thể và nhân thức sâu
sắc vè loại trừng tiểu học Pháp-Việt do thực dân Pháp mở nhỏ giọt từ năm 1905 ở các
thành phố và tỉnh lớn nhằm đào tạo “những tay hợp tác, những công nhân bản xứ trả
lương ít tón hơn cho ngân sách thuộc địa…, huấn luyện quen viêc các nhà cầm quyền bản
xứ”. Vì vậy, ngay trong những năm đầu hoạt động ở nước ngoài , Người đã lên án mạnh
mẽ chính sách dó của thực dân Pháp và đòi quyền lợi cho dân tộc mình. Năm 1919, tròn
bản Yêu sách mà Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội
nghị Vec-Xây có điều khoản 6 đòi hỏi: “ Tự do độc lập và mở các trường kỹ thuật và
chuyên nghiệp cho người bản xứ ở các khắp các tỉnh”. Đến năm 1920, Đại hội thành lập
Đảng Công sản Pháp ở Tua , Nguyễn Ái Quốc đã không quên lứu ý tình trạng: Chúng tôi
phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm, vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”. Đặc
biệt trong tác phẩm “ Bản án chết độ thực dân Pháp” Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một
chương để vạch trần chính sách ngu dân, một tội ác ngang với sự áp bức chính trị và bốc
lột kinh tế tàn khốc, ngang với sự đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện đối với nhân dân
Việt Nam của thực dân Pháp. Trong sự nghiệp cách mạng thì việc “xây dựng con người”
2
là một chiến lược quyêt định; trong sự nghiệp xây dựng con người thì chiến lược giáo dục
đứng ở vị trí hàng đầu , trung tâm chiến lược giáo dục là xây dựng và hoàn thiện con
người . Sự phát triển phồn vinh của ddaatas nước, sự thành công của sự nghiệp xây dựng
Chủ nghĩa xã hội là tiền đồ của dân tộc đòi hỏi phải xây dựng một nền giáo dục có chất
lượng và hiệu quả cao. Hồ Chí Minh sáng lập nèn giáo dục mới nhằm đào tạo các em trở
thành những công dân hữu ích cho đất nước Việt Nam , và làm phát triển năng lực sẵn có
của các em, chuẩn bị cho thế hệ trẻ đảm nhiệm tốt trọng trách, nhiệm vụ của mỗi công
dân, người các bộ, chiến sĩ trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, coi trọng , đề cao dân trí với mong muốn tột bậc “nhân dân ai cũng được
học hành” và quyết tâm xây dựng một nền giáo dục mới , hướng tới con người , vì con
người là một trong những mục tiêu cách mạng trong quá trình tìm đường cứu nước cảu
Nguyễn Ái Quốc.
Nhiệm vụ của ngành giáo dục rất quan trọng, vẻ vang nhằm xây dựng và hoàn
thiện con người mới, những chủ nhân tương lai của đất nước. Con người mới mà nền giáo
dục Việt Nam cần xây dựng theo Người là những công dân “vừa hồng , vừa chuyên”. Hồ
Chí Minh coi trọng cả tài lẫm đức, tài đức kết hợp chặt chẽ với nhau trong một con người
phải lấy đức làm gốc. Đứ ở đây không phải là đạo đức, lễ giáo phong kiến mà là đạo đức
cách mạng, đã được mở Người mở rộng, nâng lên một tầm cao mới với những chuẩn mực
cao đẹp: “ Trung với nước, hiếu với dân, cần-kiệm-liêm-chính-chí công vô tư”. Đạo đức
cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng , một long một dạ phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân. Mối quan hệ chắc chẽ giữa tài và đức, vai trò của mỗi mặt đức, tài
được Người chỉ rõ; “ Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”, “Có tài
phải có đức, có tài mà không đức thì tham ô nhủ hóa có hại cho nước. Có đức mà không
có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp được ai”. “ Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức…”. Đó chính là cái gốc của con người mới mà nhờ đó
con người mới phát triển, hoàn thiện mình. Sự trưởng thành, phát triển con người phần
nhiều do nên giáo dục mà nên.
3
Xây dựng và hoàn thiện con người mới phát triển và toàn diện thông qua hoạt động
giáo dục và tự giáo dục, tư tưởng đó của Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục đã vạch ra
phương hướng cơ bản của chiến lược con người, chiến lược giáo dục ở nước ta. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung , về mục tiêu giáo dục nói riêng là tài sản vô giá được
Đảng và Nhà nước ta kế thừa, vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong quá trình xây
dựng, phát triển nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện
đại hóa vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiên nay.
1.2.
Nội dung giáo dục toàn diện
Theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Muốn
đạt được mục tiêu đó thì nội dung giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn hóa, chính trị,
khoa học- kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, các ngành nghề liên quan tới công nghiệp,
nông nghiệp, nông thôn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục- đào tạo luôn thể hiện yêu cầu nội dung giáo dục
toàn diện, đào tạo con người vừa có tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh khoa học- kỹ
thuật vừa có đức; trong đó, Người coi đức là gốc của con người, của cách mạng, của công
việc. Đây là tư tưởng then chốt của Hồ Chí Minh về giáo dục- đào tạo. Chính vì vậy mà
trước lúc ra đi, Người căn dặn:”Đảng cần lăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo lớp
người thừa kế vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
chuyện rất quan trọng và cần thiết”.
Người nhấn mạnh nhiệm vụ của nền gíao dục cách mạng là:” Phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ gắn liền với đời sống và
sản xuất nhân dân”. Giáo dục phải tạo ra dược những con người lao động mới. Đó là
những người có lòng yêu nước nồng nàn , “ trung với nước, hiếu với dân”, có đạo đức
trong sáng , có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần gan dạ
dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri tức và sức khỏe
trở thành những người chủ tương lai của đất nước , “ những người kết thừa xây dựng Chủ
Nghĩa Xã Hội vừa hồng vừa chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh không
ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ
4
quốc . Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập,
Bác Hồ gửi thư cho học sinh, một bức thu đầy tình cảm và tâm huyết:” Các em học sinh!
Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tôi đã
tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh tưng bừng nhộn nhịp của ngày tựu trường ở khắp
các nơi…Nhưng sung sướng hơn nữa, từ giờ phút này trở đi, các em được nhận một nền
giáo dục hoàn toàn Việt Nam”. Nền giáo dục hoàn toàn theo Việt Nam ấy, theo Bác là:”
Một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên
những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn
toàn những năng lực có sẵn của các em’.
Theo quan điểm của Người các nội dung giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Nếu trong có trình độ học vấn thì không thể học tập dược kỹ thuật , không học tập dược
kỹ thuật thì không theo kịp được thời đại mà cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, công
nghệ đang phát triển mạnh mẽ và càng như vậy thì càng tụt hậu xa hơn so với các nước ,
không khoa học- kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nhà nước , học tập
khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa họccông nghệ đang phát triển như vũ bão.
Một điều quan trọng trong nội dung giáo dục đó là phải học tập chính trị. Bởi nếu chỉ
có học tập văn hóa, kĩ thuật chuyên môn mà không chính trị thì như người nhắm mắt mà
đi. Giáo dục chính trị là nền tảng , trên cơ sở đó nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên
môn.
Xã hội ngày càng phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ nên Người cho rằng phải cải
cách giáo dục, nhằm xây dựng chương trình nội dung, phương pháp dạy học và học thuật
khoa học, hợp lí, đáp ứng đòi hỏi của cách mạng. Phải tiến hành cải tạo giáo dục xây
dựng một hệ thống trường lớp với chương trình nội dung dạy và học hợp lí, phù hợp với
các giai đoạn của cách mạng .
5
1.3.
Phương châm và phương pháp giáo dục
1.3.1.
Phương châm giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải
nhân thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, phải coi giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của
quần chúng, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong bức thư cuối cùng gửi cho ngành
giáo dục ( ngày 5.10.1968) Bác chỉ rõ: “Giáo dục là sự ngiệp của quần chúng. Cần phải
phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt
chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa
nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó … Các ngành, các cấp Đảng
và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm
sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của nước ta lên những bước phát triển
mới”. Trong công tác quản lý giáo dục, Người đã chỉ thị: “phải đi sâu vào việc điều tra
nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn, kết hợp
chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm quy
báo và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương”. Dù bận trăm công
nghìn việc, Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo sát sao các phong trào thi đua, điển hình
như phong trào thi đua “ Hai tốt” được phát động bắt đầu từ tiếng trống khai trường của
trường cấp II Bắc Lý năm 1961, phong trào “kế hoạch nhỏ”, công tác Trần Quốc Toản…
cho thiếu niên, nhi đồng nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho công
tác giáo dục.
Đúc kết lại, phương châm giáo dục của Tư tưởng Hồ Chí Minh là học đi đôi với
hành, lý luận phải đi đôi với thực tế, học tập phải kết hợp với lao động, phải kết hợp chặt
chẽ 3 khâu: gia đình, nhà trường và xã hội.Thực hiện dân chủ bình đẳng trong giáo dục.
Học ở mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người, học tập suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào
tạo và đào tạo lạ
1.3.2.
Phương pháp giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người vạch
đường, chỉ lối, người tổ chức, lãnh đạo, cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi, chủ tịch Hồ
6
Chí Minh còn là người thầy giáo với ý nghĩa đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng
nên bao thế hệ cán bộ của cách mạng Việt Nam. Mục đích giáo dục trong tư tưởng Hồ
Chí Minh không chỉ bó hẹp trong việc dạy tri thức nâng cao trình độ học vấn, mà hơn thế
giáo dục nhằm đào tạo những con người phát triển toàn diện về nhân cách, vừa đủ đức, đủ
tài. Vì vậy trong quá trình giáo dục, Bác quan tâm đặc biệt đến phương pháp giáo dục,
giáo dục phải làm sao cho khoa học, phong phú, đa dạng, và mẫu mực.
Bác luôn luôn căn dặn:” Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức
làm nhưng làm vội vã cũng không được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ
hai mới đến bước thứ hai, rồi thứ ba mới đến bước thứ ba. Vội thì ngã. Phải làm có kế
hoạch, có từng bước”.
Phương pháp giáo dục được sử dụng trong giảng dạy phải dựa vào nhu cầu của người
học. Giáo dục phải căn cứ vào:” trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ,
kinh nghệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng”. Trong
giáo dục, phải tạo được môi trường dân chủ, thẳng thắn và đối thoại. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy.
Song không được nói gàn, nói vòng quanh. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã tìm thấy
chân lí, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lí. Từ đó, Hồ Chí
Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành
kiến đối với các ý kiến trái ý kiến của mình.
Theo Bác, phải kết hợp học tập với vui chơi, giải trí lành mạnh, phải dùng biện pháp
nêu gương gắn liền với phong trào thi đua…Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn
là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Phương pháp nêu gương là một biện pháp hữu
hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy “mình phải làm
gương , gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm
gương về cả ba mặt tinh thần, vật chất và văn hóa”. Nêu gương là một phương pháp giáo
dục quan trọng. Người dạy: những gương người tốt, việc tốt muôn hình, muôn vẻ, là vật
liệu quý để xây dựng con người, lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn
nhau là một trong những cách tốt nhất.
7
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối
hóa bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết:” giáo dục dù trong nhà trường có tốt
mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn
toàn”.Một lần nữa phải khẳng định rằng muốn có một nền giáo dục tốt thì phải có phương
pháp giáo dục tốt.
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VÀO NÊN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng giáo dục đại học nước ta hiện nay.
Hiện nay, nền giáo dục đại học nước ta có khuynh hướng đề cao khái niệm “đại
học quốc tế chất lượng cao”, cơ bản xây dựng đại học tốt là điều kiện cần có, nhưng điều
kiện đủ là ta phải đào tạo ra được nhưng sinh viên chất lượng, là nhân tố tốt, hạt giống tốt
của đất nước. Việc làm lâu nay ở Việt Nam là đạo tạo hàng loạt số lượng sinh viên đầu ra
trường nhưng lại quên mất vấn đề quan trọng là sự đóng góp của thế hệ thanh niên hiện
nay đối với sự nghiệp phát triển đất nước như thế nào. Hàng loạt thạc sĩ, tiến sĩ ở Việt
Nam ra trường mà có thể vận dụng được đầu óc, sự sáng tạo, kiến thức của mình cho đất
nước. Bao nhiêu người học đại học ra có thể học và làm việc theo đúng ngành nghề mình
chọn, yêu thích. Thậm chí ở học sinh, sinh viên hiện nay học đủ loại thứ tiếng, đủ loại
bằng ngoại ngữ nhưng chính tiếng Việt mẹ đẻ lại không thể sử dụng chính xác hay chuẩn
được. Vậy nên dù xây dựng được nhiều trường đại học, nhiều sinh viên ra trường nhưng
chất lượng và khả năng vận dụng vào thực tế như thế nào mới quan trọng. Đây cũng là
nhân tố quan trọng cho sự phát triển khoa học kỹ thuật ở Việt Nam lúc này.
Trong nhiều thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, thành
tựu đáng ghi nhận, đào tạo nhân lực, nâng cao tri thức cho công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Thế nhưng, nó cũng đồng thời chứa nhiều yếu kém, bắt cập:
Nền giáo dục mắc một căn bệnh lâu đời mà khó có thể chữa trị được. Việc
đua nhau nhồi nhét học thuộc lòng bài vở để có điểm số cao thế nhưng vận dụng
8
vào thực tế thì lại gặp khó khăn. Việc thi cử hằng năm luôn gặp vấn đề gian lận, đề
thi gặp sai sót, ý thức học đường kém. Thực tế cơ quan nhà nước đều thấy rõ được
căn bệnh này. Nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức nhằm phân tích vấn đề, thế
nhưng việc đưa ra các giải pháp khắc phục, thực hiện lại không được đưa vào. Có
nói mà không làm là một trong những vấn đề nan giải không chỉ riêng ở giáo dục
mà còn ở văn hóa, kinh tế, xã hội ở Việt Nam.
Giáo dục còn nhiều hạn chế yếu kém bất cập chậm khắc phục, chất lượng
giáo dục còn thấp, quan tâm đến số lượng hơn là chất lượng, chưa đáp ứng đầy đủ
cho nhu cầu phát triển đất nước.
Nội dung, chương trình giáo dục chậm đổi mới, còn lạc hậu, chưa gắn chặt
với lao động và đời sống xã hội, chưa phát huy tính sáng tạo và năng lực thực hành
vận dụng của sinh viên.
Chất lượng giáo dục có phần buông lỏng, nhất là giáo dục đạo đức và lối
sống; giáo dục chỉ quan tâm đến kiến thức mà chữ “người” và “nghề” thì lại bị bỏ
nghỏ, lãng quên.
Hệ thống giáo dục còn chưa hợp lý, thiếu đồng bộ, mất cân đối.
Quản lý nhà nước trong giáo dục còn yếu kém, chậm đổi mới, còn nhiều
lúng túng, nhận thức khác nhau nhất là điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế, chưa theo kịp sự đổi mới của các lĩnh vực khác đất nước.
Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định
hướng liên kết với nước ngoài còn nhiều lúng túng, chưa rõ chiến lược.
Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành
cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu
những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô; một số chính sách giáo dục còn
chủ quan, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể giải
quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt nhất thời,
thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống, chưa đạt tới chiều
9
sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn đề đặt ra, những người
lãnh đạo – quản lý, những nhà khoa học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn
toàn diện, đầy đủ, khách quan, như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn
những gì nêu trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng.
2.2.1. Về phía người dạy
Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng
cao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm người học
tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết, thiếu cập nhật thực
tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặt khác, việc sử dụng các phương
tiện phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều do vậy mà không thể truyền tải hết lượng thông tin
cần cung cấp cho người học, số thời gian của giảng viên dành cho lên lớp tại các trường
quá lớn, cho nên hạn chế thời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế. Chính
sách lương bổng cho giảng viên còn thấp, không tạo nhiều điều kiện cho đời sống của gia
đình và bản thân họ.
2.2.2. Về phía người học
Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học còn thấp, chủ yếu tập trung
vào các trường xét tuyển, tính chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh
viên nhìn chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong
trào, học cho qua “học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến
thức để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ.
2.2.3. Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưa gắn
với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫn tới sinh viên
Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thực tế.
2.2.4. Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, đầu tư nâng cấp
Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay đang từng bước
thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định hướng giáo dục toàn diện
10
cho học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây chủ yếu dạy kiến thức, nặng về lý
thuyết, chưa quan tâm đến giáo dục tình cảm và hành động cho học sinh.
Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp : Hiện nay ngành giáo dục
các địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương nhiều hơn là chịu tác động
hàng dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường phổ thông dạy học, thi cử đúng như quy
chế của Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng nếu học sinh thi rớt nhiều, lưu ban nhiều thì địa
phương sẽ có ý kiến , thậm chí có những ý kiến chỉ đạo, “bệnh thành tích”có cơ hội để
phát triển trong cơ chế quản lý giáo dục hiện nay.
2.3. Những giải pháp nhằm nâng cao giáo dục đại học hiện nay.
Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi
dưỡng nhân tài ” . Vì vậy, muốn thực hiện được mục tiêu trên chúng ta cần tích cực thực
hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục :
Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Trên thế giới và trong khu vực
hiện nay tỷ trọng ngân sách giành cho giáo dục – đào tạo rất cao, chúng ta do điều
kiện đất nước còn nghèo , nguồn cung cấp ngân sách cho giáo dục- đào tạo còn hạn
chế. Ngoài ngân sách nhà nước hiện nay chúng ta đang huy động các nguồn lực
ngoài ngân sách, xã hội hoá giaó dục để tăng nguồn lực cho giáo dục đào tạo . Hiện
nay có nhiều nước trên thế giới coi giáo dục là một ngành kinh doanh, kinh doanh
công nghệ dạy học, chúng ta nên tạo điều kiện kêu gọi họ tham gia xây dựng cơ sở
vật chất và nội dung chương trình giáo dục cho ta. Ngoài ra ta nên có chủ trương
cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học
đúng với ngành nghề đào tạo.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục: Từng bước đổi mới nội
dung sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những nội
dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa
học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật
tổng hợp và năng lực thực hành. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh, coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là
11
tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam. Tổ chức cho sinh viên tham
gia công tác xã hội, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao phù hợp với yêu cầu
giáo dục toàn diện.
Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, đưa công nghệ vào quản lý
và đổi mới phương pháp : Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các
trường phổ thông, trường dạy nghề, trường đại học. Tích cực đưa công nghệ vào
giảng dạy, thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Hiện nay trên thế
giới đang thực hiện những phương tiện dạy học hiện đại như: học với máy tính, với
đèn chiếu, với giáo án điện tử …
Đổi mới công tác quản lý giáo dục : Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc
làm.
Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học : Xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong toàn ngành là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài bởi vì sự nghiệp giáo dục nước ta luôn phát triển
đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn, nghiệp
vụ sư phạm của nhà giáo và năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ quản lý giáo dục.
Trách nhiệm của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không chỉ là trách nhiệm với
hiện trạng giáo dục nước ta hôm nay mà còn là trách nhiệm với quá khứ và tương
lai. Ngành Giáo dục nước ta phải là nơi thu hút được những người giỏi nhất, thông
minh nhất và yêu nghề nhất để thực sự là đòn bẩy để nâng con người Việt Nam lên
vị trí hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù những năm qua, giáo dục và đào tạo nước ta đã tạo ra những tiền đề quan
trọng để đổi mới cơ bản và toàn diện, đó là sự thay đổi nhận thức và lòng tin của xã hội
đối với quyết tâm đổi mới của toàn ngành giáo dục, nhưng căn bệnh thành tích và những
tiêu cực, hạn chế trong giáo dục và đào tạo vẫn phổ biến. Chất lượng giáo dục và đào tạo
là yêu cầu về “đầu ra” của học sinh phổ thông và sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Tuy nhiên, hệ thống giáo dục đại học chưa có một phương pháp khoa học và ổn định
12
trong đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong khi đó, tình trạng bằng “thật” nhưng học “giả” ảnh hưởng không nhỏ đến việc đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng của đất nước. Bộ giáo dục và đào tạo đánh giá, trong
đào tạo đại học, cao đẳng hệ không chính quy của nhiều trường còn mất cân đối về cơ cấu
ngành nghề, trình độ và hình thức đào tạo. Nhiều trường vi phạm các quy định trong
tuyển sinh, đào tạo, cấp phát bằng, mở ngành đào tạo. Trong khi đó, việc quản lý của Bộ
Giáo dục và Đào tạo cùng các cấp còn hạn chế, chưa kiểm tra, giám sát thường xuyên,
việc thanh tra, kiểm tra chưa có hiệu quả.
2.4. Trách nhiệm của sinh viên hiện nay đối với việc xây dựng nền giáo dục hiện
đại.
Với tư cách là sinh viên trong thời kỳ hội nhập, đổi mới hiện nay, mỗi cá nhân đầu
tiên cần có tăng cường ý thức trong học tập. Với sự phát triển về xã hội thì lối sông của
các thế hệ trẻ càng lệch lạc, bỏ bê quên đi chuyện học tập mà vùi lắp bản thân vào mạng
xã hội, game… Vì thế mỗi cá nhân cần đặt ra định hướng cho bản thân trong việc học, tự
học, tự tìm tòi tài liệu để từ đó nâng cao kiến thức, trình độ để trình độ dân trí nước nhà
càng nâng cao. Hơn thế, không chỉ dừng lại ở việc định hướng lại việc học tập, mỗi sinh
viên cần tìm tòi học hỏi để tìm ra những giải pháp đổi mới trong việc học. Và một điều
quan trọng thế hệ học sinh sinh viên là cần thay đổi suy nghĩ là kết quả việc học nằm ở
điểm số. Điều đó chỉ phản ánh đúng một phần về năng lực học tập của mỗi cá nhân mà
hơn hết là bạn đã tiếp thu được kiến thức gì từ việc học. Đó cũng là suy nghĩ phổ biến của
sinh viên ở các nước phát triển. Ngoài ra, bản thân sinh viên cần trau dồi thêm các kỹ
năng sống cho bản thân, không chỉ cắm đầu vào sách vở mà còn cần tham gia các hoạt
động ngoại khóa, tình nguyện bởi đó là môi trường tốt giúp bạn thể hiện bản thân, áp
dụng các kiến thức đã học váo thực tiễn. Học đi đôi với hành là việc mỗi sinh viên cần đặt
ra cho bản thân để tránh việc chỉ học các kiến thức hàn lâm nhưng không biết đặt nó vào
thực tế. Tóm lại, nền giáo dục hiện nay muốn phát triển thì cần phụ thuộc vào Nhà nước,
giáo viên và thế hệ học sinh sinh viên. Trong đó, thế hệ trẻ đóng vai trò chủ chốt nên mỗi
sinh viên cần ý thức hơn trong việc học tập, rèn luyện bản thân để đưa đất nước vươn xa
hơn, đưa nền giáo dục Việt Nam sang một trang mới.
13