Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ĐƯỜNG lối xây DỰNG PHÁT TRIỂN nền văn hóa và GIẢI QUYẾT các vấn đề xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.56 KB, 23 trang )

CHƯƠNG VII
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VÀ GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
II, QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ
HỘI
2. Trong thời kì đổi mới
a. Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội
Tại đại hội VI , lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội
, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các
lĩnh vực khác. Cụ thể là:
- Chính sách xã hội không còn bó hẹp trong cách hiểu trước đây là phúc lợi xã hội,bảo trợ
xã hội ,đền ơn đáp nghĩa mà hiện nay nó đã bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người và
liên quan mật thiết đến lĩnh vực khác đặc biệt là cuộc sống kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến
năng suất hoạt động, chất lượng của sản phẩm
- Khẳng định coi nhẹ chính sách xã hội là coi nhẹ nhấn tố con người trong sự nghiệp xây
dựng CNXH
=> Đây là sự đổi mới tư duy về giải quyết vấn đề xã hội đặt trong tổng thể đường lối phát
triển của đất nước nên có chính sách cơ bản, lâu dài,phù hợp với nhu cầu khả năng trong
chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ.
Tại đại hội VII ( 24-27/6/1996) của Đảng , Đảng chủ trương : “tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội...”
- Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm
phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
- Kinh tế phát triển trong điều kiện để thực hiện chính sách xã hội tạo ra động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế.
Tại đại hội Đảng VIII của Đảng ( T6/1996) đã chủ trương , hệ thống chính sách xã hội
phải được hoạc định theo những quan điểm sau :

1



- Thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công
bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất cũng như ở khâu
phân phối kết quả sản xuất...
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.
Tại đại hội Đảng lần thứ IX ( T1/2004)
- Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa trọng đại khi thế kỉ XX kết thúc , thế kỉ XXI vừa bắt
đầu . Toàn Đảng trải qua 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội VIII , 10 năm thực hiện chiến
lược ổn định kinh tế -xã hội và 15 năm đổi mới
Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm và đánh giá những thành tựu và khuyết điểm trong
thời gian qua, đề ra những quyết sách mới,phấn đấu nâng cao hơn năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bằng những mục tiêu :
- Các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội.
- Thực hiện công bằng xã hội trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động
- Thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội.
- Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Trong những thành tựu đã đạt được cơ bản , đồng thời Đảng cũng chỉ ra những hạn
chế trong việc thực hiện một số chính sách xã hội như nguy cơ đói nghèo còn lớn, khoảng
chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân,...
Sang tới đại hội X , Đảng chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục
tiêu xã hội trong phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương. Khi nước ta tham gia vào
Tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) , hội nghị Trung ương lần 4 khóa X ( T1-2007) nhấn
mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với
WTO...
Đại hội XI , Đảng nhấn mạnh quan điểm : “ con người là trung tâm của chiến lược
phát triển . Tôn trọng và bảo vệ quyền con người , gắn quyền con người với quyền và lợi
ích của dân tộc đất nước và quyền làm chủ của nhân dân...” cụ thể :
2



- Bảo đảm công bằng về quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Tạo môi trường và điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập cao hơn.
- Hạn chế tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm các tác hại cảu tệ nạn xã hội.
- Thực hiện chính sách bình đẳng , đoàn kết , tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân
tộc.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo
theo quy định của pháp luật.
- Đấu tranh xử lí nghiêm khắc đối với mọi hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng , tôn giáo và
lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
=> Chủ trương phát triển toàn diện , mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát
triển kinh tế
=> Kết luận chung :
Từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã có những thay đổi về nhận thức và tư duy sâu sắc :
- Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác
với chính sách kinh tế đã thống nhất chính sách xã hội và chính sách kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội từng bước phát triển
- Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ dến thiết lập các chinh sách để tạo cơ hội việc làm cho
nhân dân
- Từ chỗ không chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo đến khuyến khích mọi người làm giàu
hợp pháp di đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.

∗ Liên hệ thực tiễn
Đây là cơ hội cho đất nước nhưng cũng đồng thời là thách thức cho đảng và chính
quyền trong việc thành lập đường lối chính sách sao cho hợp lý với sự phát triển và hội
nhập của nước ta.
Trong đại hội Đảng lần thứ 6, một trong những quyết định quan trọng của Đảng ta là
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm giải quyết loạt khủng hoảng trong nước thời bấy giờ. Một trong ba nhiệm

vụ quan trọng và bức thiết hàng đầu đó là giải quyết vẫn đề lương thực, Đảng đã chủ
3


trương áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và có những chính sách đúng đắn nhằm khuyến
khích các thành phần kinh tế tận dụng năng lực sản xuất. Kết quả đạt được quả là một
thành tích đáng khen khi mà tình trang thiếu thốn lương thực và hàng tiêu dùng đã không
còn. Hơn thế nữa, Việt Nam còn trở thành nước xuất khẩu gạo nhiều thứ 2 thế giới. Nhưng
đây cũng lại trở thành một vẫn đề mới khi mà người nông dân của chúng ta đang bán sức
lao động quá rẻ mạt bởi giá gạo của nước ta quá thấp, số lượng nhiều nhưng chất lượng
chưa được đảm bảo – đây vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ dành cho các chính sách của nhà nước.
Một trong những chủ trương của đảng là nhằm giải quyết lạm phát. Sau kỳ đại hội, tỷ
lệ lạm phát của nước ta những năm 1986-1988 từng có thời kỳ siêu lạm phát nhưng sau đó
đã được kìm hãm và giữ ở mức tương đối ổn định cùng với tăng trưởng những năm sau.
Những chính sách của nhà nước với quyết định đổi mới mạnh mẽ thực sự đã đem lại
những hiệu quả tích cực về một số mặt như nâng cao đời sống nhân dân, giải quyết vấn đề
lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng. Giảm thiểu số hộ nghèo trên cả nước, tập trung vào
phát triển xã hội về các mặt như y tế, giáo dục… Tiến hành phổ cập giáo dục. Việc trở
thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng đem lại một vị thế và cơ hội cho sự phát
triển chung của nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều những vấn đề chưa làm được hoặc
chưa làm tới. chẳng hạn như về vấn đề môi trường. Mặc dù nhà nước chủ trương phát triển
bền vững, đề cao vai trò của môi trường, tuy nhiên sự thực là tình trạng ô nhiễm của nước
ta ngày càng nặng nề, đặt biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh,…không
những thế tình trạng ngập xâm nhập mặn và xói mòn đất gia tăng nhanh chóng do sự sụt
giảm về diện tích che phủ của rừng. Một vấn đề nữa cần được quan tâm, mặc dù nhà nước
ta đang trên đà phát triển nhưng tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra ngày một nhiều
và có xu hướng nhiều hơn nữa. Và việc người lao động Việt Nam có trình độ còn non
kém , thiếu kỹ năng dẫn đến tình trạng năng xuất của nước ta rất thấp, xếp 11/12 trong khu
vực và chỉ bằng 1/18 so với Singapore. Đây là vẫn đề bức thiết đối với các chính sách vì
dân số nước ta đang trong thời kỳ vàng, nếu không tận dụng được hết tiềm lực thì đồng

nghĩa với việc bỏ qua cơ hội phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Chủ trương của Đảng nhằm gia tăng quan hệ đối ngoại, gia nhập vào các tổ chức quốc
tế, chuẩn bị cho tiến trình hội nhập sau này của đất nước. WTO thực sự là một bước đi
đúng đắn của đảng ta khi mà việc trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra rất
nhiều cơ hội cho đất nước ta trên cả vi mô và vĩ mô. Lợi ích lớn nhất có thể nói đến ở đây
chính là việc thị trưởng xuất khẩu thuận lời cho Việt Nam được mở rộng, theo đó, hàng hóa
Việt Nam sẽ được cạnh tranh bình đẳng với các nước khác mà không vướng rào cản về hạn
ngạch và thuế. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần trong nền kinh
4


tế….và rất nhiều lợi ích khác đem lại cho kinh tế- xã hội nước ta. Tuy nhiên, điều này cũng
đặt ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc giảm
thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế trong thời gian nhất định vì vậy cạnh tranh trong thị
trường nội địa sẽ trở nên khốc liệt hơn. Đồng thời, các thể chế kinh tế và chính sách cũng
cần phải chuyển đổi nhằm thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của đất nước. Cùng với
đó là sự phát triển tục hậu, trình độ nhân công yếu kém khiến các doanh nghiệp nước ta
yếu thế trước các doanh nghiệp nước ngoài.
b. Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội:
- Một là kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
+ Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có liên
quan trực tiếp.
+ Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể xảy
ra để chủ động xử lí
+ Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
+ Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu này phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các ngành,
các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế địa phương cơ sở
- Hai là xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển
+ Trong từng bước và từng chính sách phát triển (của chính phủ hay của ngành, của trung

ương hay của địa phương), cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Nhiệm vụ “gắn kết” này không dừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị mà
phải được pháp chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc các chủ thể phải thi
hành
+ Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm
phát triển bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hòa, ko làm theo số lượng, tăng trưởng
bằng mọi giá.

5


- Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu nghị
giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
+ Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập tương đối so với kinh tế, nhưng không thể tách
rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp.
+ Trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và
hưởng thụ. Đó là yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội, xóa bỏ quan điểm bao
cấp, cào bằng, chấm dứt cơ chế xin – cho trong chính sách xã hội
- Bốn là coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người
(HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội
+ Chỉ số phát triển con người (HDI) là chỉ số tổng hợp của tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết
chữ, giáo dục và các tiêu chuẩn cuộc sống các quốc gia trên thế giới. Nó là chỉ số tiêu
chuẩn của chất lượng cuộc sống, đặc biệt là phúc lợi trẻ em. HDI còn được sử dụng để
đánh giá một quốc gia là nước phát triển, nước đang phát triển và nước kém phát triển. Đây
cũng là chỉ số xác định sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sống.
+ Thực tiễn cho thấy, từ phương diện đầu tư cho phát triển thì việc đầu tư vào yếu tố con
người, không ngừng nâng cao vốn con người được coi là đầu tư có hiệu quả nhất. Kinh
nghiệm một số quốc gia phát triển khẳng định chiến lược ưu tiên đầu tư có định hướng cho
con người thông qua việc đẩy mạnh chi tiêu một số lĩnh v ực xã hội: giáo dục, y tế, an sinh

xã hội và xoá đói giảm nghèo đã làm nên những bước tiến thần kỳ trong tăng trưởng kinh
tế và đổi mới xã hội.
Vd: Bên cạnh việc là nước có chỉ số GDP đứng thứ 3 thế giới theo Quỹ tiền tệ quốc tế,
Singapore cũng có chỉ số HDI rất cao-đứng thứ 11 thế giới và đứng đầu ở châu Á. Có thể
nói chính sách giáo dục đóng góp rất lớn vào thành quả này cho con rồng châu Á
Singapore, tiêu biểu phải kể đến các chính sách: Trọng dụng nhân tài, Tiếng Anh: Chìa
khóa để tránh tụt hậu, Giáo dục chỉ được phép thừa, không được phép thiếu.
=> Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển là phải vì
con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phát triển
phải bền vững, không chạy theo số lượng tăng trưởng.
Giải quyết các vấn đề xã hội phản ánh bản chất của một chế độ của con người, do con
người và vì con người, một thuộc tính cơ bản của CNXH.
6


Việc phục vụ con người là mục đích cao nhất trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà
nước, lần đầu tiên văn kiện Đại hội VI đưa ra khái niệm chính sách xã hội, thể hiện sự đổi
mới tư duy của Đảng: giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát
triển của đất nước.
Từ thực tế triển khai thực hiện chính sách xã hội, Đại hội VIII của Đảng (6-1996) đã
tổng kết thành các quan điểm định hướng xây dựng và phát triển xã hội như: Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá
trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất
lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình; Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xoá đói giảm nghèo; Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ
nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu, thuỷ chung.
Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã cụ thể hoá
và bổ sung các quan điểm về chính sách xã hội của Đại hội VIII, với những nội dung cơ
bản:

- Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị trường lao động; người lao
động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự
tham gia của các thành phần kinh tế”12.
- Trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều tiết, vừa là nhà đầu
tư.
- Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công bằng trong thụ
hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối trọng, những
vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn.
- Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham gia giải quyết
các vấn đề xã hội.
- Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội.
Nhìn khái quát, trong hơn 20 năm qua, tư duy của Đảng về lĩnh vực xã hội có những
bước phát triển mới, đó là việc nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của chính sách xã
hội trong sự nghiệp đổi mới; về mới quan hệ chế định lẫn nhau giữa chính sách xã hội và
chính sách kinh tế, về giải quyết các vấn đề xã hội hướng vào lành mạnh hóa xã hội, đảm
7


bảo quá trình tăng trưởng kinh tế vững chắc, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của
đất nước.

∗ Liên hệ thực tiễn:
Vụ cá chết Formosa : Thứ nhất, Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đã bày tỏ thái
độ kiên quyết phát triển bền vững đất nước, không chấp nhận vì lợi ích kinh tế mà hi sinh
môi trường . Thứ hai, Việt Nam bằng nhiều cách khác nhau đã thể hiện thái độ phản đối
các hoạt động sản xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của họ.
Như chúng ta đã biết, sức mạnh của Nhân dân Việt Nam thật là lớn lao trong việc giữ gìn
sự bình yên của đất nước và của mỗi gia đình. Ba là, chúng ta đã có một hệ thống luật pháp
về bảo vệ môi trường khá chặt chẽ, đủ để răn đe và trừng phạt đối với mọi tổ chức, cá nhân

xâm hại đến môi trường. Thứ 4, ngày nay cộng đồng văn minh trên toàn thế giới ủng hộ
mạnh mẽ các hoạt động phát triển bền vững, sản xuất sạch hơn, bảo vệ môi trường, vì hạnh
phúc của con người. Bởi vậy, các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường sẽ bị lên án
mạnh mẽ, bị tẩy chay, và như vậy, chính họ đã làm giảm sức cạnh tranh của chính mình
trên phạm vi toàn cầu. Và điều quan trọng nữa là, bản thân FHS đã có những cam kết rõ
ràng, bằng văn bản gồm 5 điểm mà Nhân dân cả nước đã biết. Chính Phủ cũng sẽ buộc
FHS có những thay đổi lớn trong hệ thống xử lý nước thải với yêu cầu: Tất cả nước thải từ
tổ hợp sản xuất của FHS phải được xử lý triệt để, đảm bảo tiêu chuẩn theo qui định của
Việt Nam bằng những công nghệ thích hợp với từng loại nước thải.
Liên hệ với xu hướng sống hưởng thụ của giới trẻ hiện nay:
Bên cạnh những mặt tích cực, những thành tích đáng tự hào của thế hệ trẻ đầy đầy
tâm huyết, có lý tưởng sống và cống hiến cao đẹp, cháy bỏng cho Tổ quốc thì phải thừa
nhận rằng ngày nay vẫn còn nhiều thanh niên đang sống buông thả, xa rời lí tưởng, ảnh
hưởng không nhỏ đến tương lai của dân tộc Việt Nam. Họ đang thụ hưởng những điều kiện
sống tốt nhất, được dành sự ưu ái nhất, được hội nhập và tiếp cận cái mới nhanh nhất…
nhưng trước những trái của nền kinh tế thị trường, sự lỏng lẻo của các thiết chế xã hội
trong đó có các giá trị bền vững của gia đình dần đổ vỡ theo cơ chế thị trường ấy, sự tác
động chống phá của các thể lực thù địch với âm mưu “Dùng cộng sản con diệt cộng sản
cha”, “Đầu vào kinh tế đầu ra chính trị”, khuyến khích lối sống hưởng thụ, hoài nghi, sa
đọa… đã làm cho không ít thanh niên ta lệch lạc trong nhận thức, sai lầm trong hành vi; lạc
lỏng, ăn chơi đua đòi và thói thờ ơ vô cảm….Nhiều thanh thiếu niên sống buông thả, sa
vào tệ nạn xã hội, có lối sống lệch lạc, phát ngôn tùy tiện và quan trọng hơn là dường như
lý tưởng của họ trở thành mong muốn tiêu cực, thiếu ý thức phấn đấu, không thiết tha với
8


tổ chức Đoàn – Hội, công tác xã hội, hoạt động tình nguyện mà thay vào đó là các cuộc ăn
chơi sa đọa, dùng vũ lực giải quyết mâu thuẫn, sử dụng ma túy, đua xe, cướp giật giết
người. Nhiều thanh niên tuổi đời còn quá trẻ đã rơi vào vòng lao lý, sức khỏe bị tàn phá
bởi những căng bệnh quái ác. Đấy là kết quả của chuỗi ngày ăn chơi trụy lạc và chẳng tiếc

gì cuộc đời và đấy cũng là kết quả xứng đáng dành cho những ai đang mất dần lý tưởng,
động cơ phấn đấu chân chính.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”, thế hệ ấy
không ai khác chính là các thế hệ thanh niên. Với sự quan tâm của toàn bộ hệ thống chính
trị, sự kỳ vọng của toàn xã hội, sự năng động, bản lĩnh, nhạy bén của thế hệ trẻ hôm nay tin
chắc rằng tuổi trẻ Việt Nam sẽ mãi xứng đáng là rường cột nước nhà, là mùa xuân đất nước
và là tương lai của dân tộc như Bác Hồ hằng mong ước. Hãy sống xứng đáng với sự mong
mỏi, kì vọng của xả xã hội, đừng chỉ biết làm con sâu trong cái kén, đừng chỉ biết sống như
một kẻ vô dụng, không lí tưởng, không nghề nghiệp, không tương lai…
c. Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
- Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo.
+ Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển. Đẩy
mạnh đào tạo tay nghề, mở rộng hệ thống dịch vụ, tư vấn lao động, có chính sách ưu đãi
hợp lý về nhiều mặt như tín dụng, thuế... tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên làm đủ
sống và trở thành khá giả.
+ Khuyến khích làm giàu chính đáng, tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng
tài năng, sáng tạo của bản thân, trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép. Có chính
sách hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.
+ Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo, đề phòng tái
đói, tái nghèo, nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên. Động viên các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động nhân đạo, ái hữu, từ thiện, giúp đỡ
nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai, những người tàn tật, neo đơn, không có khả
năng lao động.

∗ Liên hệ thực tiễn:
Có thể nói, ở Việt Nam tình trạng người dân buôn bán theo kiểu chộp giật hay kiếm
tiền bằng mọi giá không quan tâm đến tính mạng và sức khỏe của người tiêu dùng đang là
9



một vấn đề nhức nhối được dư luận quan tâm hiện này. Điều này có thể thấy dễ nhất ở thị
trường thực phẩm. Trong năm vừa qua, hàng loạt vụ bê bối về vệ sinh an toàn thực phẩm
được báo chí truyền thông phanh phui khiến người dân vô cùng lo ngại như: thịt lợn giả
thịt bò, heo nái bệnh biến thành thịt lợn rừng, giấm gạo làm từ axit,… thậm chí kênh vtv1
đã phải có hẳn một chương trình “ nói không với thực phẩm bẩn” để cùng người dân chung
tay xóa đi vấn nạn này. Bên cạnh đó, tình trạng buôn lậu hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lượng mà chủ yếu từ Trung Quốc vẫn là một vấn đề nhiều năm nay chưa có hướng
giải quyết hữu hiệu.
Hiện nay, đài truyền hình Việt Nam cùng nhiều đơn vị tổ chức đã thực hiện nhiều
chương trình có ích và giàu tính nhân văn giúp đỡ cho người nghèo phải kể đến như: lục
lạc vàng, cặp lá yêu thương được người dân đông đảo ủng hộ. Nhưng bên cạnh đó, chúng
ta cũng phải đặt ra dấu hỏi về tính hiệu quả của một số chương trình từ thiện. Hàng năm,
các trường cấp 2, cấp 3 đều có đợt ủng hộ quần áo cho các trẻ em vùng sâu vùng xa nhưng
lên mạng tìm kiếm chúng ta có thể thấy rất nhiều bức ảnh trẻ em trên các vùng núi không
có quần áo để mặc. Hay việc ủng hộ sách nhưng số trẻ em được đi học ở miền núi là vô
cùng thấp cũng làm giảm đi tính hiệu quả của chương trình.
- Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc
làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
+ Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.
+ Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu lao động.
+ Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội.
Theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” tạo lập nhiều hệ thống và hình
thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn.
Điều chỉnh, bổ sung các chính sách, nhất là các vấn đề quan hệ tới lợi ích thiết thân của
mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội.
+ Đổi mới chính sách tiền lương, phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý.
Liên hệ thực tiễn:
Các công trình công cộng chưa được nha nước chú trọng. Mới đây nhất, nhà nước

vừa có thông báo mới về việc qui định xử phạt những người tiểu bậy tăng mức phạt lên từ
1-3 triệu đồng. tìm hiểu nguyên nhân phát hiện ra tình trạng nhà vệ sinh công cộng có
10


nhiều bất cập là nguyên nhân chủ yếu gây ra việc tiểu tiện tự phát nhiều như thế: chất
lượng nhà vệ sinh thấp, phân bố chưa hợp lí và có 1000 nhà vệ sinh được xây nhưng chỉ có
1 nhà vệ sinh đi vào hoạt động.
- Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiêu quả
Công cuộc đổi mới toàn diện trong gần 30 năm qua, ở Việt Nam đạt được những thành
tựu to lớn và hết sức quan trọng, trong đó không thể không kể đến những đóng góp quan
trọng của ngành y tế. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã tiến được một bước dài để
hướng tới việc phục vụ nhân dân với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn, hiệu quả
hơn và công bằng hơn. Các chỉ số sức khỏe nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. “Chủ
trương tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế Việt Nam theo định hướng công bằng,
hiệu quả và phát triển, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở, mạng lưới y tế dự phòng, đảm bảo cho
việc chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt kết quả tốt nhất là chủ trương cực kỳ quan trọng của
Đảng và Nhà nước. Đổi mới ngành y tế sẽ là những đóng góp quan trọng vào việc thực
hiện thành công “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”
Để chăm sóc, bảo về, nâng cao sức khỏe của nhân dân trước mắt phải tập trung nâng
cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức
khỏe của nhân dân. Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối
với các đối tượng chính sách, phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế
ngoài công lập.

∗ Liên hệ thực tiễn:
Ngành y tế đã gặt hái được những thành tựu đáng chú ý trong năm vừa qua: công
trình “Nghiên cứu, ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh máu” đã xây dựng thành công 1
ngân hàng tế bào gốc máu dây rốn với hơn 3.000 mẫu máu dây rốn được lưu giữ - một
nguồn tế bào gốc quý giá giúp điều trị cho các bệnh lý ác tính ở người; công trình “Nghiên

cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi một lỗ và qua lỗ tự nhiên điều trị ung thư đại trực tràng”
góp phần rất lớn trong điều trị ung thư đại trực tràng; Việt Nam sản xuất thành công vắc
xin phối hợp sởi – rubella. Bên canh những mặt tích cực cũng còn những mặt tiêu cực: chỉ
6 tháng đầu năm, 37 tỉnh đã bội chi hơn 3.400 tỷ cho BHYT. Dấu hiệu tăng này có phần
bất thường. Lý giải nguyên nhân bội chi do chi phí bình quân của các nhóm đối tượng
tăng, cứ phát triển thêm đối tượng mới thì sẽ tăng chi phí. Thứ 2, do điều chỉnh giá dịch vụ
y tế đã chuẩn bị 16.000 tỷ để bù đắp chi phí. Thứ 3 là do thông tuyến huyện tăng 48% số
lượt KCB, do nhiều người- cả về cơ sở khám và người dân, lợi dụng kẽ hở của BHYT
nhằm trục lợi.
11


“ Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, vì vậy việc chăm sóc
y tế tốt hơn cho các đối tượng chính sách luôn được nhà nước chú trọng và thể hiện qua
điều 72. Bộ Y tế:
1. Hướng dẫn, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, bảo hiểm y tế đối với người có công với
cách mạng.
2. Ban hành danh mục bệnh tật, dị dạng, dị tật do nhiễm chất độc hóa học để xác nhận
người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học.
3. Hướng dẫn, quy định về tiêu chuẩn thương tật, bệnh tật, dị dạng, dị tật và tổ chức
khám, giám định đối với thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm
chất độc hóa học và con của người có công.
4. Hướng dẫn phương pháp tổng hợp tỷ lệ trong khám giám định tỷ lệ suy giảm khả
năng lao động.
- Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi.
Công tác truyền thông, vận động, giáo dục phổ biến kiến thức thực hành dinh dưỡng
hợp lý cho toàn dân, ban hành chủ trương, chính sách hỗ trợ dinh dưỡng, tăng cường
nguồn đầu tư cho dinh dưỡng, mạng lưới tiến hành chiến lược dinh dưỡng được củng cố và
mở rộng, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa nâng cao nhận thức, thay đổi
hành vi về dinh dưỡng ngày càng hợp lý hơn

Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã
hội.

∗ Liên hệ thực tiễn:
Tệ nạn xã hội ở Việt Nam ngày càng gia tăng và có xu hướng phức tạp hơn, đối tượng
vi phạm có xu hướng trẻ hóa. Xã hội càng phát triển, con người càng trở nên bận rộn hơn
và sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình trở nên mờ nhạt cùng với đó là
khoảng cách thế hệ khiến cho các thanh thiếu niên dễ dàng sa ngã. Giờ đây, việc sử dụng
chất cấm trong giới trẻ không còn là một điều xa lạ thậm chí nó còn trở thành trào lưu thể
hiện độ ăn chơi của của các bạn trẻ. Từ đây, nhiều sự vụ đau lòng đã xảy ra: ngày 28.10.16,
mọt thanh niên ngáo đá đã giết người yêu dã man trong phòng trọ vì tưởng là rắn sáu đầu
và khi bị công an bắt hắn vẫn còn trong tình trang lơ mơ chưa tỉnh.
Dưới đây là một số hình ảnh về việc sử dụng các chất gây nghiện:
12


Hình ảnh cô gái phê bóng cười ngã ngửa trên ghế

Thậm chí, việc sử dụng các chất gây nghiện còn được đăng ảnh công khai bởi những
người nổi tiếng.
13


Một số giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn sự lạm dụng chất gây nghiện trong thanh,
thiếu niên ở nước ta hiện nay.
+ Lực lượng Công an phường, xã cần khẩn trương và triển khai ngay công tác tuyên
truyền tới từng gia đình, cụm dân cư, trường học để mọi người thấy rõ hình thức, hậu quả
tác hại và hậu quả pháp lý của việc lạm dụng các chất gây nghiện của thanh, thiếu niên
thông qua hình thức hít keo, hút pin, hút shisha biến tướng hiện nay.
+ Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy cần kết hợp với lực lượng Công an

phường, xã nắm và quản lý được số lượng những thanh, thiếu niên đã từng hít keo, hút pin,
hút shisha biến tướng cũng như những thanh, thiếu niên có nguy cơ lạm dụng chất gây
nghiện này trong mỗi cộng đồng dân cư để đưa vào diện quản lý, đồng thời có biện pháp
giáo dục thích hợp.
+ Chính phủ cần khẩn trương ban hành Nghị định về việc quản lý đối với việc mua
bán, sử dụng các chất dung môi hữu cơ cũng như các chất gây nghiện khác có nguy cơ gây
nghiện mà chưa được quy định trong danh mục các chất gây nghiện.

- Năm là, thực hiện tốt chính sách kinh tế và kế hoạch hóa gia đình.
Dân số và phát triển có mối quan hệ tác động qua lại rất chặt chẽ. Quy mô, cơ cấu, chất
lượng và tốc độ tăng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế xã hội,
chất lượng môi trường và ngược lại.
•Tác động tích cực
Việt Nam là một nước có qui mô dân số lớn nên lực lượng lao động dồi dào, là động
lực tích cực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cơ cấu dân số trẻ nên lực lượng lao động trẻ
chiếm ưu thế, điều này có lợi cho việc chuyển dịch lao động và tạo ra sự năng động, sáng
tạo trong các hoạt động về kinh tế, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập; khả năng
ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ… tương đối cao và bền vững. Bên cạnh việc xây dựng và phát triển
kinh tế, qui mô dân số lớn còn là thế mạnh, là tiềm năng vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ
an ninh chính trị quốc gia.
•Tác động tiêu cực:

14


Sức ép đối với việc làm (thiếu việc làm nghiêm trọng): Thông thường, lực lượng lao
động xã hội chiếm khoảng 45-46% trong tổng số dân; tuy nhiên, do qui mô dân số lớn, tỷ
lệ gia tăng dân số cao dẫn đến lực lượng lao động lớn và tăng nhanh. Mặt khác, lao động
nước ta lại tập trung chủ yếu về nông nghiệp. Trong quá trình đô thị hóa, nhiều diện tích

đất canh tác nông nghiệp bị thu hẹp, lực lượng lao động nông nghiệp dôi dư nên dẫn đến
tình trạng thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động gia tăng.
Sức ép đối với tài nguyên, môi trường: Dân số tăng nhanh, lực lượng lao động thiếu
việc làm nghiêm trọng dẫn đến hậu quả nặng nề về tài nguyên môi trường: diện tích rừng
bị thu hẹp mau chóng do nạn khai thác bừa bãi lâm sản như chặt phá rừng, săn bắt thú và
động vật quí hiếm phục vụ mục đích thương mại, thay vào đó là các vùng diện tích đất
trống đồi trọc đã làm cho môi trường bị suy thoái nghiêm trọng, nạn lũ lụt, hạn hán thường
xuyên xảy ra do rừng đầu nguồn bị chặt phá. Tình trạng khai thác biển cũng xảy ra tương
tự, môi trường biển bị ô nhiễm nặng nề do việc khai thác, vứt rác, chất thải bừa bãi do ý
thức hạn chế của người dân…
Sức ép đối với y tế, giáo dục: Dân số tăng nhanh, trẻ em chiếm tỷ lệ tương đối lớn
trong khi đất nước còn nghèo đã tạo nên sức ép nặng nề đối với các lĩnh vực y tế, giáo dục:
tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cao (9,8%). Một số vùng nông thôn chưa phổ cập
xong chương trình tiểu học. Số trẻ em bỏ học hoặc không được đến trường còn nhiều.
Sức ép đối với an ninh quốc phòng và các vấn đề xã hội khác: Dân số gia tăng cùng với
việc di dân do quá trình đô thị hóa đã để lại hệ quả tất yếu khó kiểm soát về các lĩnh vực an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, sự xâm nhập của các trào lưu văn hóa
ngoại do quá trình hội nhập đã khiến một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên và lực lượng
lao động trẻ thiếu việc làm sa ngã. Các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm… ngày càng gia
tăng và diễn biến phức tạp. Đây là mối lo ngại lớn đối với mỗi gia đình và toàn xã hội.
Ngoài ra tình trạng mất cân bằng giới tính đang ngày càng nghiêm trọng.

Bước vào thời kì đổi mới, tại Đại hội Đảng lần thứ 6 đã nhận định: “Tình hình kinh tếxã hội của đất nước đòi hỏi giảm tỷ lệ phát triển dân số” Chính sách dân số thời kỳ này tập
trung vào giảm tốc độ gia tăng dân số nhanh. Giải pháp thực hiện là cung cấp dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) miễn phí, chủ yếu là vòng tránh thai; tăng cường công tác
tuyên truyền vận động, tập trung vào những người trong độ tuổi sinh đẻ; có chế độ khen
thưởng đối tượng thực hiện KHHGĐ và phạt đối với những người vi phạm chính sách.
15



Tại Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng đã khẳng định “Giảm tốc độ tăng dân số là một
quốc sách, phải trở thành cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong toàn dân.
Tăng kinh phí, phương tiện, cán bộ, đồng thời thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục,
hành chính để đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Củng cố các tổ chức chuyên
trách công tác DS-KHHGĐ”.
Xây dựng gia đình no ấm tiến bộ hạnh phúc, đảm bảo bình đẳng giới, chống nạn bạo
hành trong quan hệ gia đình. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương (khoá VII) đã
ban hành Nghị quyết chuyên đề về chính sách DS-KHHGĐ. Nghị quyết đã đề ra 5 quan
điểm cơ bản về chính sách DS-KHHGĐ với mục tiêu tổng quát là “Thực hiện gia đình ít
con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc” và mục tiêu cụ thể là
“Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi
gia đình (một cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ 21.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chính sách dân số tiếp tục
hoàn thiện. Tại Đại hội lần thứ XI (2011), Đảng đề ra “Thực hiện tốt các chính sách dân số
và kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm cân bằng giới tính hợp lý,
nâng cao chất lượng dân số.”
• Hạn chế của các chính sách trong việc bảo vệ trẻ em phụ nữ
Trong những năm gần đây tình trạng bạo lực trẻ em phụ nữ trong gia đình ngày một gia
tăng cả về số lượng lẫn mức độ. Đây không còn là một vấn đề của riêng gia đình mà là vấn
nạn của xã hội. Một trong những nguyên nhân quan trọng là pháp luật của nước ta còn có
nhiều khe hở, chưa chặt chẽ và chưa nêu rõ được trách nhiệm của từng người.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật hình sự, pháp luật hôn nhân gia
đình, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật về
bảo vệ quyền trẻ em còn hạn chế, chưa thường xuyên, dẫn đến nhận thức của một bộ phận
người dân về sự bình đẳng giới, về quyền của phụ nữ, trẻ em đặc biệt là trẻ em gái còn hạn
chế. Điều này dẫn đến tình trạng còn không ít người do thiếu hiểu biết về pháp luật nên cho
rằng nam giới có quyền bạo hành, trong đó có cả bạo hành tình dục đối với phụ nữ và trẻ
em gái. Còn các nạn nhân của nạn bạo lực tình dục như phụ nữ, trẻ em, do không nhận

thức được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu bạo lực tình dục.
- Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội
16


Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Huy động mọi
nguồn lực xã hội cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho những
người và gia đình có công với cách mạng”. Trong thời kỳ mới, chúng ta đổi mới hệ thống
chính sách ưu đãi xã hội cùng với tiến trình cải cách hành chính của Nhà nước. Thực chất
của vấn đề đổi mới chính sách ưu đãi xã hội không có gì khác là ban hành một hệ thống
văn bản pháp luật ưu đãi người và gia đình có công với cách mạng khoa học, hợp lý, đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn đời sống xã hội, trước hết là một pháp lệnh mới thực sự
phải pháp điển hoá 3 pháp lệnh ưu đãi xã hội hiện hành. Hệ thống pháp luật ưu đãi xã hội
thời kỳ mới phải đảm bảo tính nguyên tắc: Ưu đãi xã hội gắn liền tăng trưởng kinh tế, tiến
bộ công bằng xã hội. Có nghĩa là, khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển, thể hiện rõ tính
công bằng, đền ơn trả nghĩa là tình cảm, trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội.

- Bảy là, đổi mới cơ chế quản lí và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Cơ chế chính sách đối với lĩnh vực sự nghiệp công đã từng bước đổi mới theo hướng
trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính cho các đơn vị; xã hội hóa một số dịch vụ nhằm thu hút các nguồn lực từ các thành
phần kinh tế trong xã hội phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ sự nghiệp ngoài công lập.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Tài chính thì cơ chế quản lý và phương thức hoạt động
của các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập chưa được đổi mới đồng bộ khiến cho
chất lượng và hiệu quả cung ứng các dịch vụ chưa đáp ứng được tốt nhu cầu của xã hội.
Phương thức phân bổ, giao kinh phí từ NSNN đối với đơn vị sự nghiệp công lập chưa phù
hợp với yêu cầu cải cách tổ chức hoạt động của đơn vị và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc phân bổ kinh phí từ NSNN cho các đơn vị sự nghiệp
công lập cung cấp dịch vụ công vẫn mang tính bình quân, chưa gắn việc giao kinh phí với
khối lượng và chất lượng. Một số đơn vị sự nghiệp công lập quản lý tài chính chưa đảm

bảo theo các nguyên tắc hạch toán kinh tế đầy đủ, sử dụng kinh phí chưa hiệu quả; quy chế
chi tiêu nội bộ, phân phối thu nhập chưa gắn với hiệu quả và chất lượng công việc; khi mở
rộng hoạt động dịch vụ (liên doanh, liên kết trong hoạt động) còn chạy theo số lượng, lạm
dụng kỹ thuật để tăng thu.
d.Đánh giá thực hiện đường lối
Qua hơn 30 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển đã đạt được nhiều thành tựu.Tính năng
động xã hội khác hẳn thời bao cấp. Một xã hội đang dần dần hình thành với những con
người không chờ bao cấp, dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm. Không chấp nhận đói nghèo,
17


lạc hậu, biết làm giàu, biết cạnh tranh và hành động vì cộng đồng, vì Tổ quốc.Cách thức
quản lý xã hội dân chủ, cởi mở hơn, đề cao pháp luật hơn.
Cụ thể có những thay đổi có ý nghĩa bước ngoặt quan trọng sau đây:
- Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể, trông chờ sự viện trợ đã chuyển
sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cá các tầng lớp dân cư.
- Đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng: thi hành chế
độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân - cào bằng đã từng
bước chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,
đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất - kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy công bằng xã hội được thể hiện ngày càng rõ hơn.
- Không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác
với chính sách kinh tế, đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
- Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm
sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia
tạo việc làm.
- Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi
người làm giàu hợp pháp đi đôi với liên tục xoá đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân
cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển.
- Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn có giai

cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm cần thiết xây
dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó giai cấp, các tầng lớp dân cư đề có nghĩa vụ
quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh.
Bên cạnh giai cấp công nhân giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức đã xuất hiện ngày
càng đông đảo các doanh nhân, tiểu chủ, chủ trang trại và các nhóm xã hội khác phấn đấu
vì sự nghiệp “ dân giàu nước mạnh”. Thành tựu xóa đói giảm nghèo được nhân dân đồng
tình, được quốc tế thừa nhận.
- Đã coi phát triển giáo dục và đào tạo, cùng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

18


- Có cố gắng thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho
người nghèo.
Hạn chế:
- Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. Chất lượng dân số còn thấp đang là cản trở lớn
đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề việc làm rất
bức xúc và nan giải.
- Sự phân hoá giàu - nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại.
- Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã
hội.
- Môi trường sinh thái tiếp tục bị ô nhiễm; tài nguyên bị khai thác bừa bãi và tàn phá.
- Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa
được bảo đảm.
Nguyên nhân:
- Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo số lượng,
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triền bền vững xã hội.
- Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội.


∗ Một số thành tựu nổi bật của Việt Nam sau 30 năm đổi mới đất nước là:
Chúng ta có thể dễ dàng thấy sự thay đổi của đất nước trước và trong thời kì đổi mới
thông qua sự đổi thay về bộ mặt của các thành phố lớn như Thủ đô Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh:

19


Từ trên cao ngắm nhìn thành phố xưa và nay, mới thấy được sự đổi thay mạnh mẽ với
các công trình kiến trúc hiện đại mang tầm thế kỷ, những tòa nhà chọc trời liên tiếp mọc
lên, diện mạo thành phố chúng ta ngày càng hiện đại, một đô thị phồn hoa với nhiều nét
văn hóa đa dạng.

20


Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục xưa và nay
•Về kinh tế
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã
xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát
triển.
Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5 năm trước đó;
giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài
21


chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 20012005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt
Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.

Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam
tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Quy mô nền
kinh tế tăng nhanh.
Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ đạt 471
USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình
quân đầu người đạt gần 2.300 USD.

Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 2011-2015
tăng đến 18%/năm
•Về đối ngoại:
- Tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác; nâng cấp quan hệ song
phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện; đưa quan
hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn.
VD: Có thể kể đến quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mỹ- đã từng là kẻ thù
không đội trời chung với chúng ta, sau 10 năm bình thường hóa quan hệ kể từ dấu mốc
2005. Nhìn lại 10 năm quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, có thể thấy điều này đã đem lại lợi ích
to lớn cho cả hai dân tộc. Quan hệ kinh tế-thương mại là lĩnh vực phát triển nhanh đầy ấn
tượng: Nếu như kim ngạch thương mại hai chiều năm 2001 chỉ đạt gần 1,4 tỷ USD thì năm
2003 là 5,85 tỷ, năm 2004 là 6.4 tỷ USD; Hai bên cũng đã ký kết nhiều hiệp định, thỏa
thuận về kinh tế như Hiệp định Dệt may, Hàng không,… nâng cao năng lực cạnh tranh.
.Du lịch của Hoa Kỳ vào Việt Nam hàng năm tăng nhanh, Đến tháng 11/2004 đạt 247.221
lượt khách, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm 2003 và Hoa Kỳ đã trở thành nước thứ 2 (sau
Trung Quốc) về số lượng khách du lịch vào Việt Nam. Đường bay thẳng giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam vừa được nối lại sau 30 năm gián đoạn.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn có những đối tác lớn như Nga, Trung Quốc… Trung Quốc
vẫn luôn là thị trường tiêu thụ nông sản và gạo lớn của Việt Nam.
22



- Đã chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và
quốc tế, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc.
- Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy
phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên.
VD: chúng ta không thể không nhắc tới Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương TPP và
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Đây là hai hiệp định vô cùng quan
trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam chẳng vậy mà chúng ta đã phải
mất 5 năm để đàm phán TPP và 3 năm để thỏa thuận xong EVFTA.
-Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm,
Đảng và nhà nước rút ra một số bài học sau:
+ Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc.
+ Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan.
+ Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ.
+ Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

23



×