Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận về Lý luận hình thái kinh tế xã hội của triết học Mác Lênin và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.95 KB, 11 trang )

Danh mục từ viết tắt
HTKTXH: Hình thái kinh tế xã hội
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
CNTB: Chủ nghĩa Tư bản
LLSX: Lực lượng sản xuất
QHSX: Quan hệ sản xuất
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa


Mục lục
Phần Mở đầu

trang

Phần Nội dung

trang

Chương 1: Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác
……………………………………………………………………………


Phần Mở Đầu
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời trên cơ sở quan điểm
duy vật biện chứng về xã hội. Lần đầu tiên C.Mác đã chỉ ra những luận chứng
khoa học về sự phát triển tự nhiên của xã hội, tính lôgic khách quan của quá trình
tiến hóa xã hội; đồng thời chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát
triển xã hội, chỉ ra được bản chất của từng chế độ xã hội. Qua đó giúp chúng ta có
phương pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển của lịch sử xã hội. Bằng những


phân tích, đánh giá khoa học và cách mạng dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, chủ
nghĩa Mác cho thấy quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người dựa
trên cơ sở sản xuất vật chất; C.Mác chỉ ra lịch sử loài người tất yếu trải qua các
hình thái kinh tế xã hội sau: HTKTXH cộng sản nguyên thủy, HTKTXH chiếm
hữu nô lệ, HTKTXH phong kiến, HTKTXH tư bản chủ nghĩa, HTKTXH cộng sản
chủ nghĩa.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là căn
cứ khoa học cho cách mạng XHCN trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng.
Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát
triển của nền kinh tế tri thức và sự sụp đổ của thành trì XHCN ở Liên Xô và Đông
Âu làm cho các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh tấn công vào chủ nghĩa Mác.
Trước những khó khăn trên, nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển
đất nước là xây dựng CNXH, vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, tại
Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã xác định : “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN
tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó
khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”.
Để làm rõ luận điểm trên, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: Lý luận hình
thái kinh tế - xã hội của triết học Mác - Lênin và sự vận dụng vào thực tiễn ở
Việt Nam để làm tiểu luận kết thúc môn học.
Phần Nội Dung
Chương 1: Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác
1.1.

Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của LLSX và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những QHSX đó


1.2.

Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc gồm các
mặt cơ bản là LLSX, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh
tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

1.2.1.

Lực lượng sản xuất


LLSX là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Nó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình
tác động vào tự nhiên.
LLSX là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó người
lao động là yếu tố quan trọng nhất của LLSX. Bên cạnh người lao động thì tư liệu
sản xuất, công cụ lao động, đối tượng cũng là những thành tố của LLSX.
LLSX là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sự
phát triển của LLSX xét đến cùng là nguồn gốc xâu xa của sự phát triển các hình
thái kinh tế - xã hội. LLSX luôn đóng vai trò quyết định sự hình thành và phát
triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội.
1.2.2.

Quan hệ sản xuất
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là quan hệ
cơ bản chi phối và quyết định trong mọi quan hệ xã hội.
QHSX bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và
quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm. Ba mặt nói trên thống nhất hữu cơ tạo
thành QHSX, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng,

quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ về phân phối sản phẩm có sự tác động trở lại
đối với quan hệ sản hữu vè tư liệu sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều được
hình thành dựa trên những QHSX xác định, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất quy định bản chất của quan hệ xã hội.

1.2.3.

Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành
trên cơ sở hạ tầng nhất định. Trong đó, cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư và QHSX
mới (mầm mống quan hệ sản của xã hội sau).

1.3.
1.3.1.

Nội dung lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của LLSX
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không
tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX. Đây là quy luật cơ bản
nhất của sự vận động và phát triển xã hội loài người. Quy luật này vạch rõ tính
chất phù hợp khách quan của QHSX và sự phát triển của LLSX. Đồng thời chỉ rõ
sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX cũng là một tất yếu khách quan.
Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản.
Trình độ của LLSX trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của côn người trong giai đoạn lịch sử đó. Gắn liền với trình độ của LLSX là
tính chất của LLSX. Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi

QHSX cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Đó là một trạng thái mà trong đó
QHSX là “hình thức biểu hiện sự phát triển” của LLSX. Sự phát triển của LLSX
đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù


hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX trở thành “xiềng xích”, “rào cản”
của LLSX, kìm hãm lực lướng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát
triển LLSX tất yếu dẫn đến thay đổi QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.
LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX cũng là hình thức xã hội của quá
trình còn LLSX là nội dung của quá trình sản xuất. Theo phép biện chứng duy vật
thì hình thức có tính tương đối tác động trở lại nội dung, do đó QHSX có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại LLSX.
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ là động lực thúc đẩy
LLSX phát triển, ngược lại nếu QHSX lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
LLSX. Khi đó theo quy luật chung tất yếu QHSX cũ sẽ được thay thế bằng QHSX
mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX mới. Đồng nghĩa
với điều đó là phương thức sản xuất mới hay hình thái kinh tế - xã hội mới sẽ ra
đời thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa
LLSX với QHSX không phải đơn giản, nó phải thông qua nhận thức và hoạt động
cải tạo xã hội của con người, trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai
cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX là quy luật phổ biến, cơ bản
nhất tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát
triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy quy chế độ chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản trong tương
lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù

hợp với trình độ của LLSX là quy luật đóng vai trò quyết định.
1.3.2.

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã
hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm QHSX thống trị,
QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó,
QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các QHSX khác, nó quy
định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một
xã hội cụ thể được đặc trưng bởi QHSX thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên,
QHSX tàn dư và QHSX mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng
thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối
với kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết
thể hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng
tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ
tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu
thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính
trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối


kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà
nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, ... đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào
cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể
hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng
thay đổi theo. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng

tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Quá trình đó diễn ra không chỉ
trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã
hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của
LLSX, nhưng LLSX không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát
triển của LLSX làm thay đổi QHSX, tức là trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và
thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra
rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, … Trong kiến
trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, … hoặc
có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng
phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn,
máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có
tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách
mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở
hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác
động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh
nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị
về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật, ... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà
nước, pháp luật chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng
tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của
kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó.
Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và

củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược
lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét


đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách
này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc
thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
1.4.

Ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của
xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng
tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã
hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh
tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển
của LLSX. Chính sự phát triển của LLSX đã quyết định, làm thay đổi QHSX. Đến
lượt mình, QHSX thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do
đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội

mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không
phải theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội
vào những QHSX, và đem quy những QHSX vào trình độ của những LLSX thì
người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của
nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi
các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị,
về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế, ... Chính vì vậy, lịch sử phát triển
của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một
số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo
một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hộinhất định.


Chương 2: Vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam
Dựa vào các quy luật khác quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình thái
kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo sự vận động và phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội thì chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là
CNXH là sự phát triển tất yếu lịch sử của CNTB. Đối với đất nước ta một quốc gia
chưa trải qua thời kỳ phát triển TBCN thì để đi tới CNXH, Đảng ta đã chọn lựa
con đường phát triển rút ngắn - hay nói theo cách của Lênin phát triển không phải
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng và

Nhà nước ta về quá trình “phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, toàn diện cộng với
bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội nên việc vận dụng “bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút ngắn thật nhanh quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các quy luật khách quan
khi muốn tạo ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện chưa cho
phép. Văn kiện ĐH Đảng lần VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua
nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua
những bước đi cần thiết…”.
Việc sai lầm do “bỏ qua những bước đi cần thiết” được thể hiện trong các
chủ trương chính sách lớn của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới. Trước nhất đó là
việc bỏ qua bước trung gian quá độ kinh tế hàng hóa TBCN, phủ nhận các hình
thức, bước đi mang tính quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn - nội dung mà
trước đây CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Chính vì vậy, việc phát triển lực lượng
SX không được chú trọng , đã để kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu
tư công nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan không chú ý
chiều sâu. Trong việc đề ra chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước ta đã bỏ qua
không chú ý vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, những quy luật của SX
hàng hóa đang tồn tại khách quan vàp việc chế định các chủ trương, chính sách
kinh tế.
Cũng trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta do chủ quan, nóng vội muốn
cải tạo nhanh quan hệ SX nên đã áp đặt một mô hình QHSX “cao hơn” trình độ
LLSX. Nó thể hiện qua việc “nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế
phi XHCN” để chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế : quốc doanh và tập thể. Trong việc
tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô hình
sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà không tính đến khả năng
trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. Đồng thời việc xác lập
quan hệ SX cũng không đồng bộ “về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc
thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn
đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế

quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, chính sách kinh tế đối ngoại khép kín ... đã làm
kìm hãm, phá hoại sự phát triển của LLSX dẫn đến sản xuất đình trệ, kinh tế không
phát triển, lạm phát gia tăng. Mặt khác trong kiến trúc thượng tầng, đã buông lỏng


chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc, cồng kềnh
kém hiệu lực.. dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai lầm
mắc phải, nhận thức lại quan niệm bỏ qua chế độ TBCN một cách đúng đắn, đầy
đủ hơn. Quan điểm đó đã được Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX bổ sung
hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Quá độ lên CNXH,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN”, đồng thời nhấn mạnh: “Xây dựng CNXH
bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là
một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất
quá độ”.
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên
CNXH đã xác định đây là một quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất (đối
với QHSX, LLSX, kiến trúc thượng tầng), nó phải trải qua nhiều chặng đường,
bước đi thích hợp và nhiều hình thức trung gian về tổ chức kinh tế - xã hội. Mọi sự
phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt
bậc, thậm chí là nhảy vọt của LLSX và do vậy, về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ
có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của
LLSX. Nước ta còn nghèo, lực lượng SX kém phát triển nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế là rất lớn cho nên phải tập trung sức phát triển LLSX. Trong thời đại của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với tốc độ phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ
tổ chức và quản lý sản xuất của con người được tăng lên đáng kể. Điều đó cho

phép chúng ta có thể rút ngắn các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của
sự phát triển LLSX.
Đồng thời với việc tạo ra sự phát triển nhảy vọt của LLSX qua con đường
CNH-HĐH, Đảng cũng đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
trong giai đoạn quá độ là một tất yếu khách quan, đây là bước đi tuần tự trong việc
phát triển Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ sau Đại hội VI
đến nay đã khẳng định: các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành phần
kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với
nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai
trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển.
Đại hội Đảng lần VII đã nêu: để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng
ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Như
vậy, từ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu SX và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền
với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế.
Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều
sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của các thành
phần kinh tế. Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây


mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức
từ thấp đến cao…
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp. Đại hội 9 đã
xác định: “Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX trên cả 3 mặt: sở
hữu, quản lý và phân phối”.
Song song với sự đổi mới về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng
bắt đầu từ việc đổi mới về chính trị , văn kiện Đaị hội 8 đã chỉ rõ “kết hợp chặt chẽ

ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị" .
Kết luận
Lý luận về HTKTXH của C.Mác đã chỉ ra tính quy luật và sự tất yếu của
tiến trình phát triển các HTKTXH từ thấp đến cao. Nó là cơ sở lí luận, thế giới
quan để chúng ta nghiên cứu, vận dụng xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật của lý luận về HTKTXH
giúp chúng ta từng bước tạo dựng những tiền đề kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, tạo động lực để phát triển đất nước.Trong đó chú trọng tạo điều
kiện giải phóng sức lao động, đẩy nhanh sự phát triển của LLSX, ứng dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kết hợp với đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, mở rộng QHSX phù hợp với trình độ của LLSX, kết hợp cả kiến trúc thượng
tầng với cơ sở hạ tầng mới phù hợp với đặc điểm riêng có của những điều kiện đặc
thù của Việt nam..
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng sáng tạo lý luận về HTKTXH, Đảng ta đã
đưa ra chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Đây là một sự nghiệp rất
khó khăn phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ,
giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số
hình thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường
phát triển rút ngắn nhằm mục tiêu phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế
hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan; khoa
học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi
bật trong quá trình phát triển của LLSX... Đây chính là những điều kiện khách
quan vừa là thách thức nhưng cũng vừa là cơ hội đối với nước ta. Do đó trong mọi
hoàn cảnh cần phải nhận thức và hành động đúng quy luật về lý luận HTKTX, chỉ
có như vậy chúng ta mới tạo được những bước đi nhanh và vững chắc trong công
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.



Danh mục tài liệu tham khảo
1.

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, trang 187, 604 - 605.
2.

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, trang 14 - 15.
3.

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 28, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, trang 662.
4.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII.



×