Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Lý luận về sự cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.75 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Thực chất đó là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì lợi ích kinh tế và để tồn tại
buộc các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực, là một trong
những nguyên tắc cơ bản tồn tại khách quan và không thể thiếu được của nền
sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường. Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo sức ép hoặc kích thích
ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết
bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành và giá bán hàng hoá. Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ
hướng người kinh doanh chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn
sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực
quan trọng nhất để huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng
hoá dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong
cạnh tranh doanh nghiệp yếu kém bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện,
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn
lực xã hội được sử dụng hợp lý. Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và
dịch vụ cũng chính là tạo ra nhiều lựa chọn cho khách hàng, cho người tiêu
dùng.
Chính vì sự cần thiết đó của cạnh tranh mà em đã chọn đề tài: “Lý luận về
sự cạnh tranh và sự vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam”.
Bài tập của em gồm hai nội dung chính:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ CÁC LOẠI
CẠNH TRANH
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CẠNH TRANH VÀO VIỆT NAM
- NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN CẠNH
TRANH VÀO NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH


VÀ CÁC LOẠI CẠNH TRANH
1.1. Quan niệm về cạnh tranh và các loại cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường
1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh
a. Những hiểu biết chung về kinh tế thị trường:
* Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị
trường vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất.
Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi
tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong
những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế:
người sản xuất hàng hoá phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường, kẻ mua và
người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.
Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao
giờ tự sản sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các phương
thức sản xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ
thống các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ
sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng phương thức sản xuất trong lịch
sử. Sự gắn bó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hoá của
xã hội nô lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến. Đến
chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hoá giản đơn trở thành kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa, trở thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa tư bản,
những quan hệ kinh tế của kinh tế thị trường và của chủ nghĩa tư bản thâm nhập
2
vào nhau thành một thể thống nhất. Điều đó gây nên rất nhiều sự nhầm lẫn của
kinh tế học tầm thường. Chỉ có sự trừu tượng hoá khoa học của những người mác
-xít mới phân tích được bản chất và đặc điểm của kinh tế thị trường của từng
phương thức sản xuất trong lịch sử.
*Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ nghĩa xã hội
hiện thực đã ra đời thì lại không phát triển thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì
chủ nghĩa xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đ ây là một điểm đột phá lý luận,
một mô hình thực tiễn đang trong quá trình thử nghiệm, là sự phủ định con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Đương nhiên, đó không
phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy rằng nó có thể học hỏi nhiều
điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế khác với nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam chính là bàn về bản chất của những thành phần kinh tế của nền kinh tế
quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.Những thành phần kinh tế đó tạo
thành cơ sở kinh tế của định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam. ở đây, có một câu hỏi đặt ra: Phải chăng định hướng chính trị quy định
bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Vấn đề mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề không đơn giản chút nào. Chắc chắn rằng, trong
3
thời kỳ quá độ ở Việt Nam, chính trị phải đóng vai trò hàng đầu và chi phối toàn
bộ sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát triển kinh tế. Con đường chính trị xã
hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại
cả loài người vẫn tiếp tục vượt qua chủ nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội theo
cách này hay cách khác, cho dù trước mắt còn gặp vô vàn khó khăn. Tuy nhiên,
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở
nước ta không phải chỉ do định hướng chính trị chi phối, mà còn được chi phối
bởi cơ sơ kinh tế bên trong, được bảo đảm bởi một kết cấu kinh tế mà trong quá

trình vận động, tự nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, nó làm cho các nhân
tố xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh lên. Vậy cái gì là nhân tố xã hội chủ
nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta?Nền kinh tế nhiều thành phần
dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Khi lý giải mối quan hệ giữa các hình thức đó,
việc lý giải mối quan hệ giữa hình thức công hữu và hình thức tư hữu tư bản chủ
nghĩa, là phức tạp nhất về mặt lý luận và thực tiễn.
Cách giải thích rằng, chỉ co hình thức công hữu mới mang bản chất xã hội
chủ nghĩa, cho nên việc nhanh chóng mở rộng hình thức công hữu, thu hẹp hình
thức tư hữu là thực hiện yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường là không đúng với lý luận Mác-Lênin và đường lối chính trị, kinh tế của Đ
ảng ta trong thời kì quá độ. Đ ại hội IX của Đ ảng xác định: Chế độ công hữu sẽ
từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được
xây dựng xong về cơ bản. Nhưng tư nay đến đấy còn xa, hình thức sở hữu tư
nhân còn tồn tại lâu dài và còn đóng vai trò tích cực trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta. Để hình thức công hữu tiến lên chiếm ưu thế tuyệt đối, chắc chắn phải
làm cho nó tiến triển một cách kinh tế, như một quá trình lịch sử tư nhiên, chứ
không bằng biện pháp hành chính.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ
khác kiểu với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế giới mà còn khác về
4
trình độ phát triển; nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, giản đơn, trong khi
nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát triển cao, hiện đại. Chúng ta cần
nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền kinh tế thị trường
thế giới, bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì chúng ta càng sớm có
chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Cần lưu ý rằng, trong lĩnh vực kinh tế thị trường,
cũng có quy luật phát triển rút ngắn, đi tắt. đón đầu.
Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị
trường thế giới, xét từ góc độ kinh tế hàng hoá là từ kinh tế hàng hoá giản đơn
của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế hàng hoá tư bản
chủ nghĩa hiện đại, phát triển. ở đây chúng ta gặp vấn đề từ sản xuất nhỏ lên sản

xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh tế thị trường. Chúng ta sẽ
đi từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên nền kinh tế hàng hoá lớn mang bản chất xã hội
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng tối đa các thành tựu của nền kinh tế
hàng hoá lớn tư bản chủ nghĩa.
- Tại Việt Nam hiện nay việc phát triển kinh tế thị trường là sự cần thiết
khách quan do:
+ Phân công lao động xã hội hay còn gọi là phân công xã hội đã phát triển.
Đó là sự tách biệt của các loại hoạt động lao động khác nhau với bốn dạng phân
công lao động là: Phân công chung, phân công riêng, phân công theo lãnh thổ và
phân công trong nội bộ. Việc dẫn đến phân công lao động trong xã hội là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất nhưng ngược lại phân công lao động phát triển
cũng là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nền kinh tế nước ta hiện nay tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những
đặc điểm sau:
5
+ Trình độ kinh tế nước ta kém phát triển. Kết cấu hạ tầng vật chất và xã
hội thấp kém. Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc
hậu, kém sức cạnh tranh. Nền kinh tế nước ta vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, phân
công lao động chưa phát triển, tỷ trọng hàng hoá chưa cao đặc biệt trong nông
nghiệp. Trình độ quản lý còn yếu, chúng ta còn thiếu những cán bộ quản lý kinh
doanh có trình độ. Quan hệ kinh tế vẫn còn dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy làm sơ
cứng các mối quan hệ kinh doanh. Mức sống dân cư thấp dẫn đến sức mua kém
kéo theo kinh tế không phát triển.
+ Nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế chuyển hoá lẫn
nhau, có sự quản lý của nhà nước.
+ Cơ chế điều hành nền kinh tế là cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà
nước.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện

nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
b. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, động lực thúc đẩy
phát triển trong kinh tế thị trường
- Mục tiêu và chức năng của chính sách cạnh tranh:
+ Chính sách cạnh tranh theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các biện pháp của
nhà nước để cạnh tranh được tồn tại như một công cụ điều tiết của kinh tế thị
trường. Như vậy chính sách cạnh tranh hay rộng hơn là thể chế cạnh tranh bao
gồm những biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh và những biện pháp
chống hạn chế cạnh tranh. Nội dung của chính sách sẽ được phân loại theo cấu
trúc thị trường, hành vi ứng xử và kết quả đạt được trên thị trường. Kết quả cạnh
tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường chỉ mang tính tương đối, chính vì vậy trong thực tế, bên
6
cạnh những chiến lược để nâng cao vị trí tuyệt đối của mình, một số doanh nghiệp
còn tìm cách làm giảm vị trí tuyệt đối của các đối thủ hoặc kìm chế số lượng đối
thủ tham gia nhập cuộc. Như vậy phương thức cạnh tranh của các doanh nghiệp
bao gồm cả những biện pháp tích cực lẫn biện pháp tiêu cực đối với hoạt động
kinh tế. Mỗi nước đặt ra cho chính sách cạnh tranh những mục tiêu khác nhau.
Việc áp dụng nguyên mẫu mô hình chính sách cạnh tranh của nước này vào mô
hình của nước khác chắc chắn sẽ không thu được kết quả như mong đợi, thậm chí
còn làm nảy sinh những hậu quả tai hại cho nền kinh tế nhưng có thể tham khảo
để học tập. Chính sách cạnh tranh của Mỹ có ba mục tiêu: tăng phúc lợi cho
người tiêu dùng, bảo vệ tự do cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh tế. ở một số nước
khác, mục tiêu cạnh tranh lại nhấn mạnh tới đổi mới và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Luật cạnh tranh Canada nêu rõ mục tiêu là duy trì và khuyến khích
cạnh tranh, thúc đẩy hiệu quả kinh tế.
+ Chức năng của chính sách cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
Tạo nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh, duy trì và thúc đẩy quá trình
cạnh tranh tự do hay bảo vệ hoặc thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả. Để thực hiện

được các mục tiêu này, chính sách cạnh tranh đảm bảo tự do thương mại, tự do
lựa chọn và tự do tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp. ở một số nước ví dụ
như Đức, tự do hành động một cách độc lập được coi là biểu hiện dân chủ của hệ
thống pháp luât kinh tế. Một số nước khác, ví dụ như Pháp đặc biệt nhấn mạnh
chính sách cạnh tranh như một cách thức đảm bảo tự do kinh tế và tự do kinh tế
chính là tự do cạnh tranh.
Điều tiết quá trình cạnh tranh, hướng quá trình này phục vụ cho những mục
tiêu đã được định sẵn, ví dụ như đặt hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ các doanh
7
nghiệp vừa và nhỏ, duy trì hệ thống doanh nghiệp tự chủ, duy trì sự công bằng,
trung thực trong kinh doanh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…
Chính sách cạnh tranh còn có thể giúp bình ổn giá cả trong nước và ngược
lại, nếu tồn tại xu hướng độc quyền sẽ ít có khả năng thành công trong việc bình
ổn giá cả.
Hạn chế các tác động tiêu cực nảy sinh do sự diều hành quá mức của nhà
nước đối với thị trường như kéo dài thời gian ra quyết định của doanh nghiệp và
chi phí giao dịch cao.
- Vai trò của chính sách cạnh tranh trong cải cách quy chế:
+ Quy chế có thể mâu thuẫn với chính sách cạnh tranh. Các quy chế có thể
khyến khích thậm chí yêu cầu, hành vi và điều kiện vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Ví dụ như quy chế cấm bán với giá thấp hơn chi phí, mặc dù đây là biện pháp
thúc đẩy cạnh tranh nhưng thường được coi là hành vi chống cạnh tranh.
+ Quy chế có thể thay thế chính sách cạnh tranh. Khi độc quyền là hình
thức không thể tránh khỏi, quy chế cố gắng kiểm soát trực tiếp quyền lực thị
trường thông qua ấn định giá hoặc kiểm soát việc nhập cuộc hoặc tiếp cận. Những
thay đổi về kỹ thuật và các thể chế có thể dẫn tới việc xem xét lại các giả định cơ
bản ủng hộ cần có quy chế là chính sách cạnh tranh và các thể chế có thể là không
đủ để thực hiện nhiệm vụ ngăn cản độc quyền và lạm dụng vị thế thị trường.
+ Quy chế có thể củng cố chính sách cạnh tranh. Các quy định và các nhà
lập pháp có thể cố gắng ngan cản hành vi câu kết hoặc lạm dụng trong một ngành

nào đó. Ví dụ , quy chế có thể xác định chuẩn mực cho cạnh tranh lành mạnh
hoặc đưa ra các quy định đảm bảo đấu thầu cạnh tranh.
+ Quy chế có thể sử dụng phương pháp của chính sách cạnh tranh. Các
công cụ để đạt được các mục tiêu thể chế có thể được thiết kế để khai thác lợi thế
8
của các khuyến khích thị trường và tính năng động của cạnh tranh. Hành vi câu
kết đó có thể là cần thiết để đảm bảo rằng các công cụ này thực hiện như mong
muốn của chính sách cạnh tranh.
c. Những hiểu biết chung về cạnh tranh:
- Khái niệm cạnh tranh: tất cả các nhà sản xuất kinh doanh trên thị trường
đều cần phải biết và hiểu rõ thuật ngữ “cạnh tranh”. Nhờ cạnh tranh mà các nhà
sản xuất kinh doanh quan tâm nhiều hơn đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Có rất nhiều quan điểm kác nhau về cạnh tranh. Theo Mac: “Cạnh tranh là
sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Trong
từ điển kinh doanh đưa ra khái niệm cạnh tranh: “Cạnh tranh trong cơ chế thị
trường là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành thị
trường tiêu thụ hàng hóa về phía mình”. Mỗi khái niệm cạnh tranh được diễn đạt
khác nhau nhưng nhìn chung đều có cùng một quan điểm đó là: sự ganh đua gay
gắt, sự kình địch mãnh liệt giữa các nhà sản xuất và kinh doanh. Có thể nói cạnh
tranh quyết định sự sống còn của các nhà sản xuất và kinh doanh.
- Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay
các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi
nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Thuật ngữ cạnh
tranh được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực kinh tế, thương
mại, luật, chính trị, sinh thái, thể thao. Cạnh tranh có thể là giữa hai hay nhiều lực
lượng, hệ thống, cá nhân, nhóm, loài, tùy theo nội dung mà thuật ngữ này được sử
dụng. Cạnh tranh có thể dẫn đến các kết quả khác nhau. Một vài kết quả, ví dụ
như trong cạnh tranh về tài nguyên, nguồn sống hay lãnh thổ, có thể thúc đẩy sự
phát triển về mặt sinh học, hoá, vì chúng có cơ hội, được cung cấp lợi thế cho sự

sống sót, tồn tại.
9
- Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu, nhưng thị
trường cạnh tranh hoàn hảo chỉ là một trường hợp đặc biệt. Như kẻ cạnh
tranh hoàn hảo được định nghĩa là một doanh nghiệp không kiểm soát được
giá cả theo đó nó có thể bán nhiều hoặc ít sản phẩm tuỳ thích. Và đó là
những thị trường có những đặc tính, hiệu quả về phân bố, đem lại sự thoả
mãn cao nhất các nguồn tài nguyên hạn chế của xã hội. Tuy nhiên trong nền
kinh tế thị trường thực tế không diễn ra như vậy. Nó chứa đựng sự hỗn hợp
của những hiện tượng không hoàn hảo của độc quỳên, cùng những nhân tố
cạnh tranh. Vì vậy trong thực tại, hầu hết các trường hợp được xếp vào loại
hình cạnh tranh không hoàn hảo. Nó vừa không phải là cạnh tranh hoàn hảo,
vừa không phải là độc quyền hoàn toàn. Cạnh tranh không hoàn hảo ngự trị
trong một ngành hoặc một nhóm ngành kinh tế ở bất kì nơi nào mà những
người bán hàng phần nào kiểm soát được giá cả. Điều này có nghĩa là doanh
nghiệp có sức mạnh độc quyền tuyệt đối với giá cả mà họ có thể định ra.
Trong nhưng thị trường cạnh tranh không hoàn hảo khác nhau thì mức độ về
sự không hoàn hảo của độc quyền có sự khác nhau. Về cơ bản, cạnh tranh
không hòan hảo phát sinh khi sản lượng của một ngành công nghiệp do một
số ít doanh nghiệp cung cấp. Hai nguồn gốc của sự không hoàn hảo trên thị
trường là những điều kiện về chi phí và những cản trở đối với cạnh tranh khi
có những nền kinh tế đáng kể về sản xuất quy mô lớn thì điều đơn giản là
các doanh nghiệp lớn có thể sản xuất rẻ hơn các doanh nghiệp nhỏ và như
vậy các doanh nghiệp nhỏ sẽ không thể tồn tại được. Một trở ngại lớn đối
với cạnh tranh phát sinh khi những yếu tố pháp lý hoặc tâm lý làm giảm số
người cạnh tranh hoặc giảm tính gay gắt của sự kình địch xuống dưới những
mức sẽ tự nhiên xảy ra nếu không có những yếu tố đó. Các trở ngại quan
trọng nhất là những hạn chế về pháp lý và sự khác nhau về sản phẩm.
10
+Những hạn chế về pháp lý: Trong nhiều tình huống, các chính phủ cam

kết hạn chế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp. Việc độc quyền bán
hàng nhiều khi được giành cho các ngành phục vụ công cộng ở địa phương
như: nước, điện, khí đốt tự nhiên, điện thoại. Các chính phủ cho rằng ngành
bán độc quyền này là có ích.
+Phân biệt sản phẩm: Ngoài các biện pháp áp đặt bằng luật pháp đối
với cạnh tranh còn có những hàng rào kinh tế nữa. Phổ biến nhất là phân biệt
sản phẩm khác nhau hầu như mỗi mặt hàng đều là vật thay thế không hoàn
hảo của đối phương của nó. Các loại thuốc lá, nước giải khát, mỹ phẩm có
đặc tính khác nhau.
1.1.2. Các loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Có nhiều loại cạnh tranh, dựa vào những tiêu thức khác nhau có thể đưa ra
các loại cạnh tranh khác nhau.
- Dựa vào trạng thái thị trường có ba loại cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong
đó, các hãng đều quá nhỏ bé nên không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Điều
đó có nghĩa là, không cần biết sản xuất được bao nhiêu hãng đều có thể bán tất cả
sản phẩm của mình tại mức giá thị trường hiện hành. Vì vậy, một hãng trong thị
trường cạnh tranh hoàn hảo không có lý do gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường.
Hơn nữa, nó sẽ không tăng giá của mình lên cao hơn mức giá thị trường, vì nếu
thế thì hãng sẽ chẳng bán được gì _người tiêu dùng sẽ đi mua hàng với giá rẻ hơn
từ các đối thủ cạnh tranh của hãng.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Là trạng thái cạnh tranh phần lớn các sản
phẩm không đồng nhất với nhau. Trong cạnh tranh không hòan hảo môi trường
cạnh tranh rất khốc liệt và hình thức cạnh tranh cũng đa dạng.Cạnh tranh không
11
hoàn hảo tồn tại trong một số ngành mà ở đó những người bán hàng có một số
biện pháp để kiểm soát giá cả đầu ra của họ
+ Cạnh tranh độc quyền: Là trạng thái cạnh tranh mà ở đó chỉ có một hay
một số người bán sản phẩm đồng nhất hoặc một hay một số ít người mua sản
phẩm một loại sản phẩm.

- Dựa vào hình thức cạnh tranh có hai loại:
+ Cạnh tranh bằng giá cả: Là hình thức cạnh tranh mà các nhà sản xuất đưa
ra mức giá thấp hơn đối thủ nhằm tiêu thụ được hàng hoá, chiếm lĩnh thị trường.
+ Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm: Là hình hức cạnh tranh mà các
nhà sản xuất kinh doanh luôn luôn cố gắng nâng cao chất lượng hàng hoá của
mình hơn các đối thủ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao hơn đối thủ.
1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói
riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích,
đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra
sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri
thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn...để đáp ứng với thị hiếu của
người tiêu dùng. Cạnh tranh, làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy
bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, thường xuyên cải tiến
kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào
trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý
sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
12
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không
mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện
sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực
khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay
bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được
điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất
đồng thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều
lợi ích hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội.
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song
xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực.

Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng sau:
- Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu.
- Cạnh tranh hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có
hiệu quả nhất.
- Cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến
động của cầu và công nghệ sản xuất.
- Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến phân phối thu nhập: Cạnh
tranh sẽ hạn chế hành vi bóc lột trên cơ sở quyền lợc thị trường và việc hình
thành thu nhập không tương ứng với năng suất.
- Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới.
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi cung một
hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị
trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanh nào đủ khả năng cải tiến công
13
nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có
thể tồn tại. Với ý nghĩa đó cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng
dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi cung một hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá đó trở nên khan
hiếm trên thị trường, Giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi
đó người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng
cao năng lực của nững cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm
tăng thê lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực sản xuất
trong tòan xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn toàn tự nhiên, không theo
và không cần bất cứ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà
nước.
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến việc cải
tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá.
Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm
ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản. Đối với xã hội, phá sản doanh

nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được
chuyển sang cho nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
Vì vậy, phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà là sự huỷ diệt sáng tạo.
Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội
hơn là phá sản.
14
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CẠNH TRANH
VÀO VIỆT NAM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM VẬN
DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN CẠNH TRANH VÀO NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. Thực trạng của sự vận dụng lý luận cạnh tranh vào nước ta
2.1.1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của nước ta
Việc đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia có thể được tiếp cận
trên ba cấp độ (nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp). Dưới dây sẽ đề cập đến trên
cấp độ nền kinh tế.
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam được đánh giá ở mức độ rất
thấp.
Hệ thống tài chính chưa năng động. Các nguồn thu vào ngân sách còn chứa
đựng những yếu tố bất ổn định, nhất là các khoản thu từ thuế xuất nhập giảm
xuống làm cho mức thâm hụt càng lớn so với nhu cầu có thể giải quyết đồng bộ
các vấn đề kinh tế xã hội, hệ thống ngân hàng thương mại với 4 trụ cột lớn vẫn
chủ yếu thực hiện chức năng là tổ chức tín dụng chứ chưa phải là nhà đầu tư. Hơn
60%tín dụng cấp cho các doanh nghiệp là ngắn hạn, tỷ trọng đầu tư vào các
doanh nghiệp của hệ thống ngân hàng hầu như là không đáng kể. Hệ thống tài
chính theo kiểu trực tuyến với các cấp của hệ thống ngân sách. Chúng ta còn
thiếu hẳn hệ thống các tổ chức tài chính trung gian năng động cho nền tài chính
quốc gia như: các công ty thuê mua, công ty nhận nợ, công ty chứng khoán...
Lượng tiền trong lưu thông còn qua lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của hệ thống tài
chính công.
15

Hệ thống chứng từ kế toán chưa phản ánh các quan hệ thanh toán trong nền
kinh tế. Các khoản chi tiêu có chứng từ làm cho luật thuế VAT phải có những
điều chỉnh không đáng có, làm cho tính pháp lý của thuế chưa cao. Việc điều
chỉnh thuế suất thuế VAT sẽ gây phức tạp cho việc tổ chức thực hiện. Hệ thống
kế toán chưa theo kịp các thông lệ quốc tế cũng là một cản trở lớn cho sự hội
nhập, trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Kết cấu hạ tâng kỹ thuật - thông tin còn thấp kém lại không đồng đều giữa
các vùng là nguyên nhân trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
bởi từ đó chi phi đầu vào cho các doanh nghiệp tăng cao. Từ trạng thái phát triển
không đều giữa các vùng, nhanh chóng thay đổi cơ cấu dân cư khiến một số đô
thị nhanh chóng quá tải đang là gánh nặng cho ngân sách vì các vấn đề xã hội và
sinh thái.
Trình độ, chất lượng nguồn nhân lực dồi dào nhưng không mạnh. Đội ngũ
nhân lực trình độ cao để sẵn sàng đối phó với phân công lao động quốc tế chưa
nhiều. Đây là vấn đề thách thức lớn cho hệ thống đào tạo, nhất là đào tạo nghề
nghiệp, năng lực thực hành.
Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cả ở tầm vĩ mô và các doanh nghiệp đều
bộc lộ những yếu kém, đặc biệt là kiến thức về thị trường và tài chính. Theo báo
cáo mới đây của chính phủ gần 70% giám đốc doanh nghiệp không đọc nổi các
báo cáo tài chính. Kết quả đợt tổng điều tra mới đây về trình độ cán bộ quản lý
các doanh nghiệp cho thấy trong số 127 cán bộ quản lý được hỏi chỉ có 7 người
được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn lại trong nước sau năm 1990, 9 người được
bồi dưỡng ở nước ngoài với thời gian từ một đến ba tháng.
Thiết chế kinh tế còn mang nặng tính tập trung, một số ngành vẫn duy trì
độc quyền ở các cấp độ, các hình thức. Khu vực kinh tế dân doanh chưa được
khuyến khích thoả đáng, trong nhiều lĩnh vực nhiều khu vực vẫn chưa tìm thấy sự
16

×