Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận tìm hiểu về đặc điểm, tính chất, lĩnh vực sử dụng và mỏ diatomit điển hình ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.15 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay việc khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản phục vụ cho các hoạt động sống
của con người vẫn đang là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên việc khai thác và sử dụng sao cho
thật thông minh và hợp lý để tiết kiệm được nguồn tài nguyên cho tương lai. Để khai thác và sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên cần hiểu và biết được nguồn gốc, sự phân bố trong không gian,
đặc diểm thành phần hóa, hàm lượng khoáng sản có ích.
Trong các nguồn tài nguyên khoáng sản, diatomit là một trong nhưng nguồn tài nguyên
đem lại hiệu quả về mặt kinh tế cao với nhiều lĩnh vực sử dụng như làm vật liệu lọc, vật liệu
cách nhiệt cách âm, xử lý nước thải, cải tạo đất nông nghiệp. Với nhiều ứng dụng của diatomit,
do vậy ngày nay nhu cầu về các sản phẩm từ diatomit là rất cần thiết. Nên việc nghiên cứu để
sản xuất ra những sản phẩm từ diatomit là bước đầu để triển khai vào sản xuất quy mô công
nghiệp và bán công nghiệp. Từ tính quan trọng và cấp thiết của vấn đề, nhóm chúng em đã đi
đến việc chọn đề tài tiểu luận “ Tìm hiểu về đặc điểm, tính chất, lĩnh vực sử dụng và mỏ diatomit
điển hình ở Việt Nam ”. Để làm rõ hơn về vấn đề này, bài tiểu luận của nhóm chúng em sẽ hệ
thống lại một số khái niệm; tập trung đi sâu phân tích đặc điểm thành phần, cấu trúc diatomit và
lĩnh vực sử dụng cũng như làm sáng tỏ đặc điểm mỏ diatomit Hòa Lộc Phú Yên.
Ngoài phần mở đầu và kết thúc nội dung của bài tiểu luận được kết cấu thành ba phần như
sau: Phần I: Khái quát chung về đặc điểm thành phần, cấu trúc, nguồn gốc của diatomit. Phần II:
Lĩnh vực sử dụng và phương pháp xử lý. Phần III: Khái quát diatomit ở Việt Nam và mỏ khoáng
diatomit Hòa Lộc- Phú Yên. Trong phạm vi kiến thức còn hạn chế, bài tiểu luận có thể còn thiếu
sót, do vậy nhóm chúng em rất mong nhận được những nhận xét và góp ý của cô để bài được
hoàn thiện hơn.


NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
Th.S: TẠ THỊ TOÁN

1.
2.


3.
4.
5.
6.

NGUYỄN VĂN THANH
VŨ THỊ LÀNH
ĐỖ THỊ THÙY LINH
BÙI ĐỨC VŨ
TRƯƠNG THỊ TUYẾT THU
NGUYỄN VĂN CƯỜNG

PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN, CẤU TRÚC,
NGUỒN GỐC CỦA DIATOMIT
I. Khái niệm
Diatomit là một khoáng sản trầm tích với thành phần chính là SiO 2.nH2O dưới dạng opan
(oxit silic vô định hình), được cấu thành chủ yếu từ khung xương hoặc mảnh vụn vỏ tảo
Diatome.
II. Thành phần, cấu trúc diatomit


1. Thành phần
Trong diatomit, thường xuất hiện 3 thành phần chủ yếu của chúng là silic vô định hình (opan),
vật liệu sét và vật liệu vụn.
Vật liệu sét hầu như có mặt trong tất cả các dạng đá diatomit với hàm lượng dao động phụ thuộc
vào chất lượng của diatomit tại mỗi khu vực.
Thành phần chính: oxit silic vô định hình.
Thành phần hóa : SiO2, Al2O3, Fe2O3, CaO, MgO.
Thành phần khoáng vật: silic vô định hình (opan) và khoáng vật sét: chủ yếu là kaolinit,
montmorilonit, ít hydromica.

Ngoài những thành phần chủ yếu trên, trong diatomit còn có lượng nhỏ các khoáng lẫn khác như
thạch anh, vật liệu tuf ( tro, bọt, thủy tinh núi lửa), cacbonat, mảnh đá bazan.
2. Cấu trúc
Diatomit có cấu trúc mạng lưới tinh thể liên tục liên tục vô định hình, trong ô mạng tinh
thể có các lỗ xốp vô cùng nhỏ bé cỡ.


Hình 1: Mảnh vỏ diatome dưới kính hiển vi điện tử quét
III. Đặc điểm của diatomit
Do được tạo nên từ mảnh vụn và khung xương của tảo diatome nên diatomit rất nhẹ và
xốp.Trọng lượng thể tích của đá nguyên cục thường không quá 1 và ở loại đá chất lượng tốt chỉ
dao động từ 600-700kg/m3, thậm chí 250-300 kg/m3.
Màu sắc: trắng, xám vàng, xám trắng đôi khi đen, nâu đen. Màu nâu và đen của diatomit
liên quan đến sự có mặt của các vật chất hữu cơ phân tán và tàn tích hữu cơ. Màu vàng và xám
vàng lo do có mặt các oxit sắt tự do, ở một số nơi chúng tạo thành dải song song.
Độ bền cơ học của đá diatomit phụ thuộc vào tuổi địa chất thành tạo, mức độ biến chất và hàm
lượng vật chất sét chứa trong đá. Diatomit Paleogen có độ bền cơ học lớn nhất.


Do có cấu trúc tơi xốp, với thành phần chủ yếu là SiO 2 nên diatomit có những đặc tính quý giá
như độ dẫn điện, dẫn nhiệt thấp, trơ về mặt hóa học, có diện tích bề mặt lớn, có cấu trúc lỗ rỗng
cực nhỏ. Những đặc tính này đều liên quan đến thành phần oxit silic vô định hình có độ hoạt tính
cao và kiến trúc vi lỗ rỗng của vỏ tảo silic cấu thành nên đá.
Diatomit trên thị trường thường đạt chất lượng từ:
SiO2 : 80-90% đôi khi lên tới 95%.
Al2O3: 2-4%, Fe2O3: 0,5-2%, MKN: 4-6%.
Trọng lượng thể tích từ 0,25-0,32-0.64g/cm3. Độ rỗng 80-90%.
IV. Nguồn gốc thành tạo diatomit
Các thành tạo diatomit được phát hiện trên thế giới có tuổi từ Creta muộn nhưng các mỏ
diatomit có giá trị thương phẩm cao chủ yếu có tuổi Miocen, Pliocen.

Diatomit thường gặp trong các thành tạo trầm tích gắn liền với hoạt động núi lửa, với các
dòng tro trong các bể trầm tích thông thoáng. Diatomit nước ngọt thường thành tạo trong các hồ
núi lửa. Phần lớn các thành tạo Diatomit trên thế giới có nguồn gốc vũng vịnh, ít gặp hơn là các
mỏ Diatomit nguồn gốc biển.
Trong quá trình biến đổi thứ sinh của đá Diatomit thường bị nén ép, giảm độ xốp đôi khi
bị tái kết tinh, các mảnh vỏ tảo có thể bị hòa tan, phá hủy mức độ khác nhau ảnh hưởng tới chất
lượng của khoáng sản.


Trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp các vỏ Diatomit Liên Xô cũ và thế giới, Distanov I.G (1976)
đề nghị một bảng phân loại thạch học nguồn gốc chung cho các silic trong đó Diatomit được
phân làm 4 nhóm thạch học nguồn gốc chính sau:
-

Diatomit nguồn gốc biển vùng nền.
Diatomit nguồn gốc biển vùng địa máng.
Diatomit nguồn gốc hồ thuộc cảnh quan hậu băng hà.
Diatomit nguồn gốc hồ thuộc cảnh quan núi lửa.

Mỗi kiểu nguồn gốc có những kiểu đặc trưng riêng và phân bố ở những vùng lãnh thổ khác nhau
trên thế giới:
1. Nguồn gốc vùng biển nền:
Các mỏ dạng này phổ biến ở các nước SNG (Liên Xô cũ) cụ thể là vùng Vonga, cận
Uran, Tây Kazacstan với nhiều mỏ nổi tiếng như Inen, Sengilev, Atemav, Irbit, Camilov.
Diatomit tạo thành các lớp rất ổn định theo đường phương có độ dày lớn 80-100 m hoặc các thấu
kính lớn xen giữa các thành tạo cát kết. Mỏ nguồn gốc biển có trữ lượng lớn và chất lượng khá
tốt. Ngoài ra còn gặp một số mỏ Diatomit phổ biến trong thành tạo Paleohen thuộc các nước
Đông Âu.
2. Nguồn gốc biển cùng địa máng:
Điểm đặc trưng của loại hình này là kích thước thân mỏ nhỏ, bị lẫn nhiều vật liệu sét và

phun trào, có kẹp các lớp tuf và tufit…
Mỏ dạng này rất phổ biên trên thế giới. Ở các nước SNG, gặp ở vùng đông núi Karpat,
phía tây Predkavkaz, bờ phía đông krum, Sakhalin, Kamchatka, quần đảo Kurin và Komandov
với các mỏ có giá trị công nghiệp. Có thể xếp vào dạng này mỏ Diatomit lớn nhất thế giới ở bang


Clifornia ( mỹ) tuổi Miocen – mỏ Lompok. Tập Diatomit ở đây kéo dài dọc theo bờ tây nước Mỹ
với độ dày đạt tới 300-400m. Các mỏ Diatomit ở nước Mỹ còn gặp cả trong các trầm tích
Miocen bang Orezona, trầm tích Pliocen bang Caligornia ( Durham và nnk, 1965; Faber, 1971).
Các mỏ Diatomit có tuổi Miocen lớn nhất được phát hiện ở Angieri; trong các trầm tích
biển ven bờ tuổi Miocen – Pleistocen ở Monte – Amiata thuộc Ý; trong các thành tạo Eocen của
Đan Mạch và miền bắc nước Đức, trong các thành tạo flish tuổi Oligocen thượng – Miocen hạ
vùng Kacpat ( Kotlarczyk, 1955, 1958; Oncyesku, 1960), trong các thanh tạo Miocen thượng ở
Newzeland ( Doig, 1961); trong các thành tạo Miocen – pleitocen Nhật Bản ( Ichikawa Waturu
và nnk, 1964; Murai Sandamasa, 1958).

3. Nguồn gốc hồ băng hà:
Nhiều tác giả cho rằng chúng đặc trưng chủ yếu cho các cảnh quan băng hà. Một nhóm
lớn các mỏ công nghiệp được phát hiện ở vùng Kareli và vùng đảo Konsk ( Liên Xô cũ). Những
yếu tố thuận lợi thúc đẩy việc giải phóng tích cực silic và lắng đọng chúng trong các hồ bao
gồm:


Địa hình tương đối bằng phẳng bị chia cắt nhỏ, có nhiều các vùng trũng và chảo trũng



chứa nước.
Phát hiện rộng rãi các đá xâm nhập axit, đá phiến biến chất, đá gneiss và các thành
tạo Moren ( băng thành), v.v…





Phát triển rộng rãi lớp phủ đầm lầy, rêu có tác dụng như các màng chắn các vật liệu
lục nguyên..

Bùn Diatomit trong các hồ lớn thường lấp đầy các vũng lồi lõm và tích tụ trong các vũng
vịnh và cửa song nhỏ. Trong các hồ nhỏ chúng tạo thành lớp dày đặc phủ kín đáy hồ, ở vùng ven
bờ các lớp Diatomit thường vẫn được duy trì ngay cả dưới lớp than bùn. Độ dày các lớp Diatomit
không vượt quá 3-5m song chất lượng của nó rất cao ( Mỏ thuộc quần đảo Macsen, Lavozero,
Sobachie, Suchie…)
Sự thành tạo bùn Diatomeae gắn liền với các chu ky hậu băng hà và quá trình tích tụ của
nó kéo dài tới tận ngày nay. Điều kiện tích tụ bùn Diatomeae tượng tự cũng quan sát thấy ở các
hồ thuộc vùng tây Sibiri, đảo Taimir, Chukhootka. Mỏ Diatomit chất lượng thấp gặp ở một số
vùng nước Nga. Thành tạo Diatomit và bùn Diatomese còn gặp trong các thành tạo hồ tuổi
Oligocen- Miocen trong các vùng trũng nằm ở đới khâu giữa bồn trũng Dnheprovo- Donhes và
vùng Donbas, trong các thành tạo hồ Neogen vùng Zabaican ( endrikhovski, Cheremisinova,
1970), và trong các thành tạo hồ vũng tây Siberi ( Rubina N.V, 1968).
Trên thế giới, Diatomit hồ lien quan tới cảnh quan băng hà được phát hiện ở Scandinavia,
bắc Scotlen, Ailen, Aixolen, đồng bằng miền Bắc nước Đức, Canada, bờ biển Đại Tây Dương
của Mỹ.
4. Nguồn gốc hồ cảnh quan núi lửa:
Các vỉa Diatomit thường có dạng thấu kính với độ dày khác nhau phân bố giữa các thành
tạo phun trào ( lava bazan, tuf, tufit…). Theo đường phương quan sát thấy Diatomit được thay
thế bởi tuf – Diatomit rồi loại sau lại được thay thế bởi tuf tro núi lửa.


Về trữ lượng Diatomit dạng này thua xa nguồn gốc biển song nhiều loại mỏ có chất
lượng cao và được xếp vào những mỏ có chất lượng tốt nhất ở nhiều nơi ( SNG, Mỹ, Đông

Âu…). Loại hình nguồn gốc này phổ biến ở vùng Viễn Đông, Zakavkaz, Zakarpat thuộc SNG.
Những mỏ lớn được phát hiện ở vùng Primore ( mỏ Pionhez), Priamua ( mỏ tuẻnoiar), Gruzia
( kasatip), Amenia (Dzradzop, Parbisk).
Những mỏ lớn được tím thấy ở Mỹ, bang Nevada ( mỏ Klark), phía bắc bang Orezena
( mỏ Tereboni) nơi mà các tập dày đá Diatomit có trong các thành tạo tuổi Đệ Tam – Pleistocen
bi phủ bởi lava bazan ở nhiều nơi. Các mỏ lớn có gặp ở Pháp giữa các thành tạo trầm tích phun
trào Miocen thượng khối Kuapok, trên bán đảo Sililia thuộc Ý, ở Colombia, Đông Áo; trong các
thành tạo Miocen muộn – Pleitocen Nhật Bản ( mỏ Hoto, Hudzo, Iashiki, Kawatami), trong các
thành tạo phun trào mới tuổi Đệ tam vùng trũng Slovakia ( mỏ kuchmen, Borovana, Gaiek…) và
ở Rumania…( Reed, 1958; Bramlette, 1946; Okylo, 1964; Ehvlich, 1966; Gabriel Miroslav,
1971; Polak Stanislav, 1971;…)
V. Đặc điểm phân bố trữ lượng
Trữ lượng diatomite trên thế giới được US Bureau of Mines dự báo từ năm 1985 vào
khoảng hơn 2 tỉ tấn. Diatomite có nhiều nhất ở Mỹ: 250 triệu tấn, kế đến là Trung Quốc: 110
triệu tấn. Mỹ và Trung Quốc cũng là 2 nước dẫn đầu về sản lượng diatomite, kế đến là Đan
Mạch. Ở Việt Nam trữ lượng diatomite được dự báo khoảng 165 triệu tấn, nhiều nhất tại Phú
Yên: khoảng 60 triệu tấn, Bảo Lộc: 8,5 triệu tấn. Việt Nam là một trong những nước có trữ lượng
diatomit cao. Sản lượng diatomit hàng năm của Việt Nam là 10 ngàn tấn.


Hình
Hình 2: Thống kê trữ lượng diatomit ở một số nước trên thế giới ( nguồn internet)
PHẦN II: LĨNH VỰC SỬ DỤNG VÀ PHƯƠNG PHÁP SỬ LÝ
1. Lĩnh vực sử dụng
Có lẽ không có một loại khoáng sản nào có nhiều ứng dụng như diatomit. Phát hiện diatomit đầu
tiên bởi J.W. Bailey vào năm 1839 ở Bắc Mỹ. Năm 1867 Alfred Nobel sáng chế ra thuốc nổ và
diatomit được ứng dụng đầu tiên trong công nghiệp như là một chất hấp thụ và ổn định cho
dynamite và nitroglycerine trong vận chuyển, sản xuất thuốc nổ.
Năm 1900 một sáng chế Mỹ đầu tiên công bố sử dụng diatomite trong lọc bia, đây là ứng dụng
tiên tiến trong thời kỳ này. Đến nay, diatomite đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực

như:


- Dùng để lọc: làm chất trợ lọc trong sản xuất bia, rượu, nước mía ép, nước quả ép hoặc làm
trong dầu ăn; làm sạch môi trường nuôi thủy sản…
- Làm chất độn: diatomite khá trơ, chịu được lửa, có khả năng hấp thụ lớn nên rất thích hợp để
làm chất độn trong sản xuất sơn, gia công chất dẻo, cao su, giấy, sản xuất thuốc đánh răng và đúc
răng giả.
- Làm vật liệu mài bóng bạc, đánh bóng vỏ xe.
- Làm chất hấp thụ: diatomite có thể hấp thụ một lượng chất lỏng lớn gấp ba lần khối lượng của
nó, được dùng làm chất mang cho các loại thuốc trừ sinh vật hại, các chất xúc tác, làm chất
chống đóng vón hay chất hấp thụ mùi hôi thối của phân súc vật nuôi trong nhà.
- Diatomit là một chất cách nhiệt hiệu quả bởi vì có thể làm việc ở nhiệt độ cao (đến 10000 oC)
và có tính dẫn nhiệt thấp, khối lươṇ g riêng nhỏ, độ xốp cao. Bên cạnh việc sản xuất các loại gạch
nhẹ cách nhiệt chịu nhiệt, diatomit còn được nghiên cứu sử dụng sản xuất các sản phẩm vật liệu
nhẹ cách âm, cách nhiệt dùng trong xây dựng như gạch block nhẹ, panel nhẹ, các loại vật liệu
chống nóng...
- Ngoài ra, những chế phẩm sau khi đã loại bỏ tạp chất chủ yếu là sét lẫn trong đó chúng ta đem
nung với nhiệt độ cao cho ra những sản phẩm có độ xốp, nhẹ, khả năng hút và giữ nước rất cao
được ứng dụng trong chất cải tạo đất, với tác dụng ngậm nước và nhả chậm, người ta đưa
Diatomite trộn vào phân bón để tăng khả năng ngậm PNK, khi tưới tiêu Diatomite ngậm chặt
nước và phân bón lại, rồi nhả ra từ từ, giúp cho các dưỡng chất tốt cho đất cây trồng không bị rửa
trôi.
Từ những sản phẩm cải tạo môi trường đất, chống sa mạc hoá, giữ nước cho đất, Diatomite còn
được sử dụng rất nhiều trong các ngành công nghiệp xử lý nước thải, từ nước thải công nghiệp


các nhà máy phải tuân thủ một quy trình sả thải rất nghiêm ngặt, trong đó phải kể đến những nhà
máy có độ sả thải với mức độ độc hại liên quan đến nguồn nước như: Nhà máy lọc hoá dầu, các
lò luyện kim loại nặng, các nhà máy hoá chất...

- Các ứng dụng khác: làm phụ gia trong sản xuất xi măng, sản xuất tấm lợp, các chất bọc cách,
mỹ phẩm, chất tẩy rửa, nông nghiệp, làm tinh sạch ADN …
- Tại Institute of Medical Chemistry and Biochemistry, University of Innsbruck, (nước Áo) đã
nghiên cứu sử dụng diatomite để làm giảm cholesterol trong máu.

2. Phương pháp nghiên cứu và xử lý
-Những phương pháp nghiên cứu diatomit:
+ Đánh giá ngoại quan về màu sắc để nhận xét sơ bộ về đặc điểm của diatomit có lẫn vật chất
hữu cơ hay có mặt của oxit sắt hay không.
+ Dùng phương pháp phân tích XRD
+ Dùng phương pháp phân tích kính hiển vi điện tử quét SEM để xác định tính chất lỗ xốp,
mật độ phân bố cũng như kích thước lỗ xốp.
+ Dùng phương pháp huỳnh quang tia X để xác định thành phần hóa, thành phần khoáng có
trong diatomit.


+ Để định danh cho dao động các nhóm chức trong diatomite nguyên liệu sử dụng phương
pháp tính toán lý thuyết dựa trên lý thuyết DFT (Density Functional Theory). Các mẫu so sánh
được tối ưu và tính tần số dao động bằng phần mềm Gaussian 03-Version D02 [8] bằng phương
pháp tính B3LYP 31G(d,p). Kết quả mô phỏng cấu trúc−của Berker-Lee-Yang-Par với bộ hàm cơ
sở 6 dùng để so sánh dao động của nhóm OH liên kết với Si trong các cấu trúc mẫu và khẳng
IR.−định cho các khảo sát thực nghiệm FT
+ Phân tích nhiệt vi sai (Diffrential Thermal Analysis-DTA) thực hiện trên máy CETARAM
Để nghiên cứu diatomit cần sử dụng tổ hợp nhiều phương pháp để kết quả có độ chính xác cao
nhất.

2. Phương pháp xử lý
Cũng như với tất cả các loại khoáng sản khác, trước khi tiến hành xử lý, nâng cao chất lượng,
diatomit công việc trước hết phải xác định được chính xác thành phần và hàm lượng các khoáng
vật, thành phần hóa, thành phần và hàm lượng cấp hạt. Tiếp đó cần tiến hành các phương pháp

tuyển lọc cơ học để thu hồi hàm lượng thực thụ của diatomit trong mẫu quặng. Tuyển lọc cơ học
có thể được tiến hành bằng các phương pháp thủy lực, hoặc bằng cyclon khí. Tiếp đó tinh quặng
diatomit sẽ được tinh chế bằng phương pháp hóa học, hóa lý nhằm loại bỏ các hợp chất sắt, các
chất hữu cơ. Thông thường diatomit sẽ được nung đến nhiệt độ từ 850-900 oC với sự có mặt của
soda và NaCl hoặc axit H2SO4, sau đó tinh quặng sẽ được rửa sạch đến độ pH trung hòa. Tinh
quặng thu được sẽ có màu trắng, tơi xốp và chủ yếu được sử dụng làm chất trợ lọc trong công
nghiệp rượu bia, nước giải khát.


PHẦN III: KHÁI QUÁT DIATOMIT Ở VIỆT NAM VÀ MỎ KHOÁNG DIATOMIT HÒA
LỘC - PHÚ YÊN
1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng:
Diatomit Việt Nam được phát hiện, đánh giá tiềm năng, trữ lượng chủ yếu tại Kon Tum ( Vinh
Quang, Thắng Lợi, Đăk Cấm), ở Phú Yên ( Hòa Lộc – Tuy An, cao nguyên Vân Hòa) và ở Lâm
Đồng ( Đại Lào, Gia Hiệp) và một số khu vực khác thuộc địa phận Bình Thuận, dọc theo sông
La Ngà Diatomit cũng đã được phát hiện.
Diatomit Việt Nam nói chung chủ yếu được nghiên cứu về mặt địa chất học, tiềm năng, trữ
lượng, đặc điểm thành phần hóa, hàm lượng SiO2 cũng như thành phần các giống loài tảo tạo nên
khoáng sản.
Công tác nghiên cứu ứng dụng Diatomit còn hạn chế. Do chất lượng Diatomit Việt Nam nhìn
chung thấp, hàm lượng SiO2 trong quặng chỉ vào khoảng 47-60% ( Kiều Quý Nam, 1992) nên
Diatomit được sử dụng chủ yếu vào lĩnh vực làm nguyên liệu sản xuất vật liệu bảo ôn và cũng
mới hạn chế tại mỏ Hòa Lộc thuộc tỉnh Phú Yên do Công ty khoáng sản 5 tiến hành.
Các nhà nghiên cứu cũng đã có những nỗ lực xử lý Diatomit để sử dụng làm chất trợ lọc trong
công nghiệp sản xuất nước giải khát rượu bia. Tuy nhiên đây cũng là những nghiên cứu mang
tính tự phát, ít được công bố.
Ở giai đoạn hiện tại, Diatomit Việt Nam nói chung đang đứng trước một bước ngoặt mới trong
lĩnh vực nghiên cứu sử dụng. Do nhu cầu xử lý môi trường tại các đầm nuôi trồng thủy hải sản,
diatomit đang được khai thác một cách tự phát không có kế hoạch cũng như dây chuyền chế biến
xử lý chưa hợp lý, hiệu quả kinh tế của khoáng sản chưa cao.



Ngoài ra trong công nghiệp thực phẩm, trong công nghiệp, xử lý rác thải diatomit đã được
viện địa chất KH&CN Việt Nam quan tâm.
2. Nguồn gốc Diatomit Việt Nam:
Diatomit Tây Nguyên có nguồn gốc chủ yếu là trầm tích hồ thuộc cảnh quan núi lửa Kainozoi.
Những tiền đề chính của quá trình thành tạo Diatomit Tây Nguyên là:


Hoạt động phun trào bazan Kainozoi, mạnh mẽ và rộng khắp đặc biệt là phun trào pha



sớm.
Cảnh quan núi lửa phát triển trên các bề mặt bằng phẳng Pliocen muộn. Địa hình mềm



mại gần như bằng phẳng có mặt các hồ, thung lũng tù.
Phát triển các thành tạo trầm tích, trầm tích phun trào xen trầm tích sinh hóa trong bồn hồ




và thung lũng sông tù.
Phát triển lớp phủ thực vật đầm lầy đóng vai trò màng chắn vật liệu vụn.
Đặc điểm hóa học, thủy lực thuận lợi của môi trường nước: có hàm lượng sắt, nguyên tố
thiết yếu cho sinh trưởng của Diatomit cao, hàm lượng thấp canxi và oxit cacbon dạng




axit hữu cơ, cần có cả nito và photpho. Chế độ nược yên tĩnh.
Các lớp Diatomit được thành tạo bảo tồn khá tốt chính là do các dòng lava bazan có tuổi
muộn hơn phủ tràn lên lớp trầm tích bảo vệ chúng khỏi những phá hủy bề mặt có thể xảy
ra sau giai đoạn lắng đọng va thúc đẩy nhanh hơn quá trình tạo đá.

3. Mỏ khoáng Diatomit Hòa Lộc- Phú Yên
3.1 Vị trí địa lý:
Mỏ khoáng Diatomit Hòa Lộc thuộc huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Trung tâm mỏ có tọa độ địa lý
13o05’25” vĩ độ Bắc và 105o05’29” kinh độ Đông.
3.2 Hệ tầng chứa diatomit


Diatomit Hòa Lộc nằm xen trong bazan Neogen hệ tầng Di Linh (N 13 – N21dl ): mặt cắt tiêu
biểu ở khu vực Đà Lạt gồm cuội-sỏi kết, cát kết, bentonit, diatomit, than nâu và một số vỉa bazan
xen kẹp. Mặt cắt tổng hợp bao gồm 8 tập từ dưới lên như sau:
+Tập 1: cuội kết cơ sở, dày 20m.
+ Tập 2: xen kẽ của bột kết, sét diatomit, sét than, than nâu chứa thực vật, dày 56m.
+ Tập 3: xen kẽ dạng chuyển tướng của đá bazan và trầm tích. Trong đá trầm tích có chứa bào tử
phấn hoa, dày 13m.
+ Tập 4: sét diatomit màu nâu nhạt, nhẹ, xốp; sét bột kết màu nâu xám, sét than màu nâu đen,
dày trung bình 24m.
+ Tập 5: bazan olivin màu xám sẫm phớt lục, dày 50m.
+ Tập 6: sét bột kết màu nâu vàng phân lớp yếu, sét diatomit, sét than, dày 23m.
+ Tập 7: bazan olivin đặc sít, dày 12m.
+ Tập 8: sét kết màu trắng, dày 12m.
Chiều dày chung của hệ tầng thay đổi từ 100-240m.
Hệ tầng Di Linh phủ không chỉnh hợp nên sét kết, cát kết thuộc hệ tầng La Ngà, andesit thuộc
hệ tầng Đèo Bảo Lộc và granitoid thuộc phức hệ Định Quán. Và bị phủ không chỉnh hợp bởi đá
phun trào của các hệ tầng Túc Trưng và Xuân Lộc.

3.3 Đặc điểm thân khoáng diatomit Hòa Lộc- Phú Yên:


Diatomit Hòa Lộc - Phú Yên có 3 thân quặng công nghiệp nằm xen trong bazan Neogen hệ
tầng Di Linh, từ dưới lên gồm:
Thân 1: dài 5,5km; dày 4,3-23,4m, trung bình 14,63m. Diatomit phân lớp, màu xám trắng,
xám phớt vàng, xốp nhẹ, hút nước.
Trong Diatomit xác tảo chiếm 42-50%:
+ Dạng bột hình trụ, kích thước 0,01-0,001mm.
+ Dạng opan hình cầu chiếm 18-20%, kích thước 0,02-0,07mm.
Khoáng vật sét chiếm 20-27%, lỗ rỗng chiếm 30%.
Thân 2: Diatomit phân lớp dày đến trung bình, màu trắng xám, phớt vàng, chứa di tích thực
vật. Xác tảo diatomit chiếm 40-43%, kích thước 0,01-1mm; dạng opan hình cầu, kích thước
0,01-0,001mm, thạch anh tự do lấp đầy khoảng trống xác tảo; sét 25-30%, lỗ rỗng 30%.
Thân 3: Diatomit dạng phân lớp dày, chiều dày lớp 21,24m, xen lớp mỏng sét màu xám trắng,
xám phớt vàng. Thành phần quặng xác tảo chiếm 55-59%, opan 22-25%, sét: 12-14%, lỗ lỗng
10%.
Trữ lượng cấp 121+122: 60 triệu tấn, tài nguyên dự báo 334a: khoảng 30 triệu m3.
3.4 Đặc điểm thành phần khoáng vật và thành phần hóa của diatomit Hòa Lộc- Phú Yên
* Đặc điểm thành phần khoáng vật:
Ở Việt nam mỏ Diatomit lớn và chất lượng tốt nhất là mỏ Hoà Lộc (Phú Yên) có thành phần
khoáng vật như sau:


- Vỏ tảo Diatomae: Chiếm 10-60%, có dạng hình ống, hình trụ kéo dài, tiết diện ngang hình tròn,
hình vành khuyên, đường kính từ 0,01 – 0,05 mm, có tiết diện hình chữ nhật chiều dài cạnh từ
0,01 – 0,02mm;
- Opan: Dạng hình cầu nhỏ, chiếm tỷ lệ nhỏ;
- Sét: Chiếm từ 5 – 24%, dạng vẩy chủ yếu là hydromica và lẫn ít khoáng vật Motmorillonit;
- Gai xương bột biển: chiếm 1 – 15% thuộc loại spongia đơn trục dạng que, đầu nhọn, dài 0,01 –

0,25mm;
- Gnauconit: chiếm từ 10 – 15%, có dạng vẩy nhỏ, màu lục nhạt;
- Vụn Thạch anh: chiếm < 2%, dạng hạt vỡ vụn, sắc cạnh, kích thước 0,01 – 0,1 mm, phân tán
thưa trong quặng.
* Đặc điểm thành phần hóa của diatomit Hòa Lộc
Thành phần hóa học của Diatomit: SiO 2 =65,31%, Al2O3= 16,66%, Fe2O3= 4,47%, CaO=0,3%,
MgO=0,71%, MKN=9,36%.
3.5 Diatomit Hòa Lộc đã được sử dụng trong các lĩnh vực
Làm chất trợ lọc, tẩy rửa trong công nghệ sản xuất bia, rượu, nước giải khát.
Làm nguyên liệu cho sản xuất vật liệu cách nhiệt.
Làm chất độn và chất mang.
Làm vật liệu mài bóng bạc, đánh bóng vỏ ôtô.
Làm chất hấp thụ.
Làm sạch môi trường ao, đầm nuôi tôm.


Làm cải tạo đất nông nghiệp.
Xử lý nước thải.
KẾT LUẬN
Từ những trình bày khái về diatomit ở trên nhóm chúng em rút ra kết luận chính sau:
1. Diatomit là một khoáng sản trầm tích với thành phần chính là SiO 2.nH2O dưới dạng opan được
cấu thành chủ yếu từ khung xương hoặc mảnh vụn vỏ tảo Diatome.
2. Diatomit có cấu trúc lỗ xốp, màu sắc: trắng, xám vàng, xám trắng đôi khi đen, nâu đen.
3. Nguồn gốc thành tạo:
+ Diatomit nguồn gốc biển vùng nền.
+ Diatomit nguồn gốc biển vùng địa máng.
+ Diatomit nguồn gốc hồ thuộc cảnh quan hậu băng hà.
+ Diatomit nguồn gốc hồ thuộc cảnh quan núi lửa.
Trong đó Diatomit nguồn gốc hồ thuộc cảnh quan núi lửa phổ biến ở Việt Nam.
4. Lĩnh vực sử dụng:

+ Làm chất trợ lọc, tẩy rửa trong công nghệ sản xuất bia, rượu; làm cải tạo đất nông nghiệp,
xử lý nước thải.
+ Làm nguyên liệu cho sản xuất vật liệu cách nhiệt, làm sạch môi trường ao, đầm nuôi tôm.
+ Làm chất độn và chất mang, làm vật liệu mài bóng bạc, đánh bóng vỏ ôtô.


5. Mỏ khoáng diatomit Hòa Lộc
+ Hệ tầng chứa diatomit: hệ tầng Di Linh Linh (N13 – N21dl )
+ Thành phần hóa học của Diatomit: SiO 2 =65,31%, Al2O3= 16,66%, Fe2O3= 4,47%, CaO=0,3%,
MgO=0,71%, MKN=9,36%.
Kiến nghị:
Qua quá trình tìm hiểu về diatomit chúng em hiểu và biết được khái niệm, tính chất, đặc điểm
thành phần hóa, thành phần khoáng, cũng như nguồn gốc hình thành và lĩnh vực sử dụng trong
từng ngành công nghiệp. Cần có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học sử dụng diatomit làm ra
những sản phẩm tốt nhất phục vụ cho lợi ích quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kiều Qúy Nam, Phạm Văn Trường, 2009, giáo trình nguyên liệu khoáng kĩ thuật và phụ gia vô
cơ.
2. Nguyễn Quang Luật, 2010, bài giảng Khoáng sản Việt Nam.
3. Anh Trung, Diatomite- nguồn khoáng sản đa dụng, trung tâm thông tin và công nghệ Tp.HCM
4. />


×