Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.38 KB, 15 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

PHẦN 6. BÀI THƠ “CHIỀU TỐI” CỦA HỒ CHÍ MINH
Đề 6.1. Khái quát bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh.
Đề 6.2. Phân tích (Cảm nhận) bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh để
làm nổi bật tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc
nghiệt (hoặc " nét cổ điển hiện đại")
Đề 6.3. Nhiều ý kiến cho rằng chữ ''hồng'' là nhãn tự bài thơ ''Mộ'' (Chiều
tối) của Hồ Chí Minh. Anh (chị) có đồng ý như vậy không? Hãy nêu ý kiến của
mình, phân tích để làm sáng tỏ.
Đề 6.4. Một trong những nét phong cách nổi bật của thơ Hồ Chí Minh là
''hình tượng luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai''. Hãy
chứng tỏ điều đó qua hai bài thơ ''Chiều tối'' và ''Giải đi sớm'' trong ''Nhật kí
trong tù'' của Bác.
Đề 6.5. Anh (chị) hãy trình bày cảm nhận của mình về bức chân dung con
người tinh thần của Bác qua tập thơ ''Nhật kí trong tù''.
***
Đề 6.1. Khái quát bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh.
Tháng 8/1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng
minh hội và Phân bộ quốc tế phản xuân lược của Việt Nam, Hồ Chí Minh sang
Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Sau nửa tháng đi bộ, vừa đến
Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam
vô cớ. Trong suốt mười ba tháng ở tù, tuy bị đày ải vô cùng cực khổ nhưng Hồ
Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 134 bài thơ bằng chữ Hán, ghi trong
một cuốn sổ tay, đặt tên là ''Ngục trung nhật kí'' (''Nhật kí trong tù''). Tập thơ
được dịch ra tiếng Việt và in lần đầu vào năm 1960.
''Chiều tối'' (Mộ) là bài thứ 31 của tập thơ. Cảm hứng của bài thơ được gợi
lên trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Vĩnh Tây đến Thiên Bảo vào
cuối thu năm 1942. Bài thơ ''Chiều tối'' cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệp của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại.


Bài thơ: ''Chiều tối'' (Mộ)
Phiên âm:
''Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.''
Dịch nghĩa:
''Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;
Thiếu nữ xóm núi xay ngô,
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ.''
Dịch thơ:
''Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng''
(Bản dịch thơ của Nam Trân)
***
Đề 6.2. Phân tích (Cảm nhận) bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh
để làm nổi bật tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh
khắc nghiệt (hoặc " nét cổ điển hiện đại")
Xưa nay viết về chiều muộn vốn là nguồn cảm hứng không vơi cạn của
văn chương nghệ thuật. Khó có thể kể hết những bức tranh chiều, những bản
nhạc chiều, những áng thơ chiều mà các nghệ sĩ, tao nhân đã để lại cho đời sống
con người. Về mặt này, Hồ Chí Minh trong tư cách một nhà thơ cũng không

phải là ngoại lệ. Có thể thấy ngay từ tập thơ ''Nhật kí trong tù'', trái tim của thi
nhân ấy đã không chỉ một lần rung động trước vẻ gợi cảm của buổi chiều hôm
để viết ra những vần thơ mà còn được nhiều người nhớ mãi như "Vãn chiều
hôm", "Hoàng hôn", "Chiều tối"... Trong các bài thơ đó bà "Chiều tối" (Mộ)
được xem là áng thơ tuyệt bút. Bài thơ ''Chiều tối'' cho thấy tình yêu thiên nhiên,
yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệp của nhà thơ chiến sĩ Hồ
Chí Minh. Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại.
''Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.''
Dịch thơ:
''Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng''
(Bản dịch thơ của Nam Trân)
Tháng 8/1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng
minh hội và Phân bộ quốc tế phản xuân lược của Việt Nam, Hồ Chí Minh sang
Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Sau nửa tháng đi bộ, vừa đến
Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam
vô cớ. Trong suốt mười ba tháng ở tù, tuy bị đày ải vô cùng cực khổ nhưng Hồ
Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 134 bài thơ bằng chữ Hán, ghi trong
một cuốn sổ tay, đặt tên là ''Ngục trung nhật kí'' (''Nhật kí trong tù''). ''Chiều tối''
(Mộ) là bài thứ 31 của tập thơ. Cảm hứng của bài thơ được gợi lên trên đường

chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Vĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm
1942.
"Chiều tối'' là một bài thơ viết về những vẻ đẹp của buổi chiều hôm,
nhưng điều lý thú là trong hai câu thơ đầu tiên cũng như cả bài thơ lại không
dùng đến một chữ "chiều" nào. Vậy mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất
rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm. Nhà thơ chỉ vờn vẽ lên một vài nét tiêu sơ, gợi
nên hình ảnh cánh chim chiều về tổ hay một chòm mây, áng mây chầm chậm
trôi ngang qua bầu trời. Ít nét thế thôi song lại là những nét rất tiêu biểu cho
những thời khắc cuối cùng của ban ngày, trước khi bóng tối buông màn xuống
vạn vật. Từ những câu thơ lan toả ra một cảm giác nhẹ nhàng, man mác bâng
khuâng của buổi chiều hôm khi mà mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Đó
có thể là một buổi chiều thực mà Bác đã gặp và ghi lại trong một cuộc chuyển
giao từ nhà lao này sang nhà lao khác.
Nhưng cũng không thể không thấy rằng buổi chiều ấy còn mang một vẻ
đẹp đã trở nên vĩnh hằng của những buổi chiều mà hình sắc còn đọng lại trong
những câu thơ cổ mà ở đó vẫn đi về không ít những "quyện điểu" với "cô vân":
"Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành"
( Nguyễn Du)
"Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn."
( Bà Huyện Thanh Quan)
hay như:
"Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn"
(Lý Bạch)

3



[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Và như thế, những dòng thơ đầu tiên hình như đã làm cho bài thơ "Chiều
tối" của Bác đã nhuốm một phong vị cổ điển. Cảm xúc bài thơ vì thế mà càng
trở nên mênh mang hơn, không chỉ trong không gian mà còn cả ở thời gian.
Qua vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một bức tiểu hoạ
về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm ''chiều tối''. Những buổi chiều
như vậy đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn
của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm,
thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng ''Mộ'' là
bài thơ của đời Thịnh Đường. Cảnh thiên nhiên chiều tối trong bài ''Mộ'' có cái
gì ấm áp, thậm chí có cả niềm vui nữa ở hình ảnh ''chim bay về tổ''; vì nó sẽ
đuợc nghỉ ngơi trong tổ ấm của một vòm cây nào đó. ''Chim mỏi về rừng tìm
cây ngủ'' khác với ''Chim bay về tổ''. Nhìn lên trời, Hồ Chí Minh nhận ra vẻ mệt
mỏi, uể oải của cánh chim. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của
Người đối với cảnh vật. Phải yêu thiên nhiên, cảnh vật và có mối đồng cảm bao
la thì mới nhìn được cái dáng mỏi mệt của cánh chim kia... Cánh chim trong thơ
Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Lý Bạch... thường bay về chốn vô tận, vô
cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu bạt, chia lìa. Nguợc lại, cánh chim
trong thơ Hồ Chí Minh là cánh chim rất gần gủi với con người, đang tìm về với
sự sống thường ngày. Nhờ vậy mà nó có hồn và nhốm đầy tâm trạng hơn.
Cùng với ''Quyện điểu quy lâm'' là ''Cô vân mạn mạn''. Bài thơ dịch khá
uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lửng lờ của đám mây.
Người dịch đã bỏ sót chữ ''cô'' và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy
''mạn mạn''. Câu thơ dịch: ''Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không'', dễ khiến người
đọc nghĩ đến cái nhìn của một du khách. Phải chăng, vì quá tin vào bản dịch mà
người đọc dễ hiểu cảnh thiên nhiên trong ''chiều tối'' là một cảnh vui. Chòm mây
lẻ loi, trôi lững lờ gợi một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, đượm buồn
nhưng không ảm đạm, thê lương; rộng lớn mênh mông nhưng đâu có ''xanh
trong thi vị''... Cảnh ấy, tương đồng với tâm trạng của người tù bị giải.

Những dòng thơ ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo và thấm thía của một
người tù trên con đường đày ải đang thấm một nỗi xót xa khi thấy những cánh
chim chiều cũng tìm ra chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên
bầu trời bao la. Trong khi đó, người tù vẫn bị xiềng xích, trói buộc chẳng bằng
cánh chim nọ, áng mây kia vì chiều đã sắp hết rồi mà mình vẫn không có nổi
một chốn dừng chân. Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy đây là hai dòng thơ của
một tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc để lưu luyến,
dõi nhìn theo một cánh chim, một áng mây chiều để cảm thấy tim mình xao
xuyến một tình cảm rất người, cho dù đang phải sống một cuộc sống lưu đày.
Chúng ta tìm thấy ở đó một chân dung tinh thần của một chủ tịch Hồ Chí Minh
thi sĩ, một con người yêu tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời và cuộc sống.
Đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ
một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con
người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khó khăn, khắc
nghiệt.
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Tâm hồn Bác, đó là một tâm hồn thi sĩ yêu thiên nhiên, luôn tìm đến sự
hòa hợp giữa con người với thiên nhiên. Dường như cảnh vật và con người có sự
đồng điệu cảm thông. Nhiều bài thơ khác của bác cũng có sự đồng điệu này:
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
("Ngắm trăng" - Bản dịch của Nam Trân)
“Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;

Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.”
("Trên đường đi" - Bản dịch của Nam Trân)
Điều đó cũng chứng tỏ tâm hồn của Bác luôn hướng về sự sống và ánh
sáng với niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Với Hồ Chí Minh mọi nỗi buồn,
niềm vui dường như đều gắn liền với dân tộc, nhân dân mà ít khi phụ thuộc vào
cảnh ngộ riêng của Người.
Cũng như nhiều bài thơ khác trong "Nhật kí trong tù", "Chiều tối" biểu
hiện một cảm nhận của tác giả về cuộc sống luôn có sự vận động, phát triển,
chảy trôi. Chúng ta có thể thấy điều ấy khi đối chiếu hai câu đầu với hai câu cuối
của bài thơ:
''Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng''
Tài hoa của Hồ Chí Minh là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối
mà Người không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Hai câu thơ cầu đã
viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng đến hai câu thơ sau
có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới
thấy được rõ ràng sự rực hồng của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là
không cần dùng đến chữ "tối" mà nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Chữ
"tối" trong bản dịch là do người dịch tự thêm vào. Và như thế, cặp mắt của thi
nhân sẽ thôi không ngước nhìn mãi về phía bầu trời mà hướng về mặt đất để
nhận thấy ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô, một chiếc lò than
trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị.
Bức tranh của cảnh vật sẽ nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt con người.
Hình ảnh trung tâm của hai câu thơ cũng sẽ không phải là một cánh chim chiều
về tổ, một áng mây trôi mà là một con người lao động. ''Sơn thôn thiếu nữ'' dịch
là ''Cô em xóm núi'' đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng
câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối
với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện
5



[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

trong lời thơ dịch (mà nhiều khi giọng điệu còn quan trọng hơn cả cái được miêu
tả). Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ
đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Không
rõ trước Hồ Chí Minh đã có một ''sơn thôn thiếu nữ'' thực sự là người lao động
bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh ''sơn
thôn thiếu nữ'' ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho
bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển
đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm
nghệ thuật vị nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh
cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế- đặc biệt là cuộc sống nhân
dân lao động.
Và ngôn từ của những dòng thơ cũng sẽ theo đó mà đổi thay. Hai câu thơ
này không thấm thía hương vị thơ cổ điển như hai câu trên mà mang nhiều chất
" bạch thoại", mộc mạc, đời thường, thể hiện rõ nhất ở chữ "bao túc" xuất hiện
đến hai lần. Nhiều người đã thấy ở đây nỗi xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ
đối với con người lao động. Nhà thơ dường như đã đồng cảm với sự nhọc nhằn
của họ. Đồng cảm ở cách nhà thơ nói việc xay ngô, ở cách dùng chữ "ma bao
túc" để bật lên những vòng quay nặng nề, luẩn quẩn và ở âm điệu của những câu
thơ mà đọc lên có thể cảm thấy vất vả, khó khăn. Hơn nữa, người đọc còn cảm
nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn
ánh sáng, xay xong thì trời đã tối. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện
mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ
Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Người đọc cảm thấy
không hài lòng khi dịch giả thêm vào câu chuyển một từ ''tối''. Nhìn bề ngoài
việc thêm vào như vậy có vẻ như vô thưởng, vô phạt; nhưng nghĩ sâu xa thì
chính chữ ấy đã phá vỡ một quy luật vận động lớn trong thơ Hồ Chí Minh và

không bộc lộ hết tài năng của Người.
Ta phải chú ý đến những chữ "hoàn" (hết) và hình ảnh của chiếc lò than
đã rực đỏ lên (lô dĩ hồng), để nhận ra rằng nhà thơ muốn nói đến cảm giác về
một sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm
cúng. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Chữ ''hồng''
rất xứng đáng là ''ông thánh thứ hai mươi tám'' của thơ. Trong ''Ngục trung nhật
kí'' (Nhật kí trong tù) có bao nhiêu chữ ''hồng'' như vậy? Chữ ''hồng'' là nơi hội
tụ, kết tinh ánh sáng của toàn bài, là hình ảnh của sự sống thường nhật và niềm
vui lao động. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của
Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi
nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ,
giản dị của con người. Và như thế, chúng ta có thể cảm nhận được tình thương
đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù đó là những con
người không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp
mặt.
Buổi chiều tối rực ánh hồng ở bài ''Mộ'' là buổi chiều tối không dễ gì lặp
lại lần thứ hai trong thơ, ánh hồng ấy không chỉ toả ra từ chiếc bếp lửa bình dị
của một ''sơn thôn thiếu nữ'' mà chủ yếu được toả ra từ tấm lòng nhân ái, tinh
6


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Bị trói, bị tù đày, bị giải đi "Năm mươi ba cây
số một ngày-Áo mũ dầm mưa rách hết giày", nhưng dường như Người không hề
để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu
của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi
thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than vãn. Đó chính là tinh
thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh. Với Bác, đấy là cuộc sống của
chính mình; nói như nhà thơ Tố Hữu, Bác có thể nâng niu tất cả, vì Bác sống

như trời đất, vì Bác có một trái tim có thể ôm trọn mọi non sông, kiếp người.
***
Đề 6.3. Nhiều ý kiến cho rằng chữ ''hồng'' là nhãn tự bài thơ ''Mộ''
(Chiều tối) của Hồ Chí Minh. Anh (chị) có đồng ý như vậy không? Hãy nêu
ý kiến của mình, phân tích để làm sáng tỏ.
Trong thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường luật, nhất là thể thơ tứ tuyệt, thường
có nhãn tự (chững mắt) như là điểm sáng, cái ''thần'', linh hồn của bài thơ. Người
ta thường nhắc đến chữ ''sầu'' trong bài thơ ''Hoàng Hạc lâu'' của Thôi Hiệu. Nếu
chữ ''sầu'' đọng lại một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong thi phẩm đời
Đường, thì chữ ''hồng'' lại sáng lên một ngọn lửa ấm nóng trong bài thơ ''Chiều
tối'' của nhà thơ cộng sản Hồ Chí Minh trên đường giải tù qua một xóm núi hẻo
lánh:
''Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.''
Lúc ấy, chiều đã muộn. Bác bị giải qua một khu rừng heo hút nơi đất
khách quê người. Chỉ có một cánh chim mỏi bay về rừng tìm nơi trú ngụ và một
chòm mây cô đơn trôi trên bầu trời, không biết sẽ đi về đâu... Tâm trạng người
tù xa xứ cũng vậy. Cả một ngày lê nặng bước chân xiềng xích, mệt mỏi rã rời
mà vẫn chưa có điểm dừng chân. Một nỗi buồn thấn sâu vào cảnh vật khiến cho
cảnh chiều tối càng thêm vắng vẻ, hiu quạnh, lạnh lẽo. Đó là nỗi buồn nhớ quê
hương, tổ quốc, đồng bào, đồng chí của người chiến sĩ cách mạng đang bị giam
hãm trong cảnh tù đày gian truân, vất vả.
Nhưng bỗng tứ thơ chuyển đổi khi người tù đi qua một xóm núi bên
đường. Không còn cái hiu hắt, lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng vắng
lặng, câu thơ bỗng như reo vui lên trước một cảnh sinh hoạt đầm ấm nơi xóm
núi:
''Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.''

7


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Con người lao động hiện ra khoả khoắn, tươi vui, đầy sức sống mặc dù
cuộc sống của họ còn nghèo nàn, vất cả (chỉ ăn ngô). Hình ảnh ''cô em xóm núi
xay ngô tối'' hiện lên thật đẹp trong câu thơ, càng đẹp hơn là cái ánh lửa hồng
trong lò than đã toả ấm nóng và ánh sáng ra tất cả, đẩy lùi bóng tối và cái lạnh
lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng. Ngỡ như ngọn lửa hồng đang hắt lên khuôn
mặt cô gái làm cho khuôn mặt cô càng thêm rạng rỡ. Tứ thơ chuyển đổi chính là
nhơ một chữ ''hồng'' làm sáng cả bài thơ, đem ấm nóng và sức sống đến cho tác
phẩm. ''Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả
câu thơ, cả bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ'' (Hoàng Trung Thông).
Nhưng do đâu mà có được nhãn tự đó? Do đâu mà một chữ ''hồng'' đã làm
cho người đọc cảm nhân đuợc cái ''thần'' của bài thơ, linh hồn của bài thơ tứ
tuyệt? Chính là do trong lòng thi nhân cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như
vậy: ngọ lửa của tình yêu cuộc sống, yêu con người không bao giờ tắt trong lòng
nhà thơ Hồ Chí Minh. Ngay cả những lúc mà cuộc sống của người tù ấy không
còn nữa, thì tình yêu ấy vẫn còn, và chất thơ vẫn trào lên để kết tụ lại thành một
chữ ''hồng'' tuyệt đẹp. Ở đây, trong cảnh giải tù này, Bác làm gì còn niềm vui
cho riêng mình mà chỉ có nỗi đau, nỗi buồn, nhưng chính lúc Người đi qua hẻm
núi, nhìn thấy cảnh cô gái xay ngô, thì niềm vui đến ngay, và tứ thơ xuất thần
bay lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ. Đó là niềm vui cho người lao động, vì
người lao động, và hơn thế, còn là sự trân trọng, nâng niu đối với một hạnh phúc
thật bình thường, nhỏ nhoi của người lao động nơi xóm núi. Đúng như Hoài
Thanh đã viết: ''Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua, nhưng nếu
không có một tấm lòng nâng nui trân trọng thì cũng không thể nào ghi lại được
trong thơ''.
***

Đề 6.4. Một trong những nét phong cách nổi bật của thơ Hồ Chí Minh
là ''hình tượng luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương
lai''. Hãy chứng tỏ điều đó qua hai bài thơ ''Chiều tối'' và ''Giải đi sớm''
trong ''Nhật kí trong tù'' của Bác.
Thơ Bác mang vẻ đẹp cổ điển giống như thơ xưa nhưng Bác là một tâm
hồn thơ cộng sản nên thơ Bác lại có những điểm khác thơ xưa. Một trong những
điểm khác nhau đó là sự vận động của hình tượng thơ: trong thơ Bác, hình tượng
thơ luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Có thể thấy điều
này trong tập ''Nhật kí trong tù'' mà tiêu biểu biểu là hai bài thơ ''Chiều tối'' và
''Giải đi sớm''.
Đã là nhà thơ thì phải có hình tượng. Một bài thơ có thể có nhiều hình
tượng nhưng bao giờ cũng chỉ có một hình tượng chính- hình tượng trung tâm
của bài thơ. Khi nói về sự vận động của hình tượng thơ là nói về sự vận động
của hình tượng trung tâm mà nhiều người còn gọi là tứ thơ. Sự vận động này
phản ánh tâm hồn thơ của thi nhân: khoẻ khoắn, lạc quan, yêu đời hay yếu đuối,
8


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

buồn chán, bi quan. Tâm hồn nhà thơ như thế nào thì sự vận động của hình
tượng thơ cũng như thế.
Bác là một tâm hồn thơ cộng sản, một nhà thơ cách mạng nên sự vận
động của hình tượng thơ chỉ có thể hướng về sự sống, ánh sáng và tương laimặc dù thơ Người được viết ra trong bóng tối nhà lao hay trên những nẻo đường
giải tù gian truân vất vả. Sự vận động của hình tượng thơ trong bài ''Chiều tối''
và ''Giải đi sớm'' đã cho thấy rõ điều đó.
''Chiều tối'' thuộc đề tài giải tù, lúc ấy đã chiều muộn. Người tù Hồ Chí
Minh lê nặng bước chân xiềng xích nơi núi rừng hẻo lánh trên đất khách quê
người, sau một ngày gian truân, vất vả. Bác nhìn thấy gì trong cảnh ''Chiều tối''
ấy?

''Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không''.
Một cảnh trời chiều buồn vắng mênh mang như tâm trạng cô đơn, mệt
mỏi của người tù lúc bấy giờ. Trong nguyên tác, Bác nói rõ đó là chòm mây cô
đơn đang trôi chậm chậm trên bầu trời như vừa trôi vừa suy nghĩ: ''Cô vân mạn
mạn độ thiên không''. Chòm mây như một sinh thể có hồn, chứa đầy tâm trạng
của con người. Với hai nét bút chấm phá, thi nhân như đã thu được linh hồn của
cảnh vật, và cảnh chiều muộn hiện ra trước mắt ta buồn thấm thía trong cái xa
vắng mênh mông núi rừng hẻo lánh đang bị bóng tối dần dần bao phủ. Lòng thi
nhân buồn nên nỗi buồn đã thấm sâu vào cảnh vật, hay chính vì lòng buồn mà
Bác đã bắt gặp cánh chim mỏi và chòm mây cô đơn? Dù thế nào thì hai câu thơ
cũng mang đến cho người đọc một nỗi buồn bâng khuâng man mác- và đó chính
là nỗi buồn có thực của Bác khi những bước chân nặng trĩu trên đường giải tù
nơi đất khách quê người vào lúc chiều muộn ấy.
Nhưng tứ thơ bỗng thay đổi đột ngột và hình tượng thơ có sự vận động.
Cảnh chiều muộn đang buồn là thế, bỗng chuyển sang một cảnh sinh hoạt tươi
vui, đầm ấm đầy sức sống của con người bên xóm núi.
''Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng''
Nhịp điệu câu thơ dường như cũng vui lên, dạt dào sức sống trong hình
ảnh khoẻ khoắn của cô gái, trong nhịp quay của cối xay ngô ''ma bao túc'' rồi lại
''bao túc ma hoàn''; và tất cả bừng sáng lên trong ánh lửa rực hồng của lò than...
Sự vận động của hình tượng thơ ở đây có một cái gì thật bất ngờ và khoẻ khoắn:
từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo cô đơn đến
ấm nóng. Và trên cảnh thiên nhiên rộng lớn, con người, sự sống của con người,
ngọn lửa của con người bỗng trở thành tụ điểm, thành trung tâm toả ấm nóng và
niềm vui ra tất cả. Không phải thiên nhiên là chủ để mà con người mới là chủ
thể. Mạch thơ chuyển từ buồn sang vui và hình tượng thơ đã vận động hướng về
sự sống, ánh sáng và tương lai là như vậy.


9


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Ở bài ''Giải đi sớm'', ta cũng thấy có sự vận động như thế trong hình tượng
thơ. Nếu khổ một là cảnh ''đêm tối, gió lạnh, đường xa'' thì khổ hai là cảnh ''bình
minh ửng hồng, thời tiết ấm áp''. Và trong cảnh thứ nhất, Bác hiện lên trong tư
thế một ''chinh nhân'' đang vượt qua khó khăn gian khổ trên con đường cách
mạng, thì cảnh thứ hai, Người lại trở thành một ''hành nhân'' mà tứ thơ lai láng
tràn đầy trong cảnh bình minh ấm áp. Cảnh sắc thiên nhiên và nhân vật trữ tình
trong bài thơ đều có sự vận động đổi thay. Nhưng vận động theo hướng nào? Từ
bóng tối đã chuyển ra ánh sáng, từ ''gà gáy một lần đêm chửa tan'' đến ''phương
đông màu trắng chuyển sang hồng- bóng tối đêm tàn chốc sạch không''. Từ cảnh
gió rét đường xa:
''Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn''
Tứ thơ vận động một cách tự nhiên sang cảnh ''hơi ấm bao la trùm vũ trụ''
đầy sức sống, dạt dào tình người. Hình tượng thơ đã vận động theo hướng đi lên,
hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai, khiến cho buổi bình minh của thời tiết
bỗng có khí thế như buổi bình minh của lịch sử. Đó là do tâm hồn của thi nhân
rất khoẻ khoắn, lạc quan và yêu đời- dù đang bị đày đoạ trong cảnh tù tội gian
truân, vất vả- như nhận xét của Hoài Thanh ''Không thể nào có được những nét
bút hùng tráng như vậy nếu không có sẵn trong lòng một niềm tin sắt đá về một
bình minh lớn lao trong lịch sử''.
Niềm tin sắt đá đó đã tạo nên cái tư thế ''nghênh diện thu phong trận trận
hàn'' của người chiến sĩ cách mạng và cái tứ thơ lai láng tràn đầy trong lòng nhà
thơ Hồ Chí Minh. Toàn bài thơ là hình ảnh con người đi trên đường xa, đi từ
bóng tối đến bình minh, từ gian khổ đến niềm vui- và đấy là con đường gian khổ
lâu dài nhưng tất thắng của cách mạng. Không thấy người tù đâu mà chỉ thấy

hình ảnh người chiến sĩ cách mạng đang lên đường vì đại nghĩa. Sự vận động
của hình tượng thơ đã đem đến cho người đọc niềm lạc quan tin tưởng.
Không phải đến ''Nhật kí trong tù'' mới có thơ trên đường giải tù. Đề tài
''đi đày'' cũng đã từng có trong thơ xưa, nhưng đó là những bài thơ buồn hiu hắt
cô đơn. Phải đến ''Nhật kí trong tù'' ta mới gặp những bài thơ trên đường giải tù
yêu đời, yêu cuộc sống, lạc quan tin tưởng mà hình tượng thơ luôn vận động
hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai bởi đó là thơ của người tu- thi sĩ mang
tâm hồn thơ của một chiến sĩ cách mạng.
***
Đề 6.5. Anh (chị) hãy trình bày cảm nhận của mình về bức chân dung
con người tinh thần của Bác qua tập thơ ''Nhật kí trong tù''.
Tập thơ ''Nhật kí trong tù'' được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác khi Người
bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trong nhà tù Trung Quốc vào
những năm 1942, 1943. Người viết tập thơ này dường như không có ý làm nghệ
10


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

thuật, lưu danh hậu thế mà chỉ cốt để ngâm ngợi cho khuây khoả những tháng
ngày ''mất tự do''. Tuy vậy, ''Nhật kí trong tù'' đã trở thành một tác phẩm lớn có
giá trị về nhiều mặt trong lịch sử văn học Việt Nam cận, hiện đại. Nó có sức hấp
dẫn lâu bền với nhiều thế hệ bạn đọc ở cả trong nước lẫn ngoài nước.
Mấy chục năm qua, kể từ khi tập thơ được công bố, nhiều người đã viết
về tập thơ này. Họ nhấn mạnh đến giá trị phản ánh hiện thực, sức mạnh tố cáo
của ''Nhật kí trong tù'' đối với chế độ nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch.
Tuy vậy, điều quan trọng nhất cần phải thấy: trước sau đây vẫn là một tập nhật
kí bằng thơ, một tập nhật kí ''hướng nội'', tác giả chủ yếu viết cho mình. Do đó,
sức hấp dẫn của tập thơ chính là hình tượng của nhân vật trữ tình- tác giả Hồ
Chí Minh, một chiến sĩ- thi sĩ. Đọc tác phẩm ''Nhật kí trong tù'', chúng ta bắt gặp

con người Hồ Chí Minh với tất cả vẻ đẹp, phong phú, sâu sắc trong tâm hồn,
trong tính cách, trong cách nhìn, cách nghĩ suy về cuộc đời và con người. ''Nhật
kí trong tù'' đúng là một ''bức chân dung tự hoạ'' bằng thơ về con người tinh thần
của người sáng tạo ra nó.
Qua hơn một trăm bài thơ, ta có thể nhận thấy nỗi khắc khoải nóng lòng,
sốt ruột ngóng trông tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đọc còn nhớ, mùa
thu 1942, với tư cách là đại biểu cho phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh có trọng trách tìm sang Trung Hoa để bàn cách phối hợp hành động chống
bọn đế quốc, phát xít. Nhưng vô cớ, Người bị bọn mật vụ Quốc dân đảng bắt giữ
và sau đó, bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, không được xét xử. Người
cũng hoàn toàn không được biết đến bao giờ mình mới được trả tự do. Hồ Chí
Minh đau khổ vô hạn và thấm thía sâu sắc nỗi ''mất tự do''. Nỗi đau khổ này
được tác giả bộc lộ trong khá nhiều bài thơ. Chẳng hạn như trong một lần
chuyển đổi nhà lao có bọn ''cảnh binh khiêng lợn cùng đi'', Bác đã viết những
câu thơ đầy cay đắng, biểu lộ một quy luật trong cuộc sống, mà quy luật này
Người đã rút ra một cách thấm thía ngay trong cuộc sống đau khổ của chính
mình.
''Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do?''
Hay trong một bài thơ khác, bài ''Bị hạn chế'', Hồ Chí Minh cũng khẳng
định: ''Đau khổ chi bằng mất tự do''.
Nỗi sốt ruột, khắc khoải chờ mong kéo dài theo ngày tháng đã chuyển
thành sự giận dữ, phẫn nộ. Người đã đặt cho bài thơ một nhan đề hết sức độc
đáo là chỉ có một dấu hỏi chấm (?).
''Quảng Tây đi khắp lòng oan ức
Giải đến bao giờ, giải tới đâu?''
Bên cạnh con người nóng lòng, sốt ruột, đau khổ vô hạn vì mất tự do,
người đọc còn bắt gặp trong ''Nhật kí trong tù'' một con người hoàn toàn tự chủ
về mặt tinh thần, luôn bình thản ung dung, tự tại, tâ, hồn như bay lượn trên bầu
trời tự do, không sức mạnh của nhà tù nào giam hãm được. Như vậy, có thể nói

11


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

chúng có thể giam cầm được thể xác Bác, nhưng không khi nào chúng có thể
giam cầm được tinh thần Bác. Điều này đã được chính tác giả thể hiện qua hai
câu thơ mở đầu, được xem như lời đền từ của tập ''Nhật kí trog tù'':
''Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại''
Có nghĩa là:
''Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.''
Và, không ít lần, Hồ Chí Minh thấy mình là ''khách tự do'', thanh thản,
ung dung, tự tại như là một khách tiên. Điều này được thể hiện qua khá nhiều
bài thơ như ''Đi Nam Ninh'', ''Giải đi sớm'', ''Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây'', và có
lẽ tiêu biểu phải kể đến bài ''Ngắm trăng'' sau đây:
''Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.''
Trong bài thơ này hoàn toàn không thấy tác giải nói đến nỗi đau khổ, bồn
chồn vì bị mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh
tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Thực ra, trong chốn lao tù, ắt hẳn người thi sĩ đâu có được thưởng trăng
một cách thoải mái. Có lẽ, song cửa nhà lao chỉ đủ cho lọt qua một chút ánh
trăng thấp thoáng mà thôi. Song, cho dù chỉ như thế, nhưng với sức tưởng tượng
phong phú, với tâm hồn yêu mến thiên nhiên, Hồ Chí Minh cũng cảm thấy dạt
dào thi hứng, cũng cảm thấy bồi hồi xao xuyến trước cảnh đẹp đêm trăng. Câu
thơ thứ hai nguyên văn chứ Hán là: ''Đối thử lương tiêu nại nhược hà?'', có

nghĩa: ''Trước cảnh đẹp đêm nay biết thế nào?''. Câu thơ dường như có một chút
bối rối. Cái bối rối rất thi sĩ... Tiếc rằng câu thơ dịch ''Cảnh đẹp đêm nay khó
hững hờ'' đã làm mất ''cái bối rối'' rất thi sĩ đó. Người xưa thưởng trăng thường
hay có rượu và hoa. Ở trong tù, Hồ Chí Minh làm sao có được những thứ này?
Cho dù thế, thi hứng của nhà thơ vẫn dạt dào:
''Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ''
Thi nhân và ánh trăng tựa hồ như đôi bạn tri âm, tri kỉ, có sự giao hoà
tuyệt diệu. Ánh trăng vô tri vô giác qua tâm hồn của người tù thi sĩ trở thành
một nhân vật đáng yêu, có tâm trạng, có linh hồn. Trên đây là những câu thơ đặc
biệt ý vị. Ý vị không phải chỉ xuất phát từ kĩ thuật làm thơ mà điều quan trọng
nhất vẫn là tâm hồn, là xúc cảm của người tù- thi sĩ Hồ Chí Minh...
Đúng là đọc ''Nhật kí trong tù'', chúng ta được chứng kiến nhiều cuộc vượt
ngục bằng tinh thần của người tù Hồ Chí Minh. Khi thì người thả hồn theo một
12


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

áng mây trôi, một cánh chim chiều, một vầng trăng non, lúc thì Người dõi theo
một vầng dương buổi sớm, một cảnh làng xóm ven sông, hay cảnh buổi tối khi
cô thôn nữ vừa xay xong ngô tối thì lò than đã ửng hồng. Đặc biệt, tâm hồn của
Hồ Chí Minh luôn luôn hướng về Tổ quốc, về đồng chí, đồng bào; ngay trong
giấc ngủ, Người cũng luôn mơ về đất nước thân yêu. Có những đêm, Bác trằn
trọc mãi không sao ngủ được, đến ''Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt- Sao
vàng năm cánh mộng hồn quanh''.
Ngoài ra, trong ''bức chân dung tự hoạ'' của Hồ Chí Minh ta còn bắt gặp
một trí tuệ lớn, một tầm tư tưởng lớn. Trí tuệ lớn trước hết thường được thể hiện
qua cái nhìn đối với hiện thực. Hơn ai hết, Bác thấy rõ những bất công vô lí
trong nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Nhà tù này chính là nước Trung

Hoa rộng lớn khi đó thu nhỏ. Bên cạnh đó, từ những sự việc nhỏ nhoi, tầm
thường hàng ngày, với trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh rút ra được những khái
quát, tìm ra quy luật của cuộc sống thông qua sự từng trải, sự chiêm nghiệm của
chính bản thân mình. Vì vậy, một số câu thơ, bài thơ của Người có ý vị triết lí
thâm trầm sâu sắc. Chẳng hạn từ việc ''Học đánh cờ'', Người rút ra tầm quan
trọng của thời cơ đối với sự thành bại trong hoạt động của con người:
''Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.''
Hay, nhà thơ khẳng định bản chất lương thiện của con người và sự ảnh
hưởng của hoàn cảnh giáo dục:
''Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền.
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.''
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng có những chiêm nghiệm đúng đắn về
''Đường đời hiểm trở'', về sự phức tạp khó khăn trong cuộc sống xã hội:
''Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao''
Tuy nhiên, những nhận xét khái quát về cuộc đời, về con người của Hồ
Chí Minh không bao giờ có ý vị yếm thế hay hư vô mà Người luôn hướng con
người tới những hành động thiết thực để cải tạo con người, cải tạo hoàn cảnh.
Điều đó chứng tỏ lòng tin vững chắc của nhà thơ vào bản chất lương thiên, tốt
đẹp của con người. Khi Bác khẳng định ''Hiền dữ phải đâu là tính sẵn- Phần
nhiều do giáo dục mà nên'' tức là Người đặt ra vấn đề giáo dục và tin tưởng ở kết
quả xây dựng lực lượng cách mạng về sau. Những ai đã được sống gần Hồ Chí
Minh đều nhận thấy sức mạnh cảm hoá của Bác. Niềm tin vào con người là hạt
nhân quan trọng tạo nên niềm tin vào sự nghiệp cách mạng ở Hồ Chí Minh. Qua
bài ''Đi đường'', Bác thể hiện khá tập trung ý tưởng chinh phục khó khăn, hướng
tới cuộc sống, hướng tới tương lai:
13



[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng.
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.''
Ngay trong hoàn cảnh gian khổ, khó khăn, Người vẫn nhìn thấy ánh sáng
của tương lai tươi sáng:
''Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mắt đã bừng soi.''
Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn biện chứng về sự vận động của đời sống tự
nhiên. Bởi vậy, thơ Người viết trong tù vẫn khiến cho người đọc thêm niềm tin
vào cuộc sống, vào con người. Có đêm, gà vừa gáy lần đầu tiên, trời tối, gió rét,
Hồ Chí Minh đã phải chuyển lao. Nhưng bỗng chốc, dưới con mắt của người tù
thi sĩ, cảnh vật liền biến đổi, ánh sáng bình minh ấm áp rực rỡ xua tan bóng tối,
người tù bỗng trở thành thi nhân nồng nàn thi hứng... như trong bài thơ ''Giải đi
sớm''. Đây là bài thơ quen thuộc với nhiều người.
Dẫu sao, vẫn sẽ là một thiếu sót rất lớn, nếu như viết về ''bức chân dung tự
hoạ'' nói trên, ta không đề cập tới lòng nhân ái bao la, sâu sắc của Bác Hồ. Trong
bài ''Bác ơi!'' Tố Hữu đã viết được những câu thơ rất hay, rất đúng về con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh:
''Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người!''
Trước hết, trái tim ấy dành cho những người lao khổ dù họ là người Trung
Quốc hay người Việt Nam.
Nhà thơ dễ dàng quên những đau đớn khổ sở mà mình phải chịu, nhanh
chóng đồng cảm sâu sắc và phát hiện ra những bất hạnh, đau khổ của những
người xung quanh để thông cảm, chia sẻ với họ. Bác thương cảm ''Vợ người bạn

tù đến thăm chồng'', đối với ''Cháu bé trong nhà lao Tân Dương'', hay đối với
''Một người tù cờ bạc vừa chết''... Chỉ cần nghe ''Người bạn tù thổi sáo'', Bác
chẳng những thấu hiểu nỗi lòng nhớ quê của anh ta, mà còn hình dung thấy ở
chốn chân trời xa xôi kia có một phụ nữ bước lên một tầng lầu nữa để ngóng
trông chồng:
''Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu.
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.''
Trong tù, Bác gọi những người cùng bị giam là ''nạn hữu'' (bạn tù) và
Người cùng chia sẻ với họ những nỗi niềm sâu kín hay cùng đùa vui trong cảnh
ghẻ lở khổ sở:
14


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Mặc gấm bạn tù đều khách quý
Gảy đàn trong ngục thảy tri âm.''
Nhìn bao quát, tình yêu thương của Hồ Chí Minh mang tầm nhân loại
rộng lớn. Điều này tạo nêm giá trị đặc biệt của tập thơ.
Ở con người tác giả, rõ ràng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Bên
cạnh sự nhạy cảm tinh tế, người đọc có thể nhận thấy ý chí sắt son, nghị lực phi
thường, lớn lao, bền bỉ. Chất ''tình'' và chất ''thép'' được kết hợp một cách tự
nhiên, hài hoà trong tập ''Nhật kí trong tù''. Đúng như cách đây mấy chục năm
nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nhận xét về thơ Hồ Chí Minh: ''Vần thơ của Bác
vần thơ thép''. ''Thép'' chính là tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Nhưng
điều đáng quý là chất ''thép'' ấy được toát ra một cách tự nhiên, bình dị trong tư
thế ung dung, tự tại của một con người làm chủ mọi tình huống. Có lần chuyển
lao, Bác bị bọn lính xích chân vào thuyền, nhưng Người vẫn phát hiện cuộc

sống đông đúc vui tươi của làng xóm bên sống, của những thuyền câu nhẹ lướt.
Có lần, sau suốt một ngày đi xa vất vả, chiều xuống, Bác tới một xóm núi, gây
ấn tượng đối với Người không phải là nỗi gian truân đã qua hoặc sắp tới mà
chính là cảnh ''Cô em xóm núi xay ngô tối- Xay hết, lò than đã rực hồng''... Chất
''thép'' thể hiện đặc biệt rõ ở sự kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến thắng mọi
gian lao thử thách khắc nghiệt. Đối với Bác, mọi gian lao đều được coi như là
những sự thử thách để rèn giũa con người thêm vững vàng kiên định. ''Nghe
tiếng giã gạo'', Hồ Chí Minh làm thơ như để tự khuyên mình:
''Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian lao rèn luyện mới thành công.''
Ý thơ này, Người vẫn hằng tâm niện. Bởi vậy, ngay ở lời đề từ của tập thơ
Bác đã khẳng định: ''Muốn nên sự nghiệp lớn- Tinh thần càng phải cao''. Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh đến sự rèn luyện tu dưỡng của con người và Bác là một
tấm gương sáng về tu dưỡng và rèn luyện này.
''Nhật kí trong tù'' là một tập thơ có giá trị về nhiều phương diện. Sức hấp
dẫn của tập thơ này trước hết đúng lá sức hấp dẫn trong bức ''chân dung tự hoạ
con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh''. Hay nói cách khác, sức hấp dẫn
của tập thơ chính là sức hấp dẫn của ''chất người cộng sản Hồ Chí Minh'' (Xuân
Diệu)... Là những cách nói khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm khẳng định tác giả
của ''Nhật kí trong tù'' là một nhân vật kiệt xuất, ''đại trí'', ''đại nhân'' và đại
dũng''. Tập thơ thể hiện sinh động nhân vật kiệt xuất này.
***

15




×