Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nhu cầu sử dụng internet trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm trường đại học tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 74 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ............................................................. 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 2
3.2. Khách thể nghiên cứu ........................................................................... 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................... 2
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 2
5.1. Giới hạn phạm vi đối tượng .................................................................. 2
5.2. Giới hạn phạm vi khách thể .................................................................. 2
6. Giả thuyết khoa học .................................................................................... 2
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận ................................................. 3
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ............................................. 3
7.3. Phương pháp xử lí số liệu ..................................................................... 4
8. Cấu trúc của đề tài ...................................................................................... 4
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU NHẬN THỨC VÀ NHU
CẦU SỬ DỤNG INTERNET TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP ............ 5
1.1. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................... 5
1.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển Internet ........................... 5
1.1.2. Nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................... 7
1.1.3. Nghiên cứu ở Việt Nam ...................................................................... 9
1.2. Cơ sở lí luận về nhu cầu nhận thức và nhu cầu sử dụng Internet trong
hoạt động học tập của sinh viên .................................................................... 13
1.2.1. Nhu cầu nhận thức ........................................................................... 13
1.2.2. Một số đặc điểm trong hoạt động học tập của sinh viên ................... 16
1.2.3. Nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên ..... 19
1.2.3.1. Động cơ học tập trong môi trường sử dụng Internet .................. 20
1.2.3.2. Hứng thú học tập trong môi trường sử dụng Internet: ............... 22
1.2.3.3. Hành động học tập trong môi trường sử dụng Internet .............. 23


1.2.4. Internet và vai trò của Internet trong dạy học. ................................. 23
1.2.4.1. Định nghĩa Internet .................................................................. 23
1.2.4.2. Vai trò của Internet trong dạy học ............................................. 25
1.2.4.3. Lợi ích của việc sử dụng Internet trong dạy học ở bậc đại học .. 28
1.2.5. E- Learning - hình thức dạy học trực tuyến ...................................... 29
1.2.5.1. Khái niệm về E-Learning ........................................................... 29
1.2.5.2. Ưu điểm của E-Learning trong dạy học ..................................... 31
1.2.5.3. Tình hình phát triển và ứng dụng E-Learning trên thế giới và Việt
Nam........................................................................................................ 32


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG NHU CẦU SỬ DỤNG INTERNET TRONG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN SƢ PHẠM TRƢỜNG ĐẠI
HỌC TÂY BẮC .......................................................................................... 36
2.1. Xác định mẫu khách thể nghiên cứu ...................................................... 36
2.2. Thực trạng nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh
viên sư phạm Trường đại học Tây Bắc .......................................................... 37
2.2.1. Mục đích và mức độ truy cập Internet của sinh viên sư phạm Trường
Đại học Tây Bắc ........................................................................................ 37
2.2.2. Đánh giá của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc về vai trò
của Internet trong hoạt động học tập ......................................................... 42
2.2.3. Nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên sư
phạm Trường Đại học Tây Bắc.................................................................. 46
2.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt
động học tập của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc .................. 49
2.2.5. Nhận thức của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc về E –
Learning, một hình thức dạy học trực tuyến.............................................. 53
2.2.6. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Internet trong hoạt
động học tập của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc .................. 57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................... 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 67


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại, loài người đang sống trong một xã hội với sự phát
triển không ngừng các thành tựu khoa học, kĩ thuật, công nghệ, trong đó phải kể
đến những thành tựu của lĩnh vực công nghệ thông tin. Sự ra đời, phát triển
mạnh mẽ của Internet cho phép con người rút ngắn khoảng cách và nối liền
khoảng cách theo xu thế toàn cầu hóa. Sự phát triển của Internet có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tất cả các mặt của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực giáo dục,
đến hoạt động học tập của học sinh, sinh viên. Tiện ích mà Internet mang lại cho
sinh viên hiện nay đó là giúp các em có những hiểu biết sâu rộng trong mọi lĩnh
vực, có khả năng truy cập một lượng thông tin lớn, đa dạng một cách nhanh
chóng. Điều này rất hữu ích cho hoạt động học tập mang tính chất tự nghiên cứu
ở lứa tuổi thanh niên, sinh viên. Tuy nhiên, ngoài mặt tích cực, Internet còn
mang đến những tác động tiêu cực làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động học
tập và đời sống của sinh viên.
Trong một môi trường học tập ở bậc đại học có nhiều thay đổi trong cách
dạy và cách học. Sinh viên phải tích cực tham gia vào hoạt động học tập của
mình, giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, định hướng cho sinh viên. Do
đó, nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên ngày càng
cao và đa dạng. Sử dụng Internet trong hoạt động học tập và trong các nhu cầu
giải trí khác là một xu hướng tất yếu của giới trẻ nói chung và sinh viên trường
Đại học Tây Bắc nói riêng. Nhu cầu sử dụng Internet trong học tập của sinh viên
Trường Đại học Tây Bắc đạt ở mức độ nào? Hiệu quả sử dụng Internet trong
hoạt động học tập của sinh viên ra sao? Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
của Internet đến sinh viên trong quá trình học tập? Những khó khăn trong sử
dụng Internet…? Là những vấn đề mà tác giả mong muốn làm rõ trong đề tài.
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự phát triển không ngừng của

công nghệ thông tin - mạng Internet, đòi hỏi mỗi sinh viên cần tích cực làm chủ
công nghệ, làm chủ cách học, cách chiếm lĩnh tri thức. Nhận thấy sinh viên
Trường Đại học Tây Bắc sử dụng Internet trong học tập và trong những nhu cầu
1


giải trí khác ngày càng nhiều. Vì vậy chúng tôi lựa chọn nghiên cứu: “ Nhu cầu
sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm Trường Đại
học Tây Bắc”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực trạng nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động
học tập; Phát hiện những yếu tố ảnh hưởng của Internet trong hoạt động học tập
của sinh viên; Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
Internet trong học tập, nghiên cứu của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây
Bắc.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu sử dụng Internet và những ảnh hưởng của Internet đến hoạt động
học tập của sinh viên.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài; Khảo sát thực trạng
nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm Trường
Đại học Tây Bắc; Phát hiện những yếu tố ảnh hưởng của Internet trong hoạt
động học tập; Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
Internet trong học tập, nghiên cứu của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn phạm vi đối tượng
Nghiên cứu về nhu cầu sử dụng Internet thể hiện trong nhận thức, thái độ

và hành vi trong hoạt động học tập của sinh viên.
5.2. Giới hạn phạm vi khách thể
Đề tài nghiên cứu trên mẫu khách thể 200 sinh viên sư phạm từ năm thứ
nhất đến năm thứ tư Trường Đại học Tây Bắc, trong đó 50 sinh viên năm thứ
nhất; 50 sinh viên năm thứ 2; 50 sinh viên năm thứ 3; 50 sinh viên năm thứ 4.
6. Giả thuyết khoa học
2


Nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
Trường Đại học Tây Bắc ở mức trung bình, các em còn xa lạ với việc học tập có
hỗ trợ của công nghệ mạng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
Internet trong học tập. Nếu được học tập trong môi trường công nghệ dạy học
hiện đại, hướng dẫn cách học tập qua khai thác công nghệ mạng, kiểm soát,
quản lí về mặt thời gian; kiểm tra, đánh giá phù hợp…thì sẽ nâng cao hiệu quả
sử dụng Internet và nâng cao chất lượng dạy và học.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng các phương pháp đọc, phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu,
văn bản liên quan đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lí luận, xác định công cụ,
thang đo và các tiêu chí đánh giá nhu cầu sử dụng Internet của sinh viên hiện
nay.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp diều tra bằng phiếu hỏi
Thiết kế, xây dựng phiếu điều tra (Anket) nhằm khảo sát thực trạng nhu
cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên; Phát hiện những yếu
tố ảnh hưởng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
Internet trong hoạt động học tập của sinh viên.
7.2.2.Phương pháp quan sát
Thông qua các buổi tiếp xúc với sinh viên, tiến hành quan sát các em

trong thái độ và hành vi để bổ sung cho những thông tin thu được qua phiếu điều
tra.
7.2.3. Phương pháp trò chuyện
Sử dụng phương pháp này nhằm hỗ trợ cho phương pháp điều tra, qua
trao đổi trò chuyện với sinh viên để hiểu sâu sắc hơn những vấn đề có liên quan
như: Thời gian vào mạng dành cho hoạt động học tập, kết quả học tập, quá trình
giải quyết các nhiệm vụ học tập, năng lực sử dụng Internet trong học tập…để từ
đó chính xác hóa những vấn đề nghiên cứu.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
3


Gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với những người có chuyên môn, các giảng viên
bộ môn phương pháp, các giảng viên đã tiếp cận cách dạy học E – Learning để
nắm bắt thực trạng về vấn đề sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh
viên, từ đó đánh giá thực trạng, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả sử dụng Internet trong hoạt động học tập.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu
Xử lí kết quả khảo sát bằng phương pháp thống kê toán học nhằm đảm
bảo tính khách quan và chính xác của những thông tin thu được.
8. Cấu trúc của đề tài
Nội dung cơ bản của đề tài được trình bày:
Phần Mở đầu.
Chương 1; Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2; Kết quả nghiên cứu và đề xuất biện pháp.
Phần Kết luận – Kiến nghị.
Phụ lục.

4



CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU NHẬN THỨC
VÀ NHU CẦU SỬ DỤNG INTERNET TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
1.1. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây chúng ta được chứng kiến sự bùng nổ mạnh
mẽ của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự phát triển không ngừng của hệ thống
Internet, nó mang lại cho cuộc sống con người nhiều tiện ích. Hiện nay vấn đề
sử dụng, làm chủ Internet đang được nhiều cá nhân, tổ chức, hệ thống các
trường học…đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học ở trong và
ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chủ
yếu thuộc các lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin, nghiên cứu các phần mềm
ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực quản lí, y học, kinh tế, nghiên
cứu thị trường…Trong những năm gần đây, giáo dục đã bắt đầu ứng dụng
những thành tựu của công nghệ thông tin vào trong lĩnh vực quản lí giáo dục,
các hoạt động dạy và học, vì vậy những nghiên cứu về ứng dụng công nghệ
thông tin, mạng Internet trong nhà trường bắt đầu được thực hiện nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả trong giáo dục đào tạo.
1.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển Internet
Tiền thân của mạng Internet ngày nay là mạng ARPANET được Bộ Quốc
phong Mỹ xây dựng vào năm 1969 để nghiên cứu lĩnh vực mạng, theo đó các
máy tính được liên kết lại với nhau và có khả năng truyền dẫn các dữ liệu. Năm
1972 trong một hội nghị quốc tế về truyền thông máy tính, Bob Kahn đã trình
diễn mạng ARPANET liên kết 40 máy thông qua các bộ xử lí, đây cũng là năm
Ray Tomlinson đã phát minh ra E-mail để gửi thông điệp trên mạng. Từ đó đến
nay, E-mail là một trong những dịch vụ được dùng nhiều nhất.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia, Năm 1986 mạng NSFnet
chính thức được thiết lập, kết nối năm trung tâm máy tính. Đây cũng là năm có
sự bùng nổ kết nối, đặc biệt là ở các trường đại học. Một số hãng lớn bắt đầu tổ
chức kinh doanh trên mạng. Đến lúc này đối tượng sử dụng Internet chủ yếu là


5


những nhà nghiên cứu và dịch vụ phổ biến nhất là E-mail và Internet là một
phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại vào bậc nhất.
Năm 1991 Tim Berners Lee ở trung tâm nghiên cứu nguyên tử Châu Âu
phát minh ra World Wide Web (www) dựa theo ý tưởng về siêu văn bản được
Ted
Nelson đưa ra từ năm 1985. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng trên Internet

người ta có thể truy cập, trao đổi thông tin một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Những hình ảnh video đầu tiên được truyền đi trên mạng Internet, www vượt
trội hơn rất nhiều so với những sản phẩm Internet đã có từ trước như
ARPANET, FTP... và Internet trở thành dịch vụ có số lưu thông lớn nhất căn cứ
trên số lượng gọi và truyền tin. Các hệ thống quay số trực tuyến truyền thống
như CompuServe, AmericanOnline, Prodigy bắt đầu khả năng kết nối Internet.
Năm 1985, cơ quan quản lý viễn thông của Mỹ quyết định mở cửa một số
băng tần không dây, cho phép nhiều người sử dụng chung . Đây là bước
mở đầu cho các mạng không dây ra đời và phát triển rộng rãi. Năm 1999 nhà
sản xuất máy tính nổi tiếng Apple công bố sự xuất hiện của Wi- Fi như là một
sự lựa chọn trên dòng máy iBook mới của họ. Sự mở đầu này đã làm thay đổi
hoàn toàn thị trường mạng không dây, Wi- Fi được phát triển nhanh nhờ sự phổ
biến mạnh mẽ của kết nối Internet băng rộng tốc độ cao trong các gia đình và trở
thành phương thức dễ nhất cho phép nhiều máy tính cùng chia sẻ một đường
truyền truy cập băng rộng. Thuật ngữ Wi-Fi ra đời, là tên gọi thống nhất để chỉ
công nghệ kết nối cục bộ không dây đã được chuẩn hóa. Tiếp theo là sự ra đời
phiên bản mới của Wi – Fi có tên gọi là 802.11g sử dụng kĩ thuật giải phổ rộng
có thể đạt tốc độ 54Mb/ giây ở băng tần 2,4GHz. Tuy vậy, Wi- Fi là một công
nghệ ngắn, khó cạnh tranh với các mạng điện thoại di động 3G vốn có khả năng

truyền phát dữ liệu tốc độ cao. Công nghệ 3G hiện đang được tích hợp vào các
máy tính xách tay, điện thoại di động… được sản xuất hàng loạt. Trong thời
điểm hiện tại, các công ty, tập đoàn chuyên nghiên cứu về mạng Internet đã cho
ra đời sản phẩm công nghệ 4G, là công nghệ truyền thông không dây thế hệ thứ
6


tư, cho phép truyền tải dữ liệu với tốc độ vượt trội hơn so với thế hệ thứ ba (3G).
Tốc độ đạt được trong điều kiện lý tưởng có thể lên tới 1 cho đến 1,5 Gb/giây.
Cho đến nay mạng Internet đã trở thành công cụ truyền thông công nghệ
cao, phục vụ hữu hiệu đời sống con người. Con người ngày càng nghiên cứu
phát triển và cho ra đời nhiều phiên bản phần mềm Internet đạt trình độ công
nghệ tối ưu. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có khoảng 7,2 tỷ người, trong
đó số người sử dụng Internet khoảng 3,5 tỷ người chiếm 42 % dân số thế giới
(nguồn: Thị trường Internet Việt Nam năm 2015) và mỗi năm con số này lại
tăng lên.
Việt Nam bắt đầu thử nghiệm kết nối với Internet từ năm 1992. Đến năm
1997 Việt Nam chính thức tham gia vào truy cập Internet và cho đến nay mạng
Internet không ngừng phát triển tại Việt Nam. Theo thống kê có 44% dân số
Việt Nam sử dụng Internet và Việt Nam là một quốc gia được đánh giá có tốc độ
phát triển Internet vào loại khá trong khu vực và thế giới. (nguồn: Thị trường
Internet Việt Nam năm 2015).
1.1.2. Nghiên cứu ở nước ngoài
Có thể nói những nghiên cứu về Internet nói chung và nhu cầu sử dụng
Internet nói riêng cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực đề
cập đến trong nhiều đề tài. Nhìn vào lịch sử hình thành và phát triển Internet để
thấy được sự cống hiến của các nhà nghiên cứu, các kĩ sư tin học, các lập trình
viên... đã không ngừng cho ra đời những sản phẩm truyền thông chất lượng cao,
có thể ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Cũng như nhiều lĩnh vực trong đời sống
xã hội, giáo dục luôn đề cao những thành tựu mà công nghệ mạng đạt được và

không ngừng ứng dụng nó vào trong quá trình dạy và học, trong quản lí giáo
dục, trong kiểm tra đánh giá...Các nền giáo dục tiến tiến vào bậc nhất trên thế
giới như Hoa kì, Pháp, Hà Lan. Thụy Điển, Nhật Bản, Singapo...đều chú trọng
đến hệ thống mạng Internet, coi nó như là một công cụ hữu hiệu, đắc lực góp
phần không nhỏ tạo nên chất lượng giáo dục. Vì vậy rất nhiều công trình nghiên
cứu về Internet ra đời, không chỉ là những nghiên cứu phát triển phần mềm ứng
7


dụng mà còn rất nhiều nghiên cứu hướng tới mục tiêu: khai thác triệt để những
tiện ích của Internet, đồng thời phát hiện ra những ảnh hưởng tiêu cực của
Internet, điều chỉnh những ảnh hưởng đó để nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo. Vào năm 1998, Bà Sandra Weiss, chủ tịch Hội đồng Khoa học hệ thống
các trường đại học Hoa Kỳ, trên cơ sở những nghiên cứu của mình bà đề nghị
các giảng viên của Trường Đại học California thảo luận về việc kết nối các môn
học lại với nhau nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có thể theo học một chương
trình đào tạo được cấp bằng bởi nhiều trường hoặc nhiều khoa trong một trường.
Bà Weiss cho rằng việc kết nối các khóa học lại với nhau là quan trọng “chúng
ta đang ở trong một thời đại mà mỗi trường đại học là thành viên của một cộng
đồng chuyên môn lớn hơn – làng chuyên môn toàn cầu” (Sandra Weiss, 1998).
Công nghệ thông tin có thể giúp các trường Đại học làm được điều này. Trong
nghiên cứu của mình, bà Weiss cho rằng với sự giúp đỡ của công nghệ thông
tin, các khóa học nên được thiết kế theo các bước sau đây: 1) xác định nội dung
trùng hợp của nhiều khóa học mà các trường hoặc các khóa đào tạo trong cùng
một trường nghĩ rằng có thể chuyển đổi được; 2) thiết kế các chương trình học
đó theo hướng linh hoạt; 3) thảo luận cách chuyển tải các chương trình học của
các khóa học đó thiên về hướng sử dụng các ứng dụng của công nghệ thông
tin trong việc chuyển tải nhằm có thể thay thế cách học truyền thống (chỉ có học
trong lớp với thầy và trò).
Công nghệ thông tin, cụ thể là Internet, được tạo ra đầu tiên nhằm mục

đích quân sự và công nghiệp, sau đó mới được ứng dụng vào giáo dục. Tuy
nhiên, ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực giáo dục đòi hỏi một con
đường khác. Nhằm có thể sử dụng một cách hiệu quả, các nhà giáo có thể phải
tái sáng tạo và thuyết phục được mục đích của nó là nhằm xác định bản thể học,
chuẩn hóa nội dung, kỹ năng và đáp ứng được các thành tố chương trình học
một cách tổng thế. Hoặc ít nhất, các nhà giáo dục cũng phải sử dụng và đo lường
được các kết quả có thể có của từng tiêu chuẩn. “Công nghệ thông tin được sử
dụng nhằm phục vụ cho các mục đích của con người, nhưng sự quá tải của công
nghệ thông tin là điều mà chúng ta phải lựa chọn cẩn thận trong việc ứng dụng
8


để chúng ta không phải hy sinh đi những gì thuộc về „con người‟ trong đó”
(Hanseth, Monteiro, & Hatling 1996).
1.1.3. Nghiên cứu ở Việt Nam
Theo chỉ thị số 58-CT/TW ban hành ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị
{23} đã nêu: "Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục
và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo
từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển
mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các
cơ sở giáo dục và đào tạo". Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đề ra các điều
khoản triển khai chương trình đào tạo trực tuyến (E-Learning) trên Internet ở
quy mô trường học như là một phần của công tác triển khai công nghệ thông
tin năm học 2008-2009. Tại Việt Nam hiện nay, Internet đang ngày càng đóng
vai trò chủ chốt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Việc áp dụng Internet vào
lĩnh vực này đã thúc đẩy một bước tiến lớn mạnh mẽ mang tri thức phổ cập đến
mọi công dân trong xã hội. Theo khảo sát, Việt Nam đã có khoảng hơn 10.000
trường học ở các bậc học khác nhau trên cả nước được VNPT hỗ trợ kết nối
Internet nếu tính đến thời điểm năm 2014.
Dù mới chính thức xuất hiện và phát triển ở Việt Nam từ năm 1997 nhưng

tốc độ phát triển của Internet không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất
lượng. Do đó những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này cũng rất đa dạng và
phong phú.. Trong đề tài, tác giả tổng hợp được một số báo cáo, công trình
nghiên cứu tiêu biểu sau:
Trong nghiên cứu “Xu hướng sử dụng Internet ở Việt Nam” được thực
hiện vào tháng 12 năm 2008. Tập đoàn thông tin thị trường toàn cầu (TNS) đã
nghiên cứu, khảo sát trên 1.200 người sử dụng Internet tại bốn thành phố lớn là
Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ bằng phương pháp điều tra xã hội học
kết hợp với phỏng vấn trực tiếp. Nghiên cứu mang tính chất khảo sát và chỉ
dừng lại ở mục đích nhằm cung cấp thông tin cho các nhà tiếp thị và truyền
thông những thông tin về thói quen sử dụng Internet của người Việt Nam, từ đó
hoạch định được các chiến lược Maketing trên Internet phù hợp hơn với người
9


Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chuyên sâu qua cuộc nghiên cứu về xu hướng sử
dụng Internet tại các thành phố lớn ở Việt Nam cho thấy một tầm nhìn tổng quát
về các hoạt động trực tuyến của người sử dụng bao gồm thói quen sử dụng; các
phương tiện truyền thông liên kết; lối sống tâm lý của người sử dụng Internet và
việc nghiên cứu thương hiệu mà họ quan tâm và ưa chuộng. Qua kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng: Thời gian bình quân sử dụng Internet mỗi ngày của người
dân đã tăng gần gấp đôi, từ 22 phút năm 2006 lên 43 phút năm 2008. Xu hướng
truy cập Internet tại nhà (66%) đã vượt trội hơn so với việc ra quán cafe Internet
(53%). Tuy nhiên lứa tuổi thanh thiếu niên lại hay truy cập Internet ở các quán
cafe Internet nhiều hơn ở nhà.
Bài viết “Thực trạng sử dụng Internet ở thanh, thiếu niên Việt nam” trên
trang web chungta.com (2004) {24} Bài viết sử dụng phương pháp quan sát và
phỏng vấn một số đối tượng là thanh, thiếu niên và một số giáo viên. Kết quả
cho thấy Internet đã trở thành một phương tiện rất quen thuộc đối với đông đảo
thanh, thiếu niên nhất là ở các thành phố lớn, sự thiếu định hướng trong việc sử

dụng Internet và sự cần thiết phải khai thác những mặt tích cực của thế giới ảo.
Đa số khách hàng ở các quán cafe Internet là thanh, thiếu niên với mục đích vào
Internet để chat (tán gẫu) và tình trạng truy cập Internet một cách tự phát mà
không được ai hướng dẫn trước ngay cả ở nhà và trong trường học, từ đó sẽ dẫn
đến tình trạng “lợi bất cập hại”. Bài viết cũng đưa ra được sự cần thiết có những
kế hoạch đào tạo, định hướng sử dụng máy tính và Internet một cách cơ bản và
rộng rãi cho học sinh, sinh viên.
Bài viết “Đánh giá tình hình sử dụng Internet của thanh niên Việt Nam”
được cung cấp bởi IGURU Việt Nam, trích từ trang web .
Thực hiện tháng 3 năm 2008. Nội dung của bài viết nêu lên phần lớn thanh thiếu
niên sử dụng Internet vào mục đích giải trí và hầu hết là tự họ tìm hiểu để biết
cách sử dụng mà không được ai hướng dẫn trước. Trong bài viết cũng cho thấy
được sự khác biệt trong việc truy cập Internet đó là nam giới luôn chiếm tỷ lệ
cao hơn nữ và sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Đưa ra được những mặt
lợi và mặt hại trong thực trạng sử dụng Internet của thanh niên hiện nay. Về mặt
10


lợi của Internet ai cũng thấy được với sự tiện lợi, đơn giản một nơi kết nối cả thế
giới. Internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của thanh
thiếu niên. Mặc dù Internet đã được phổ cập nhưng việc quản lý, giáo dục sử
dụng Internet vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Internet tại Việt Nam đang
bộc lộ những mặt trái của nó như xâm phạm tình dục, truyền bá văn hóa phẩm
đồi trụy, trò chơi bạo lực, tuyên truyền thông tin sai lệch…Bài viết cũng đề ra
một số phương pháp mà chính phủ Việt Nam đang áp dụng để giảm thiểu những
mặt trái của Internet như ban hành nghị định Internet, nghị định chống thư rác
và các chương trình xã hội khác.
Tác giả Nguyễn Quý Thanh trong công trình nghiên cứu của mình về
“Internet và định hướng giá trị của sinh viên về tính dục trước hôn nhân” đăng
trên tạp chí xã hội học, số 2, năm 2006. Bài viết được rút ra từ cuộc nghiên cứu

thực nghiệm khảo sát trên 640 sinh viên trên quy mô tại 5 trường đại học ở Hà
Nội và 5 trường đại học ở TP.HCM. Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả
Nguyễn Quý Thanh đã đưa ra mô thức sử dụng Internet phổ biến nhất của sinh
viên Việt Nam đó là: Sử dụng cho mục đích Chat (66.3%), còn việc tìm kiếm
thông tin học tập và đọc báo, truyện tranh trên mạng (33.7%). Từ phân tích trên
có thể dễ dàng nhận thấy rằng sinh viên lên mạng tìm kiếm thông tin cho nhu
cầu giải trí nhiều hơn là để thu thập thông tin cho việc học tập, thu thập kiến
thức. Qua bài viết, tác giả nhấn mạnh đến việc sử dụng Internet thường xuyên có
ảnh hưởng đến định hướng giá trị của sinh viên. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra
nhận định về số lượng các nghiên cứu tác động của Internet đối với lối sống sinh
viên còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
Tác giả Lộc Minh với

nghiên cứu của mình đăng

trên trang web

vovinam. vn.com vào tháng 11 năm 2008 Bài viết được tác giả trình bày dựa
trên kết quả của một cuộc nghiên cứu “Tìm hiểu ảnh hưởng của Internet đến
học sinh- sinh viên Việt Nam hiện nay” do Viện Văn hóa - Thông tin thực hiện.
Cuộc khảo sát được thực hiện khá công phu với diện đối tượng không chỉ là học
sinh-sinh viên mà cả cán bộ viên chức và người lao động. Kết quả của cuộc
khảo sát cho thấy được những tác động, ảnh hưởng mang tính tích cực và tiêu
11


cực của Internet đối với đời sống và học tập của học sinh- sinh viên và Internet
chưa thật sự phát huy được mặt tích cực là kho thông tin tri thức của nhân loại
và của học sinh-sinh viên. Đề tài cho thấy đối với học sinh- sinh viên thì Internet
được coi là môi trường giải trí quan trọng, hoạt động khi tham gia mạng Internet

đối với giới trẻ nhất là giới trẻ ở các khu đô thị thì email, chat, games vẫn là chủ
yếu. Bên cạnh đó còn thể hiện được sự khác biệt trong việc ảnh hưởng của
Internet đối với học sinh – sinh viên và các cán bộ công nhân viên.
Tác giả Nguyễn Quý Thanh cùng nhóm cộng sự của mình là các tác giả
Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Khánh Hòa và Nguyễn An Ni trong đề tài: “Mối
quan hệ của việc sử dụng Internet và hoạt động học tập của sinh viên” mã số
Q.CL.05.01. Qua đề tài này, nhóm tác giả nghiên cứu cho thấy rằng Internet là
một công cụ hữu hiệu bổ trợ cho quá trình giảng dạy – học tập của giáo viên và
sinh viên. Tuy nhiên, cho dù nó đã tạo những sự thay đổi nhất định trong cách
học tập của sinh viên nhưng vẫn không đạt được kết quả như chúng ta mong đợi.
Đề tài cũng cho thấy tầm quan trọng của việc phổ cập và tạo điều kiện cho sinh
viên có thể truy cập Internet phục vụ cho việc học là một việc vô cùng cần thiết.
Việc này phải được thực hiện một cách đồng bộ từ phía giáo viên, sinh viên
cũng như các nhà quản lý giáo dục.
Tác giả Hồ Sỹ Anh - Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường ĐHSP Tp.
HCM, trong nghiên cứu của mình về vấn đề “E-Learning đối với học sinh phổ
thông Việt Nam”, đã lí giải cách học trực tuyến E – Learning ở các trường học
và cách mà học sinh phổ thông tiếp cận hoạt động học theo hình thức này. Ở các
nước phát triể n , việc học tập bằng phương pháp E-Learning (Electronic
Learning) đã trở nên phổ biến, người học có thể chủ động chọn khóa học, thời
gian học thích hợp và có thể học ở bất cứ đâu

, chỉ cần kết nối với Internet .

Không chỉ có E -Learning, một số nước đã phát triển M

-Learning (Mobile

Learning) hoặc ME -Learning, kết hợp giữa M -Learning và E -Learning. Ở Việt
Nam, những năm gầ n đây , với sự phát triể n ma ̣nh mẽ hạ tầng công nghệ thông

tin, đă ̣c biê ̣t là kế t nố i Internet băng thông rô ̣ng đến tất cả các cơ sở giá o dục, đã
thúc đẩy ngành Giáo dục và Đào tạo phát triển E-Learning ở giáo dục đại học và
12


bắt đầu triển khai ở giáo dục phổ thông, đây được xem là một chiến lược của
giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết nghiên cứu vấn đề “ Tìm hiểu nhu cầu sử dụng
Internet của sinh viên hiện nay” năm 2010. Từ công trình nghiên cứu tác giả đi
đến một số kết luận rằng Internet đóng một vai trò quan đối với học tập cũng
như trong cuộc sống của sinh viên. Mục đích truy cập vào mạng Internet của
sinh viên là rất phong phú và đa dạng. Nhưng nhìn chung, sinh viên sử dụng
mạng Internet với ba mục đích chính đó là phục vụ cho việc học tập, giải trí và
một số sinh viên sử dụng Internet với mục đích tìm kiếm việc làm phù hợp trong
quá trình đang học và sau khi ra trường. . Có sự khác biệt trong việc sử dụng
Internet giữa sinh viên các năm học với nhau. Qua kết quả phân tích cho thấy,
càng bước vào những năm học cuối sinh viên càng có nhiều nhu cầu sử dụng
mạng để phục vụ cho việc học tập, tìm kiếm thông tin nhiều hơn những năm
trước. Sự khác biệt trong việc sử dụng Internet giữa nam và nữ cũng cho thấy
được nhu cầu và mục đích khác nhau của sinh viên khi tham gia vào mạng.
Qua tổng quan các tài liệu trên, chúng tôi nhận thấy Internet là một sản
phẩm công nghệ mới. Tuy nhiên, với nhiều chức năng vừa mang tính tích cực
vừa mang tính tiêu cực, Internet đã và đang là mối quan tâm cũng như đang gây
nhiều lo ngại cho các nhà quản lý và nhiều tổ chức liên quan, trong đó có lĩnh
vực giáo dục trước nhu cầu hiểu biết ngày càng cao của con người về loại hình
phương tiện truyền thông hiện đại này. Vì vậy rất cần thiết phải nghiên cứu để
nắm rõ thực trạng nhu cầu sử dụng Intrenet và những ảnh hưởng của nó trong
cuộc sống nói chung và hoạt động học tập của học sinh, sinh viên nói riêng, từ
đó có biện pháp quản lý, kiểm soát, tác động đúng hướng nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống và chất lượng giáo dục.

1.2. Cơ sở lí luận về nhu cầu nhận thức và nhu cầu sử dụng Internet
trong hoạt động học tập của sinh viên
1.2.1. Nhu cầu nhận thức
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý chi phối mạnh mẽ đời sống tâm lý nói
chung và hành vi của con người nói riêng. Để tồn tại, phát triển, cá nhân phải
13


được thoả mãn những nhu cầu nhất định. Nhu cầu nhận thức là một trong những
nhu cầu tinh thần đặc trưng của con người. Đó là trạng thái thiếu hụt một cái gì
đó trong lĩnh vực nhận thức. Nhu cầu nhận thức là nhu cầu về tri thức, nhu cầu
hiểu biết, nhu cầu về thông tin có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của con
người. Sự thoả mãn nhu cầu này có ý nghĩa to lớn đối với đời sống của cá nhân
và xã hội. Ngày nay nếu xét từ quan điểm phát triển bền vững thì đó là điều kiện
cần thiết để phát triển con người bền vững. Vì vậy, quan tâm hình thành và phát
triển nhu cầu nhận thức cho mỗi con người nói chung, mỗi học sinh, sinh viên
nói riêng ngày càng trở nên cấp thiết.
Vấn đề nhu cầu được đề cập đến trong hầu hết các giáo trình tâm lý học.
Trong các giáo trình này, các tác giả chủ yếu nghiên cứu nhu cầu trên bình diện
lý luận như: định nghĩa nhu cầu, giới thiệu tóm lược bản chất nhu cầu, đưa ra
các phân loại nhu cầu, mối quan hệ giữa nhu cầu với động cơ, mục đích hoạt
động... Vấn đề nhu cầu còn được đề cập đến trong các luận án tiến sỹ của
Trương Thành Trung, Nguyễn Văn Giao, Chu Thanh Phong, Hoàng Văn
Thanh....và một số luận văn cao học khác. Nhìn chung, các tác giả của những
luận văn, luận án trên đều xem xét nhu cầu với tư cách như là cơ sở khách quan
của xu hướng nhân cách, là nguồn gốc, nguyên nhân nẩy sinh tính tích cực hoạt
động của cá nhân.
Lý thuyết nhu cầu của A.Maslow phân tầng nhu cầu thành năm tầng bậc.
Con người có những nhu cầu thiết yếu như nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn...và
đồng thời cũng có những nhu cầu mang tính xã hội cao như nhu cầu quan hệ xã

hội, nhu cầu được tôn trọng, yêu thương...

14


Năm tầng trong Tháp nhu cầu của Maslow:
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" (physiological)
- thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an
toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc
(love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia
đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm
giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có
được và được công nhận là thành đạt.
Nhu cầu nhận thức là những đòi hỏi của con người trong việc tìm tòi, tiếp
thu cái mới, cái chưa có trong kinh nghiệp cá nhân mà họ cần phải có để phát
triển.
* Một số đặc điểm cơ bản của nhu cầu nhận thức và biểu hiện của
chúng
15


- Đặc điểm về cường độ nhu cầu nhận thức: thể hiện ở độ mạnh, độ gay
gắt của những đòi hỏi về thông tin, về sự biểu biết của con người được biểu hiện
dưới góc đội ý thức khi chủ thể ý thức một cách rõ ràng về nhu cầu nhận thức
và phương thức, phương tiện để thỏa mãn nhu cầu đó.
- Nhu cầu nhận thức bị chi phối bởi xúc cảm - tình cảm trí tuệ. Việc thỏa

mãn hay không thỏa mãi nhu cầu nhận thức. Mức độ và tính chất khác nhau của
xúc cảm tình cảm trí tuệ sẽ quy định mức độ phát triển của nhu cầu nhận thức.
- Nhu cầu nhận thức mang tính chu kì: được biểu hiện ở tính tự nguyện,
liên tục, tự giác tham gia hoạt động nhận thức, phản ánh độ bền vững của nhu
cầu nhận thức.
- Đặc điểm về nội dung đối tượng nhu cầu nhận thức: Nội dung đối tượng
của nhu cầu nhận thức là động cơ nhận thức được phản ánh trong tâm lí con
người. Động cơ nhận thức nếu xét trong phạm vi học tập thì đó là hệ thống tri
thức, kĩ năng , kĩ xảo được phản ánh vào đầu óc học sinh, thúc đẩy học sinh thực
hiện hoạt động nhận thức. Theo A.K.Marcova “động cơ nhận thức có trình độ
khác nhau được sắp xếp theo thứ bậc”.
- Đặc điểm về phương thức thỏa mãn nhu cầu nhận thức: Nhu cầu nhận
thức là nguồn gốc bên trong của tính tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức
là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thế thông qua sự huy động ở mức độ
cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập. Do đó mức độ tích
cực nhận thức của cá nhân sẽ quyết định trực tiếp kết quả hoạt động nhận thức
cũng như phương thức nhằm thỏa mãn nhu cầu nhân thức.
Nhu cầu nhận thức ở mỗi người, mỗi lứa tuổi có thể khác nhau do đó kết
quả hoạt động là khác nhau. Khi nói đến học sinh, sinh viên - với tư cách là chủ
thể hoạt động học tập thì nhu cầu nhận thức có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ
xu hướng của hoạt động và sự phát triển nhân cách học sinh, sinh viên.
1.2.2. Một số đặc điểm trong hoạt động học tập của sinh viên
Sinh viên hay còn gọi là thanh niên - sinh viên là giai đoạn lứa tuổi các
em đã gần đạt đến sự trưởng thành về mặt thể chất, sinh lý và tiếp tục trưởng
thành, hoàn thiện về mặt xã hội, nhân cách. Theo nghiên cứu của nhà Tâm lý
16


học B.D.Annanhiep: Tuổi thanh niên là khi các em là chủ thể: Chủ thể lao động,
chủ thể trí tuệ, chủ thể nhân cách và là công dân tích cực của xã hội. Sự xác định

về tuổi chỉ mang tính tương đối, điều quan trọng hơn khi xác định tuổi thanh
niên là xác định sự trưởng thành về mặt xã hội, nhân cách của cá thể đó. Thanh
niên – sinh viên năm thứ nhất đại học bước vào một môi trường sống, học tập
mới, các em gặp phải không ít những khó khăn như: sự thay đổi về môi trường
sống; sự thay đổi trong mối quan hệ, bạn bè, thầy cô; đặc biệt những đòi hỏi về
chất và lượng ở bậc đại học đặt ra cho các em những yêu cầu cao buộc các em
phải nỗ lực để đáp ứng với những yêu cầu đó…Có thể nói giai đoạn thanh niên
sinh viên là một bước ngoặt lớn có ý nghĩa chuyển tiếp quan trọng trong cuộc
đời mỗi con người.
Ở trường Đại học, Cao đẳng – nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
đáp ứng yêu cầu của xã hội. Sinh viên - Students là người học tập, nghiên cứu,
người đi tìm kiếm khám phá tri thức. Khác với học sinh phổ thông bên cạnh
hoạt động chủ đạo là học tập, lĩnh hội tri thức, sinh viên còn có nhiệm vụ tự học,
tự nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập. Về bản chất, quá trình học tập của sinh
viên ở bậc đại học là quá trình nhận thức có tính nghiên cứu. Điều này đã được
thể chế hóa trong Luật Giáo dục quy định rất rõ: “Phương pháp giáo dục đại
học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho
người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kĩ năng, thực hành, tham gia
nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.” Vì vậy, dù ở phương thức đào tạo nào,
sinh viên cũng cần phải có năng lực tự học, hay nói cách khác: “tự học là cách
học ở bậc đại học”. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của đổi
mới giáo dục đại học, nhiều trường đại học đang triển khai mô hình đào tạo theo
học chế tín chỉ. Phương thức đào tạo này coi trọng vai trò trung tâm của sinh
viên, tạo cho sinh viên năng lực chủ động, sáng tạo trong phương thức học của
mình. Đồng thời, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát
triển công nghệ thông tin, sự giao lưu giữa các nền văn hoá trên thế giới đã tạo
điều kiện và đặt ra nhiều thách thức đối với sinh viên buộc họ luôn phải nỗ lực
trên con đường học tập.
17



Lứa tuổi thanh niên – sinh viên là lớp người giàu nghị lực, có ước mơ,
hoài bão, lý tưởng. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm
lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống, không phải bất cứ sinh viên nào cũng
được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động. Khó khăn
trong học tập của sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm thứ nhất ảnh hưởng rất
nhiều đến kết quả học tập, tâm lí học đường và sự hòa nhập vào môi trường mới,
ảnh hưởng đến bản lĩnh và sự tự tin của sinh viên trên con đường xây dựng kế
hoạch đường đời của họ. Học tập ở bậc đại học nhằm đào tạo sinh viên trở thành
những chuyên gia phát triển toàn diện, có trình độ phát triển nghề nghiệp cao, vì
vây ngoài những đặc điểm chung của hoạt động học tập, học tập của sinh viên
còn có những đặc điểm riêng sau đây:
- Tính chuyên nghiệp: Hoạt động học tập của sinh viên hướng vào việc
hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách người chuyên gia trong kĩnh vực
nghề nghiệp tương ứng, Do đó học tập của sinh viên có sự thay đổi rất lớn so
với học sinh phổ thông. Hoạt động học tập của sinh viên mang tính đặc trưng
của hoạt động nghề nghiệp tương lai, mục đích là chiếm lĩnh hệ thống tri thức,
kĩ năng, thái độ nghề nghiệp, hình thành những phẩm chất của người lao động
nghề nghiệp tương lai. Tóm lại trong quá trình học tập sinh viên phải xây dựng
cho mình nhân cách đáp ứng với yêu cầu nghề nghiệp sau này.
- Tính độc lập cao trong học tập: Xuất phát từ yêu cầu của việc đào tạo
chuyên gia trong tương lai, học tập ở sinh viên đòi hỏi mức độ trí tuệ cao, sự tự
ý thức đầy đủ về hoạt động của bản thân. Sinh viên phải nhận thức được mình là
chủ thể của hoạt động học, là người tổ chức và thực hiện quá trình học tập. Tính
độc lập trong học tập của sinh viên được thể hiện trong suốt quá trình học tập, từ
việc tích cực giải quyết các nhiệm vụ học tập đến việc tìm kiếm, sưu tầm tài
liệu, lập kế hoạch học tập phù hợp và nỗ lực thực hiện nó. Mặt khác học tập của
sinh viên mang tính chất nghiên cứu buộc sinh viên phải có tính độc lập, xây
dựng phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học độc lập, tự chủ.
- Tính sáng tạo: Ngoài việc lĩnh hội tri thức, học tập của sinh viên gắn liền

với nghiên cứu khoa học đòi hỏi tính sáng tạo cao. Tính sáng tạo của sinh viên
18


vừa xuất phát từ sự trưởng thành của lứa tuổi vừa do yêu cầu của bản thân hoạt
động học tập đối với sinh viên trong thời đại mới.
- Tính thực tiễn: thể hiện ở việc chú trong phương pháp dạy học bộ môn,
cách thức nghiên cứu khoa học, thực hành, thí nghiệm...phục vụ cho nghề
nghiệp tương lai. Ngoài việc nắm vững hệ thống lí luận, sinh viên phải phát triển
các kĩ năng ứng dụng, năng lực sáng tạo vào lĩnh vực chuyên môn được đào tạo.
Đồng thời, tính thực tiễn trong học tập của sinh viên còn thể hiện ở việc đáp ứng
với những đòi hỏi của xã hội về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong
mục tiêu phát triển xã hội.
Tóm lại, hoạt động học tập của sinh viên là loại hoạt động trí tuệ đích
thực, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt, có sự thay đổi về nội
dung, phương pháp, điều kiện học tập ở bậc đại học trong đó có đặc điểm nổi
bật là tính chất tự học, tự nghiên cứu dưới vai trò hướng dẫn của Thầy, vì vậy tự
tìm kiếm khai thác nguồn thông tin trên Internet là một loại hành động luôn diễn
ra trong hoạt động học tập của người học nói chung và sinh viên nói riêng trong
xu thế học tập gắn với những phương tiện hiện đại như Internet.
1.2.3. Nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của sinh viên
Có thể thấy rằng Internet là một trong những phát minh lớn nhất của nhân
loại trong nửa cuối thế kỉ XX, nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
toàn cầu hóa của công nghệ thông tin va thúc đẩy bước tiến của nhân loại. Việc
sử dụng Internet ở trên thế giới và tại Việt Nam nói riêng đã trở thành nhu cầu
thiết yếu của con người nhất là đối với sinh viên. Trong đó phải kể đến trước hết
là nhu cầu sử dụng Internet để phục vụ cho việc học tập, trau dồi kiến thức của
sinh viên. Học tập luôn là nhiệm vụ hàng đầu của sinh viên trên giảng đường đại
học. Đối với sinh viên trước đây việc tìm hiểu những thông tin tài liệu cho các
môn học gặp rất nhiều khó khăn, họ phải dựa vào sách vở, báo chí được lưu trữ

trong các thư viện, nhà sách…hoặc là trong nguồn tài liệu mà giáo viên cung
cấp, vì vậy phải tốn rất nhiều thời gian. Ngày nay, việc kết nối mạng Internet đã
giúp họ thay đổi về cách học, internet trở thành phương tiện giúp sinh viên tìm
kiếm và lưu trữ thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
19


Từ những đặc điểm và biểu hiện của nhu cầu nhận thức của học sinh, sinh
viên như đã phân tích ở trên, chúng tôi lấy đó làm cơ sở lí luận để tiếp cận vấn
đề làm rõ nhu cầu sử dụng Internet trong hoạt động học tập của của người học.
Cụ thể chúng tôi sẽ là rõ ba vấn đề liên quan, đó là: Động cơ học tập, hướng thú
học tập và hành động học tập trong môi trường có sử dụng công nghệ mạng.
1.2.3.1. Động cơ học tập trong môi trường sử dụng Internet
Động cơ là động lực thúc đẩy con người hoạt động để đạt mục đích. Động
cơ có mối quan hệ không thể tách rời với nhu cầu, khi cá nhân gặp đối tượng có
khả năng thỏa mãn nhu cầu sẽ trở thành động lực thúc đẩy cá nhân tiến hành
hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Động cơ là cái bên trong ẩn chứa trong bất kì hoạt động nào của con
người. Động cơ hiện thân trong đối tượng của hoạt động, chủ thể tiến hành hoạt
động để chiếm lĩnh đối tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách cá nhân bị chi phối, điều khiển bởi hệ
thống động cơ và chính hệ thống động cơ cũng quy định nên các kiểu nhân cách
phản ánh nhân cách, đạo đức lối sống của cá nhân đó.
Động cơ học tập của sinh viên là học vì cái gì? Điều gì thúc đẩy hoạt
động học ở các em…Trả lời được những câu hỏi trên chính là việc xác định
được động cơ học tập của các em. Hoạt động học tập của học sinh, sinh viên có
thể bị chi phối bởi động cơ bên trong và (hoặc) động cơ bên ngoài.
- Động cơ bên trong đóng vai trò quyết định thúc đẩy con người hoạt
động để vươn tới mục tiêu nhằm thỏa mãn những đòi hỏi bên trong của cá nhân
tạo nên tâm lí sẵn sàng đối với hoạt động học tập. Những động cơ bên trong chi

phối đến hoạt động học tập của người học như: lòng ham muốn khám phá chân
trời tri thức của nhân loại; có năng lực, sở trường, hứng thú đối với hệ thống tri
thức khoa học và khả năng vận dụng những kiến thức đó vào trong thực tiễn
cuộc sống. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức
thường không chứa đựng xung đột bên trong. Nó cũng có thể xuất hiện những
sự khắc phục khó khăn trong tiến trình học tập và đòi hỏi phải có những nỗ lực ý
chí nhưng đó là nỗ lực hướng vào việc khắc phục những trở ngại bên ngoài để
20


đạt được nguyện vọng, chứ không phải hướng vào việc đấu tranh với chính bản
thân mình. Do đó, chủ thể của hoạt động học tập thường không có những căng
thẳng tâm lý. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi loại động cơ bên trong là tối
ưu theo quan điểm sư phạm.
- Động cơ bên ngoài là những yếu tố khách quan tác động đến cá nhân
trong quá trình học tập. Cá nhân thường học xuất phát từ “cái khác” chứ không
phải xuất phát từ sự yêu thích, hứng thứ với tri thức khoa học vì vậy các em
thường học một cách thụ động. Những động cơ bên ngoài phải kể đến như: học
vì bố mẹ, vì “phần thưởng”, học để xin việc, vì một nghề có thu nhập cao…vì
vậy ít nhiều cũng gây ra những căng thẳng về mặt tâm lí cho người học trong
quá trình học tập.
Động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt mà phải được hình
thành dần dần chính trong quá trình học tập. Người học ngày càng đi sâu chiếm
lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của thầy, cô, thì càng có cơ
hội hình thành động cơ học tập. Nếu trong dạy học, thầy cô luôn luôn thành
công trong việc tổ chức cho học sinh tự phát hiện ra những điều mới lạ, giải
quyết thông minh các nhiệm vụ học tập, tạo ra được những ấn tượng tốt đẹp với
việc học tập thì dần dần làm nảy sinh nhu cầu của các em đối với tri thức khoa
học. Học tập dần dần trở thành nhu cầu không thể thiếu của các em. Muốn có
được điều này phải làm sao cho những nhu cầu được gắn liền với một trong

những mặt của hoạt động học tập hay với tất cả các mặt đó. Khi đó, những mặt
này của việc học tập sẽ biến thành các động cơ và bắt đầu thúc đẩy hoạt động
học tập tương ứng. Nó sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thường xuyên thúc đẩy các
em vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tri thức.
Trong môi trường giáo dục ở bậc đại học với sự đa dạng những thay đổi
về hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ, đòi hỏi người học luôn tích cực chủ
động làm chủ tri thức bằng nhiều cách thức, con đường khác nhau trong đó có
sử dụng thành tựu công nghệ thông tin - Mạng Internet và trong quá trình dạy và
học. Điều này cũng tác động một phần không nhỏ đến quá trình hình thành động
cơ học tập nếu xem xét Internet như là một yếu tố, một công cụ hữu hiệu trong
21


một môi trường học tập năng động và một xu thế học tập toàn cầu hóa như hiện
nay thì việc xây dựng động cơ học tập trong một môi trường học tập hiện đại là
điều cần thiết.
1.2.3.2. Hứng thú học tập trong môi trường sử dụng Internet:
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với những sự vật hiện tượng
có khả năng mang lại sự thích thú khoái cảm cho cá nhân đó. Hứng thú có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động, nó tạo cho con người một trạng thái
xúc cảm dễ chịu say mê, thích thú với công việc, thúc đẩy con người hoạt động,
làm nảy sinh khát vọng hành động sáng tạo.
Nhà tâm lí học B.M. Cheplov đã viết: “Hứng thú là động lực quan trọng
nhất trong việc nắm lấy tri thức, mở rộng học vấn làm giầu nội dung của đời
sống tâm lí con người, thiếu hứng thú hoặc hứng thú mờ nhạt cuộc sống của con
người sẽ trở nên ảm đạm và nghèo nàn”
Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với kho tàng tri
thức nhân loại, có khả năng mang lại niềm vui, sự thích thú cho cá nhân, là động
lực thúc đẩy cá nhân học tập và là nguồn gốc cơ bản của tính tích cực, tự giác
trong hoạt động học tập.

Khi cá nhân có hứng thú đối với công việc bao giờ họ cũng vui vẻ và say
sưa trong quá trình học tập của mình, tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc trong
quá trình khám phá chân trời tri thức, vì vậy họ sẽ dốc hết tâm sức của mình vào
học tập và sẽ gặt hái được những những kết quả đáng khích lệ. Rõ ràng hứng thú
có một vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của cá nhân
trong quá trình học tập cũng như trong một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó.
Trong môi trường học tập có sử dụng Internet người học thể hiện hứng
thú khát khao chiếm lĩnh tri thức không chỉ xuất phát từ động cơ học tập mà còn
bởi sự đa dạng, phong phú bởi khối lượng tri thức khổng lồ được gói gọn trong
những thao tác máy tính. Thực tế cho thấy, tìm kiếm thông tin trên mạng
Internet đang trở thành một xu hướng học tập mở thúc đẩy tính năng động ở
người học, đồng thời cũng là chất kích thích hứng thú học tập cho học sinh, sinh
viên.
22


1.2.3.3. Hành động học tập trong môi trường sử dụng Internet
Trong bất cứ nhu cầu nào cũng đều bộc lộ thông qua hệ thống các hành
động thực tế. Nhu cầu học tập sẽ dẫn đến hành động nhận thức, nhu cầu học tập
có sử dụng Internet sẽ dẫn đến hệ thống những hành động học tập tương tác với
hệ thống công nghệ mạng. thể hiện ở những hành động thao tác và những hành
động trí tuệ như tìm kiếm thông tin trên mạng, phân tích, phê phán, chọn lọc
những thông tin đó. Nếu nguồn thông tin trên mạng càng đa dạng, càng giúp
phát triển các thao tác trí tuệ. Hành động học tập của sinh viên là loại hành động
trí tuệ đích thực, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt, có sự thay
đổi về nội dung, phương pháp, điều kiện học tập ở bậc đại học trong đó có đặc
điểm nổi bật là tính chất tự học, tự nghiên cứu dưới vai trò hướng dẫn của Thầy,
vì vậy tự tìm kiếm khai thác nguồn thông tin trên Internet là một loại hành động
luôn diễn ra trong hoạt động học tập của người học nói chung và sinh viên nói
riêng trong xu thế học tập gắn với những phương tiện hiện đại như Internet.

1.2.4. Internet và vai trò của Internet trong dạy học.
1.2.4.1. Định nghĩa Internet
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Internet, có thể tham khảo hai định
nghĩa cơ bản dưới hai góc độ khác nhau:
Góc độ kỹ thuật: Internet được biết với tên gọi Net – là mạng máy tính lớn
nhất thế giới, hoặc chính xác hơn là mạng của các mạng, tức bao gồm nhiều
mạng máy tính được nối lại với nhau thông qua các phương tiện viễn thông trên
toàn thế giới như vệ tinh viễn thông, cáp quang, đường điện thoại…Khả năng
truyền tải của những phương tiện này rất lớn, có thể chứa nhiều loại thông tin
như dữ liệu, hình ảnh, tiếng nói, hình ảnh động... Một số mạng máy tính bao
gồm nhiều máy tính trung tâm (còn gọi là máy chủ - server) và nhiều máy khác
(còn gọi là máy khách hàng) nối vào nó. Các mạng khác, có quy mô lớn hơn,
bao gồm nhiều máy chủ và cho phép bất kỳ một máy tính nào trong mạng có thể
kết nối với bất kỳ máy nào khác nhằm trao đổi thông tin.
Góc độ thông tin và ứng dụng: Internet là tên của một nhóm tài nguyên
thông tin như dữ liệu, hình ảnh, hình ảnh động, phim, âm thanh,…trên khắp thế
23


×