Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đồ án ô nhiễm đất do nhiễm phèn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.83 KB, 30 trang )

Bài tiểu luận
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT DO NHIỄM PHÈN
Mở đầu
Ô nhiễm môi trường đang là mối đe dọa của tất cả loài người chúng ta. Có thể nói
rằng ‘Bà mẹ thiên nhiên đang kêu cứu chúng ta, muốn chúng ta hãy có những
hành động tốt để cứu lấy môi trường chúng ta đang sống.Và để tìm ra biên pháp tốt
nhằm bảo vệ và cứu lấy môi trường trước hết chúng ta phải tìm ra nguyên nhân
gây ra ô nhiễm môi trường. Có rất nhiều loại ô nhiễm môi trường và mỗi loại lại
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.Sau đây chúng tôi xin đưa ra một loại ô
nhiễm môi trường mà tôi nghĩ nó rất gần với chúng ta đó là ô nhiễm môi trường
đất. Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm này có từ rất lâu nhưng nó lại rất mới
so với chúng ta đó chính là ô nhiễm đất do đất bị nhiễm phèn.
I: Khái niệm ô nhiễm môi trường đất
1.Định nghĩa môi trường đất
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là
nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con
người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp
và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu
hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người giảm.
+ Thế nào nhiễm môi trường đất
Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm
bẩn môi trường đất bởi các tác nhân gây ô nhiễm. Đất bị ô nhiễm có chứa một
số độc tố, chất có hại cho cây trồng vượt quá nồng độ đã được quy định. Thí dụ
nồng độ thuốc trừ sâu, phân hóa học, kim loại nặng quá mức quy định của Tổ
chức Y tế thế giới.
+ Nguyên nhân ô nhiễm môi trường đất

1



* Tự nhiên:
- Nhiễm phèn: do nước phèn tự một nơi khác di chuyển đến. Chủ yếu là
nhiễm Fe2+, Al3+, SO42-. pH môi trường giảm gây ngộ độc cho con người trong
môi trường đó.
- Nhiễm mặn: do muối trong nước biển, nước triều hay từ các mỏ muối,
… nồng độ áp suất thẩm thấu cao gây hại sinh lí cho thực vật
- Gley hóa trong đất sinh ra nhiều chất độc cho sinh thái (CH4, N2O,
CO2, H2S. FeS,..)
* Nhân tạo:
- Chất thải công nghiệp: khai thác mỏ, sản xuất hóa chất, nhựa dẻo,
nylon, các loại thuốc nhộm, các kim loại nặng tích tụ trên lớp đất mặt làm đất
bị chai, xấu, thoái hóa không canh tác tiếp được.
- Chất thải sinh hoạt:
+ Rác và phân xả vào môi trường đất: rác gồm cành lá cây,rau, thức ăn
thừa , vải vụn , gạch ,vữa, polime, túi nylon....
+Rác sinh hoạt thường là hỗn hợp của các chất vô cơ và hữu cơ độ ẩm
cao nhiều vi khuẩn vi trùng gây bệnh.
+Nước thải sinh hoạt theo cống rãnh đổ ra mương và có thể đổ ra đồng
ruộng kéo theo phân rác và làm ô nhiễm đất
- Chất thải nông nghiệp:
+ Phân và nước tiểu động vật
+ Sử dụng dư thừa các sản phẩm hóa học như phân bón hóa học, chất
kích thích sinh trưởng, thuốc trừ sâu, trừ cỏ, tồn tại lâu trong đất, tích tụ sinh
học, thay đổi cân bằng sinh học giữa đất và cây trồng
+ Lan truyền từ môi trường đã ô nhiễm (không khí, nước), từ xác bã
thực, động vật
Để phân loại ô nhiễm môi trường đất có thể dựa theo các tác nhân gây ô
nhiễm có:
• Ô nhiễm đất do tác nhân hoá học: Bao gồm phân bón N, P (dư lượng

phân bón trong đất), thuốc trừ sâu (clo hữu cơ, DDT, lindan, aldrin, photpho
hữu cơ v.v.), chất thải công nghiệp và sinh hoạt (kim loại nặng, độ kiềm, độ
axit v.v...).
• Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: Trực khuẩn lỵ, thương hàn, các loại
ký sinh trùng (giun, sán v.v...).
• Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: Nhiệt độ (ảnh hưởng đến tốc độ phân
huỷ chất thải của sinh vật), chất phóng xạ (Uran, Thori, Sr90, I131, Cs137).
II. Ô nhiễm môi trường đất do nhiễm phèn

2


2.1.Khái niệm nhiễm phèn:
Phèn được sinh ra có thể do nguyên nhân oxy hóa phèn tiềm tàng (FeS)
tại chỗ để tạo thành acid H2SO4, chứa nhiều độc chất Al3+, Fe2+,
SO4-2; hay cũng có thề do nước phèn đi từ nơi khác gây nhiễm phèn
cho MTST đất. Quá trình thứ nhất gọi là quá trình phèn hóa (sulphate
acidification) và quá trình thứ hai là quá trình nhễm phèn
(contamination of acid sulphate). Dù nguyên nhân nào thì trong dung
dịch đất, lượng độc chất Al3+, Fe2+, SO4-2 rất cao và pH môi trường
xuống thấp, khả năng trao đổi và điệm của môi trường đất bị phá vỡ,
không thể tự làm sạch được nửa, nên cả môi trường bị ô nhiễm nặng.
Môi trường đất chỉ được coi là ô nhiễm khi toàn bộ phản ứng môi
trường pH<5 trong đó Al3+ >130 ppm, Fe2+ >300 ppm và SO4-2
>0.1%. Cây trồng và vật nuôi cũng như con người bị ảnh hưởng trầm
trọng.
2.2 Nguyên nhân:
Do quá trình tưới tiêu không hợp lý làm xuất hiện quá trình mặn hoá,
phèn hoá.


-

độc tố sản sinh trong quá trình phèn hoá:

+ trong quá trình phèn hoá do điều kiện môi trường biến đổi
từ trạng thái khử chuyển sang trạng thái oxi hoá trị số pH giảm và
đột ngột(trung bình từ 1,5 đến 2,5 đơn vị) và là nguyên nhân chính
dẫn đến sự hình thành các độc tố(là hệ quả của quá trình oxy hoá).
Khi ph ≤ 3: Fe, Al, SO 4 2 - xuất hiện nhiều và linh động. Làm
rễ cây không hút chất dinh dưỡng(Al). Fe làm cho rễ chặt không hô
hấp được. chúng ta điều biết Al có tương quan nghịc với giá trị pH. ở
nông độ 1-2 ppm đã có tác động xấu với cây trồng. khi đất bị phèn
nặng, pH thấp,Al tích trữ trong các mô rễ ngăn chặn sự kéo dài và
phân chia của tế bào, ức chế hoạt động của các enzim làm nhiễm xuc
tác cho việc tổng hợp các chất trong vách tế bào, làm cho bộ rễ của
cây cằn cỗi, long hút rụng, phát triển không bình thường và dẫn đến
chết.
Độc tố Fe(Fe 2 + , Fe 3 + ): khi pH trong đất giảm, Fe 2 + được giải
phóng ra gây độc cho cây- đặc biệt nó có thể lan truyền ra những
khu vực rộng lớn xung quanh. Theo một số tác giả Fe 2 + 150 –
200ppm đã gây độc cho lúa, đồng thời ảnh hưởng đến sự sống của
các sinh vật trong vùng và ở nồng độ Fe 2 + = 500ppm nhiều cây trồng
không sống được.

3


Độc tố H 2 S và Pyrit xuất hiện do kết quả của quá trình khử
Sunphat trong điều kiện yếm khí, đặc biệt là đất có nhiều xác sú vẹt
Theo Đeut ở nông độ (1-2)x 10 mol/m 3 H 2 S đã làm tổn

thương đến chức năng của rễ.
- Sự lan truyền nước phèn từ vùng này sang vùng khác thông
qua hệ thống kênh rạch.
-

Ngoài ra đa số phân bố ở vùng ven biển → nhiễm mặn (chua
mặn): Cl - , Na + .

Tiêu chuẩn đánh giá đất bị ô nhiễm
- hiện chưa có một phương pháp nào hoàn chỉnh để đánh giá
tình trạng mẫu đất bị ô nhiễm vì bản thân việc này rất phức
tạp.
2.2.3 Quy ước
- dựa vào nồng độ của hoá chất N 2 trong quá trình phân huỷ các hoá chất hueux cơ chứa đạm vì thì người ta có thể đánh
giá được trạng thái ô nhiễm đất.
Nhiều NH 3 : mới ô nhiễm
Nhiều NO 2 : đang bị ô nhiễm
Nhiều NO 3 : sạch (đã được cung cấp)
Chỉ số vệ sinh
Nitơ anbumin của đất (N thuộc cơ thể vi sinh vật)
CSVS=
N hữu cơ của đất
- Môi trường ô nhiễm => chỉ số vệ sinh giảm vì hoạt động sinh vật
giảm → N 2 trong anbumin giảm.
- Đất bị ô nhiễm => vi sinh vật hoạt động yếu=> N hữu cơ tăng chỉ số
vệ sinh giảm

- Trong y tế ta có:

4



Chỉ số vệ sinh
tình trạng ô nhiễm
<0,7
mạnh
0,7-0,85
trung bình
0,85-0,98
yếu
>0,98
sạch(không ô nhiễm)
2.2.4 Kết quả phân tích hàm lượng
* Hàm lượng Clo để đánh giá:
- Ít Clo: tốt


Nhiều clo: bẩn xấu

xét nghiệm vi sinh vật:
-

Chỉ tiêu về bệnh tật. dựa vào số lượng vi sinh vật mà chủ yếu
là trung bình vi sinh khuẩn (tiểu trung bình/1g đất) người ta
phân tích thấy:

-

1-2,5 triệu : đất không có vấn đề


-

>2,5 triệu: đất có vấn đề
Số lượng trứng giun:

Số trứng giun/1kg đất
<100
100 – 300
> 300

2.2.5
1. làm sạc cơ bản
2.

tiêu chuẩn đánh giá
sạch
bị bẩn
rất bẩn
Biện pháp phòng chống ô nhiễm đất

Khử những chất thải rắn
-

Rác thải gia đình
Nước thải

5


3.

4.

Tập trung và thải bỏ
Điều khiển, kiểm soát chế độ nước ở vùng đất phèn bao gồm cả
nước mặt và nước ngầm.

2.3. Độc chất trong đất phèn
Khái niệm chung về độc chất trong đất phèn
Đất phèn, xét mặt tính chất và bản chất của nó, chính là xét về độc
hại. hay nói đúng hơn là những ion gây độc cho cây và súc vật cũng
như con người.
Một chất được gọi là độc, thường đi kèm với hàm lượng của nó có
trong dung dịch đất, cây cối và trong cơ thể con người.
Wor mức độ nhất định nào đó là không độc, thậm chí lại cần thiết cho
cây trồng, nhưng mức độ tới hạn nào đó lạ độc hại. mức độ này tuỳ
thuộc vào bản chất đố, tuỳ thuộc vào môi trường nó hoạt động, dạng
nó tồn tại và đối tượng nó gây độc. có thể không độc hoặc chưa độc
cho một cây nào đó nhưng lại độc, thậm chí gây chết cho một cây
trồng khác.
Ví dụ: NH 4 là một chất dinh dưỡng cho cây trồng tuy nhiên khi hàm
lượng trong đất vượt quá 1/500 lại gây độc cho các loại cây trồng. hay
Mn + 2 có hàm lượng vượt quá 1-10 + 2 % trong tro thực vật thì gây độc
cho một số loại cây.
• Mỗi loại giống lúa và giai đoạn sinh trưởng của chúng đều có khả
năng chịu đựng mức độ độc tố khác nhau. Nhưng theo nhiều kết
quả nghiên cứu của các tác giả trong nước với nước ngầm, nhìn
chung mức độ chịu đựng các độc tố của lúa trung bình như sau:
pH
5,0 ÷ 5,5


EC
(ms / cm )
≤2 .50 0

Al3+
( ppm )
≤ 30

Fe 2 +
(p pm )
≤ 1 50 ÷2 00

SO 4 2
(p pm )
≤ 1 50 0

Bảng: mức độ chiu đựng của cây lúa đối với những độc tố trong đất
Trong đất phèn các nguyên tố sắt, nhôm, sunphat (dưới dạng Fe 2 + ,
Fe + 3 , Al 3 + , SO 4 - 2 , H + , Cl - và hợp chất của sắt với Lưu Huỳnh là
pyrite, Jarosit) luôn có hàm lượng rất cao, trên mức chịu đựng của
cây trồng rất nhiều, vì vậy gọi là các độc tố trong đất phèn.

6


III. Hiện tượng nhiễm phèn trong môi trường đất
3.1.Tác nhân hoá học
Do trong đất, trong nước vùng đất phèn nặng và trung bình xuất hiện
hàm lượng cao của các độc tố. do việc dùng nhiều phân bón hoá học,
thuốc trừ sâu, diệt cỏ và chất kích thích sinh trưởng, dẫn đến sự lan

truyền độc tố từ vùng này sang vùng khác. Ngoài ra còn do phế thải
của hoạt động công nghiệp cũng như sinh hoạt.
- do những vùng đất phèn nặng và trung bình:
Khi xuất hiện những vùng phèn nặng và trung bình, các độc tố trong
đất xuất hiện với hàm lượng cao thì chúng không chỉ xuất hiện và gây
ảnh hưởng tại những vùng đất phèn, mà do ảnh hưởng của chế độ nước
trong khu vực các độc tố sẽ lan truyền sang những khu vực lân cận.
+ Làm đất bị nhiễm chua, nhiễm mặn.
+ Tính chất hoá học của đất bị thay đổi.
+ Chất lượng nước bị thay đổi theo chiều hướng bất lợi.
+ Chất lượng nước ngầm bị nhiễm bẩn
- Do sử dụng phân bón.
Khi bón phân khoáng chỉ có 50% được cây trồng sử dụng. Lượng
còn lại tham gia vào vấn đề gây ô nhiễm môi trường đất.
+ Biến đổi thành phần tính chất của đất nếu không sử dụng
hợp lý.
+ Làm chua đất
+ Biến đổi cân bằng dinh dưỡng đất và cây trồng.
+ Một lượng lớn xâm nhập vào nguồn nước, vào khí quyển
- do thuốc trừ sâu, diệt cỏ.
+ Hay gây nên hiện tượng “ phóng đại sinh học”
Tác động mạnh mẽ nhất đến môi trường đất
- Do chứa chất thải công nghiệp, sinh hoạt.
+ Chứa sản phẩm độc hại ở dạng rắn. nhiều nghiên cứu gần
đây đã chứng minh 50% chất thải công nghiệp là rắn: than, bụi, sỉ,
quặng…. Từ đó ước tính 15% gây độc hại và nguy hiểm cho con
người và đất đai. Chất thải sinh hoạt ở dạng rắn cũng chiếm tỷ trọng
lớn.

7



+ Chất thải công nghiệp là các hoá chất kim loại nặng như:
Cu, Pb, Hg, Sđ…. Thường chứa nhiều trong rác phế thải của ngành
luyện kim màu, sản xuất ô tô.
+ Trong đất, tính trị độc và gây độc của các kim loại nặng
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: ooxxy hoá khử, Ph, số lượng nước và
phức chất mà nó hoà tan các kim loại nặng.
3.2 Tác nhân sinh học
Sự ô nhiễm này xuất hiện do những phương pháp đổ bỏ chất thỉa mất
vệ sinh, loại tưới, thải sinh hoạt, bón trực tiếp cho cây, cho đất. Sử
dụng phân không đúng kĩ thuật, vì trong đó chứa nhiều vi khuẩn gây
bệnh → gây nên hậu quả cho con người, gia súc.
Nhiều loại vi khuẩn trong đất phèn lan truyền theo nước gây nên một
số bệnh đối với nhân dân vùng đất phèn.
3.3Tác nhân vật lý
Ô nhiễm nhiệt: khi nhiệt độ tăng gây ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật
trong đất, ảnh hưởng đến phân gải chất hữu cơ. Trong nhiều trường
hợp ảnh hưởng đến chất dinh dưỡng. Nhiệt độ tăng làm giảm lượng D 2
hoà tan trong dung dịch đất dẫn đến thế cân bằng sang xu thế khử. Quá
trình phân huỷ chất hữu cơ sang kị khí, sinhra sản phẩm độc: CH 4 ,
NH 3 , H 2 S và các andehit.
+ quặng thải bỏ của các nàh máy nhiệt điện, luyện kim.
+ Đốt rẫy, cháy rừng.
Các tác nhân phóng xạ:
+ phế tahir của các trung tâm nghiên cứu, bệnh viện.
+ để đo người ta có hệ số cô đặc: Tỉ lệ nồng đọ chất phóng
xạ tích huỷ trong cơ thể và lượng đó trong môi trường
4. Nguồn gốc và quá trình hình thành đất phèn
4.1Nguồn gốc đất phèn

Nghiên cứu đất phèn ở miền bắc Việt Nam, Fritlan cho rắng đất phèn giàu sunfat
và sunfat là do lưu quỳnh (S) trong nước lợ và không liên quan dến sú vẹt.
Qua các thí nghiệm, kết hợp với điều tra thực tế trong dịp lập bản đồ đất cho miền
Bắc việt Nam, Fritlan đã giải thích sự hình thành đất phèn: S có trong nước biển
theo thủy triều và vùng nước lợ. còn sắt, nhôm (Fe,Al) do sự phân tích củ keo sắt
và sự rủa trôi của các dòng chảy, trầm tích ờ vùng nước lợ, cùng với S lắng đọng
trong phù sa, tạo nên phèn. Quan điểm này chua giải thích đượcnhững nơi có chế

8


độ nước của các con sông giống nhau, nhưng có vùng tạo phèn, có vùng không tạo
phèn..
Moorman và những nơi cộng sữ cho rằng sự hình thành đất phèn xuất hiện ở vùng
nước lợ, có thủy triều xâm nhập và có sự tham gia của vi sinh vật với các điều kiện
và các giai đoạn sau:
- Ion SO42- bị khử trong điều kiện thiếu oxy, có sự tham gia của vi sinh vật
yếm khí. Trong giai đoạn này cần phải có đầy đủ chất hữu cơ để làm thức ăn cho vi
sinh vật yếm khí Thibacillus…
- Tiếp đó phản ứng giũa sunphure H2S với sắt có trong đất để tạo thành
FeSO4 và H2SO4 theo phản ứng:
2H2O + 2FeS2 + 7O2
2FeSO4 +2H2SO4
- Sau khi đã co acid H2SO4 và FeSO4, trong điều kiện có đủ oxy và vi sinh
vật, sunphat sắt III được hình thành:
2FeSO4 + H2SO4 + O
Fe2(SO4)3 +H2O
Trong đất xuất hiện từng vệt màu vàng trấu, chính là màu vàng của Fe2(SO4)3
Theo tác giả ở đây cũng có phản ứng thuận nghịch :
Fe2(SO4)3 + 2H2O

2FeSO4(OH) + H2O
Acid sunphuaric mới được tạo thành gây chua cho đất và sẽ phản ứng mạnh với
các khoáng sét để tạo thành sunphat nhôm, natri và kali theo phương trình phản
ứng sau:
Al2O3SiO2 + 3H2SO4
Al2(SO4)3 + Silic hydroxyt
Thực tế trong đất phèn không chỉ có các hợp chất vô cơ mà còn có các chất hữu cơ
phèn, hay hữu – vô cơ, mà ở đây tác giả chỉ mới nói đơn thuần là các phản ứng của
các hợp chất vô cơ.
Cũng tương tự như vậy, Van Rees (1972) cho rằng có ba điều kiện để hình thành
đất phèn:
+ có điều kiện khử SO42- có nguồn gốc từ nước biển và đất trầm tích,đễ tạo
thành sunphua sắt và sunphua khác.
+ sau đó ấn có môi trướng oxy hóa để oxy hóa sunphua sắt tạo ra H 2SO4
,Al2(SO4)3 , FeSO4 . đất trở nên chua, hóa phèn.
+ nếu trong đấtn có CaCO3 thì phản ứng tiếp tục theo một chiều hướng sau:
2CaCO3 + H2SO4 CaSO4 .2H2O + 2CO2
+
Khi đó Na , Mg+ đã hập thụ sẵn trong nước ( nước lợ chứa nhiều Na +, Mg+ ) ở môi
trường nước lợ sẽ bị Ca+ thay thế làm đất tốt hơn và không trở nên phèn nữa.
Gần đây, L.J.Pons và N.Van Breeman trong bài “Acid sunphat soil and Rice” trình
bày tại hội nghị đất và lúa. (1977) tại viện IRRI đã phát triển sâu hơn về nguồn gốc
đất phèn trên quan điểm cua Moorman; tác giả xác định them về nguồn gốc của hai
loại đất phèn tiềm tang và đất phèn cố định:

9


Với đất phèn tiềm tàng: tác giả cho rẳng: sự hình thành loại đất phèn náy bao
gồm sự tạo thành khoáng pyrite, khoáng vật chiếm 2-10% trong đất. sự lắng tụ của

pyrite được tao thành bởi sự khử của sunphat thành sunphit, dưới tác dụng của vi
sinh vật sau đó sunphit sẽ bị oxy hóa từng phần thành nguyên tố sunphua. Sự tác
dộng qua lại giũa các ion sắt II và sắt III với sinphit nguyên tố sunphua cũng có sự
tham gia của vi sinh vật. như vậy, sự tạo thành sunphit và pyric cần có: sunphat,
sắt, chất hữu cơ đã phân hủy, vi khuẩn có khả năng sunphat trong điều kiện yếm
khí và khoáng khí xảy ra luân phiên nhau qua không gian và thời gian.dĩ nhiên,
môi trường đất và nước mặn (hoặc nhiễm phèn), chứa dồi dào lượng sunphat và vi
khuẩn khử sunphat. Tương tự như vậy, những lượng sét trẩm tích trong các vùng
đầm lầy có thủy triều lên xuống có chúa rất nhiều hạt mịn oxi sắt để tạo thành 26% pyrite. Nhưng những vùng có than bùn hoặc cát thạch anh thì chất sắt rất ít.
Trong biển nhiệt đới, các chất lắng tụ thường chứa rất ít c hất hữu cơ hữu dụng cho
sự tạo thành pyrit. Nhưng dưới những rừng đước dày đặc mọc trên đất sình lầy lại
có rất nhiều chất hữu cơ. Do đó tại những vùng đước lầy lội, vật liệu hữu cơ và các
chất vật liệu khác tạo pyrite có đầy đủ. ở đây mức thủy triều cao hay thấp có ảnh
hưởng đến thời gian thoáng khí lâu hay mau(nghĩa là ảnh hưởng đến sự hình thành
phèn). Pyrite được hình thành và tích tụ nhiều ờ vùng kênh rạch chằng chịt vì ảnh
hưởng của thủy triều rất lớn. những vùng đó thường gặp ở châu á, nơi có rừng dừa
nước mọc dày. Những vùng có cây Brugnicra hay rừng Avicenina(mắm) và ít kênh
rạch hơn thì ít xuất hiện pyrite. Tác giả còn cho biết them: đối với những nước mà
mực nước thủy triều chênh lệch ít và nơi không có nước biển tràn lên trong niên
đại vừa qua thì lớp pyrite mỏng. đất dọc theo bờ biển mới bồi sở dĩ chứa ít pyrit, có
lẽ phần lớn vì chưa đủ thời gian cho pyrite lắng tụ. bởi vì muốn tạo được 1% pyrit
trong đất phải mất từ 50-1000 năm. Nếu bờ biển được bồi lên nhanh chóng thì
rừng đước cũng phát triền theo sau đó, sau một thời gian ngắn, cho nên sự tạo
thành pyrite cũng gắn theo. Điều này được chứng minh ở vùng đất bồi đáp nhanh
của sông Cửu Long và một số chi nhánh của sông Đồng Nai.
Một tác giả khác, các tác giả đã đưa ra một điều kiện cho sự hình thành phèn
là phụ thuộc vào lượng CaCO3.
Về nguồn gốc của đất phèn hiện tại:
Theo tác giả: sự hình thành đất phèn hiện tại cũng phải có đất phèn tiểm tàng. Khi
đất phèn tiềm tàng thoáng khí trong một thời gian lâu, khi mà mực nước ngậm

giảm xuống dưới lớp đất chứa pyrite trong nhiều tuần lễ. hein65 tượng này xảy ra
một cách từ từ trong quá trình tự nhiện do sự nâng lên của mặt đất, hay bồi đắp của
bờ biển, hoặc sự hạ thấp của thủy triều hoặc xảy ra một cách đột ngột do đắp bờ
hoặc làm khô cạn nước. nghĩa là phải có quá trình oxy hoa xảy ra, và quá trình đó
được tiến hành khi lớp đất trên kho, nứt nẻ, lớp pyrite vẫn còn ẩm ướt và bị oxy

10


xâm nhập, thì những hat pyrite nhỏ li ti, sẽ bị oxy hóa thành sunphat sắt II (rễ hòa
tan) và acid sunphatric. Phản ứng chung như sau:
FeS2 + 7/2O2 + H2O
Fe2+ +2SO4 +2H +
Phản ứng sẽ được tăng nhanh khi có sự tham gia của vi khuẩn Thiobacillus và
những vi khuẩn có thể sống được ở điểu kiện pH <=2, chúng đã lấy năng lượng để
sinh sống từ sự oxy hóa khử. Vi khuẩn Thiobacillus, Ferrocidans đã tham gia trong
quá trình chuyển sắt II thành sắt III để tạo thành phèn.
Fe2+ +SO42- + 1/4O2 +5/2H2O
Fe(OH)3 + 2SO42Fe2+ +SO42- + 1/4O2 +5/2H2O +1/3K+
1/3KFe(SO4)2(OH)6 +1/3SO42Sự xuất hiện của sắt Fe3+ dưới dạng KFe3(SO4) 2(OH)6 đã làm cho dất có màu vàng
đặc trưng. Nếu trong điều kiện ẩm ướt và có không khí thì sự chuyển biến xảy ra
trong vòng 7- 15 ngày ở trong phòng thí nghiệm và vài tháng ở thực địa .
Khi đã xuất hiện tấng vàng (tầng Jarosit) tức là đất phèn đã chuyển từ phèn tiềm
tàng sang phen hiện tại.
Có nhiều quan điểm trình bày về nguyên nhân, quá trình hình thành đất phèn, một
cách tổng quát có thề nói rằng: đất phèn được hình thành ở những vùng nước lợ
hoặc vùng biển cũ có thủy triều xâm nhập với sự tham gia của một số loại vi sinh
vật yếm khí trong các điều kiện nhất định về môi trường, thời gian và hàm lượng
chất hữu cơ trong đất. hay nói ngắn gọn đất phèn được hình thành do sản phẩm bồi
tụ phù sa với vật liệu sinh phèn (xác sinh vật chứa lưu huỳnh, trong điều kiện nước

lợ, hoặc nước mặn).
4.2 Quá trình hình thành đất phèn
Quá trình hình thành đất phèn rất phức tạp, đặc biệt quá trình diễn biến của nó, bời
vì: thực tế trong đất phèn không chỉ có các hợp chất vô cơ mà còn có những hợp
chất hữu cơ phèn,hay hữ cơ – vô cơ. Các phản ứng tạo thành đất phèn không đơn
thuần là phản ứng của các lượng chất vô cơ mà nó còn là phản ứng cùa các lượng
chất hữu cơ, có sự tham gia tích cực của một số loại vi sinh vật yếm khí và háo khí.
Thực tế trong quá trình hình thành đất phèn các phàn ứng vô cơ luôn tồn tại và liên
tục, nhưng xảy ra rất chậm chạp so với quá trình sinh học.
Nói chung quá trình diễn biến và sơ đồ tạo thành đất phèn có thể thông qua các
bước chính như sau:
+lưu huỳnh được tích tụ trong đất dưới dạng SO42-, trong điều kiện yếm khí
(thiếu oxy) và có đủ chất hữu cơ sẽ tạo thành sunphure.
SO42- + CH2O
2HCO3 +H2S
+ do đất chứa nhiều sắt, trong điều kiện yếm khí sunphit và pyrite được tạo
thành
3H2S +2Fe(OH)3 2FeS +S + 6H2S
Khi tháo nước mặt và hạ thấp nước ngầm xuống dưới tầng pyrite, bằng con đường
tự nhiên hay nhận tạo, các quá trình oxy hóa bắt đầu xảy ra.

11


Quá trình oxy hóa FeS
2FeS +9/2 O 2 +2H2O
Fe2O3 + 2H2SO4
Quá trình oxy hóa FeS2
2FeS2 + 7 O 2 +2H2O
2Fe2SO4+ 2 Fe2SO4

+ Đống thời các sunphat nhôm, sunphat sắt cũng được tạo thành:
Sau khi Fe2SO4 và Fe2SO4 được hình thành, nếu tiếp tục oxy hóa thì sunphat sắt III
và sunphat nhôm được hình thành như sau:
2Fe2SO4+ 2 Fe2SO4 + O2
2Fe(SO4)3 + 2H2O
Fe(SO4)3 + 6H2O
Fe(OH)3 + 3H2SO4
+Jarosit được hình thành
Fe(SO4) +1/4O2 +3/2H2O +1/3K+
1/3 KFe3(SO4)2(OH)6 + H+ + 1/3 SO2-4
Khi pH trong đất tăng thì phản ứng trên xảy ra theo chiều ngược lại:
KFe3(SO4)2(OH)6
3FeO.OH +K+ 3H+ +2SO24.3 Những nhân tố cấu thành chất phèn
Có nhiều tác giả, nhiều học thuyết và trường phái nói về nguồn gốc của đất phèn.
Nhưng những nhân tố cấu thành đất phèn ở đồng bằng nước ta có thể nêu ra như
sau:
- Sự có mặt với số lượng lớn của lưu huỳnh (S) và hợp chất của lưu huỳnh
2SO4 , H2S, FeS, FeS2 ở trong đất. S được tạo thành trong đất từ hai con đường:
+ con đường thứ nhất: S, SO42- hay các dạng khác của S được tích lũy từ xác
dộng vật đặc biệt là thảm thực vật rừng ngập mặn phổ biến là các loại thực vật
Phitophova va Avicermia (các loại sú vẹt). Rừng sú ẹt trong điều kiện nước biển,
nước lợ, đã tích lũy nhiều S trong cây, trong rễ, nhờ một áp suất thẩm thấu 5-6 at
và bộ rễ khỏe và hệ thống rễ lớn. Khi rừng sú vẹt bị phù sa vùi lấp, quá trình phân
giải trong điều kiện yếm khí xảy ra có sự tham gia của vi khuẩn Closdium,
Thiobacillus, Thidans để tạo ra S, rồi các hợp chất của nó là H2S, FeS, FeS2 .
Tổ cải tạo đất viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp việt nam ngâm cây sú vẹt 100
ngày, tăng từ 0% lên đến 0,72%.điều này chứng tỏ vai trò của cây sú vẹt rất lớn
trong nguồn gốc sing phèn.
+ con đường thứ hai của sự tạo thành SO 42- hay S là trong mẫu chất trong
nước biển. nước biển x âm nhập vào đất theo nước ngầm hoặc nước mặt. hai con

đường này xảy ra liên tục trong nhiều năm.
- Trong đất có đầy đủ chất hữu cơ làm nguồn thức ăn cho các vi sinh vật
yếm khí (Closdium, Thiobacillus, Thidans) là nơi tích lũy các dạng lưu huỳnh
trong đất. ớ những loại đất có hàm lượng chất hữu cơ nhỏ hơn 1% thì có khả năng
hình thành đất phèn.

12


- Sự có mặt với số lượng lớn của sắt hoặc nhôm. Nước ta là một nước nhiệt
đới, quá trình Feralit hóa xảy ra mạnh do đó sắt và nhôm thường có số lượng lớn
do quá trình phân hủy keo sét, rửa trôi vá tích tụ ở các vùng rừng sú vẹt, vùng biển
cạn có hoặc không có sú vẹt.
-Trong đất có hàm lượng rất nhỏ của canxi, chất có thể trung hòa acid
sulfuaic (H2SO4) được hình thành trong quá trình oxy háo pyrit. Nếu trong đất có
hàm lượng của canxi thì quá trình oxy hóa sẽ xảy ra theo chiều hướng khác, đất có
thể không hình thành đất phèn.
-Đất thường xuyên thay đổi từ trạng thái khử sang oxy hóa và ngược lại do
ảnh hưởng của chế độ triều, chế độ nước vá chế độ khí hậu trong vùng.
-Trồng trọt, quản lý khai thác tùy tiện, không khoa học
4.4 Hình thái phẫu diện
- 0 – 1 cm (Ho), lớp thảm mục thô, chưa phân giải, bao gồm thân, lá,
cành, rễ cây 53 tràm khô.
- 1 – 30 cm (H1), Tầng hữu cơ bán phân giải, nhiều rễ cây tràm phân
bố, hàm lượng mùn 63 – 90 % có màu nâu đen.
- 30 – 72 cm (H2), Lớp than bùn thô, hàm lượng mùn 65 – 85 % than
bùn có màu đen.
- 72 – 100 cm (H3), Lớp than bùn mịn, hàm lượng mùn 35 – 55 % lẫn
sét, đất có màu đen hoặc đen đậm.
- 100 – 150 cm (Cp), tầng sinh phèn, sét pha thịt, có màu xám đen, rất

ẩm ướt, vẫn còn lẫn than bùn, đất bị glây mạnh. Mùa khô độ sâu của
mực nước ngầm xuất hiện 130 cm cách mặt đất.
4.5 Đặc điểm hóa tính
Độ dày của tầng than bùn thường từ 40 – 100 cm có nơi tới trên 100
cm.
Hàm lượng chất hữu cơ trong tầng than bùn biến động từ 30 – 90 %.
Tỷ lệ C/N của than bùn rất cao tới 40 – 60, biểu hiện than bùn là chất
hữu cơ phân giải rất kém và nghèo đạm, nhưng đất vẫn thuộc loại giàu
N %, 0,4 – 0,8 %. Than bùn có phản ứng chua: pH 4,0 – 4,8.
Sự chênh lệch pH giữa than bùn tươi và than bùn khô không lớn (than
bùn tươi pH= 4,5. Khô pH = 4,0). Tầng sinh phèn (Cp) nằm dưới tầng
than bùn, có độ chênh lệch pH giữa đất tươi và đất khô tương đối
nhiều. Hàm lượng SO3 % tổng số ≥ 0,70 %, ở tầng Cp hàm lượng SO3
% ≥ 1,4. Hàm lượng SO4= % hoà tan tương đối cao 0,11 – 0,25 %, do

13


trong lá cây tràm có nhiều lưu huỳnh S. Hàm lượng cation trao đổi khá
cao 16 – 23 lđl/100g đất. Độ bão hoà bazơ đạt mức trung bình (45 – 58
%). Đặc biệt ở đất than bùn phèn tiềm tàng không xuất hiện tầng Bj có
màu vàng rơm của khoáng jarosite trong phẫu diện đất.
5. Phân bố đất phèn
5.1 Phân bố đất phèn trên thế giới
Trên thế giới có khoảng 12,6 triệu ha đất phèn, chủ yếu xuất hiện ở các vùng ven
biển nhiệt đới hay cận nhiệt đới, gồm các vùng : Nam Nhật Bản, Nam Triều Tiên,
Nam ấn Độ, Thái Lan, Băng la đét, Đông và Nam Malayxia, Pakistan, Inđonexia,
Đông Nam của Đông- Timo, Miến điện, việt Nam. Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở :
Guianas, Venezuela, Braxin, Achentina, Newsiland và những vùng ven biển thuộc
lưu vực Đông Amazon, một số nước Đông Phi và Tây Phi. Một số đất phèn cũng

được tìm thấy ở Hà Lan.
5.2 Phân bố đất phèn ở việt nam
Riêng ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ha đất phèn chiếm gần 16% diện tích
đất phèn trên thế giới, chiếm khoảng 30% diện tích đất canh tác của Việt Nam.
Diện tích đất phèn phân bổ chủ yếu ở hai vùng đồng bằng, và một ít ở ven biển
miền trung.
ở miền Bắc có khoảng 200.000ha đất phèn, phân bố ở Hải Phòng, Quảng Ninh,
Thái Bình, Nam hà, Hải dương và một số diện tích ở ven biển miền trung.
ở miền Nam có khoảng 1,8 triệu ha đất phèn, phân bố ở miền tây( Đồng bằng song
Cửu Long (ĐBSCL) và miền Đông Nam Bộ)
• Đất ở miền đông Nam bộ: sự xuất hiện đất phèn ở miền đông chủ yếu ở
dạng cục bộ, phần lớn ở dạng tiềm tàng, một phần nhỏ ở dạng cố định và
một phần đang chuyển hóa. Đất phèn đuộc phân bố ở các tỉnh Tây Ninh,
Bình Dương, Đồng Nai và ở thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là vùng Lê
Minh Xuân thành phố HCM. Theo số liệu của viện quy hoạch và thiết kế
nông nghiệp, diện tích đất phèn ở miền ĐNB có thể tham khảo như sau:
 Đất phèn nhiều: 20.400 ha
 Đất phèn chua nhiều: 14.000 ha
 Đất phèn ít: 36.570 ha
 Đất phèn chua ít: 19.182 ha
• Đất phèn ở miền Tây nam Bộ: hầu hết đất phèn ở Việt Nam tập trung ở
miền Tây Nam Bộ. ở ĐBSCL. Trừ một số diện tích nằm kẹp giữa sông Tiền,
sông Hậu và hai ven bờ sông không bị phèn, phần còn lại của ĐBSCL đều là
đất phèn, đất mặn ở 13 tỉnh thuộc ĐBSCL, ta đều gặp đất phèn.
Tổng diện tích

14


 Phèn nhiều: 272.234

 Phen trung bình: 597.689
 Phèn mặn: 772.292

Ranh giới dất phèn rất khó xác định chính xác, nhưng sơ bộ có thể phân ra một số
vùng chính sau:
 Vùng phèn đồng tháp mười:
Vùng đồng tháp mười là phần dưới của vùng ngập lũ kéo dài dọc bờ trái sông Tiền
từ Kongpongcham trở xuống QL1A- phía Nam và sông Vàm Cỏ Đông-phía Đông.
Diện tích toàn vùng trũng là 991.000 ha, trong đó phần thượng lưu nằm trên đất
Campuchia là 288.000 ha, phần Đồng Tháp mười chiếm 703.000 ha.
Vùng trũng được ngăn cách với sông chính bởi các dòng ven sông (dải đất cao ven
sông tự nhiên) kéo dài từ Kongpongcham- nơi địa hình cao từ 10-15m, dến Cao
Lãnh còn lại khoảng 2,5-3,0m. mặt giồng thượng lưu rộng hang ngàn mét và thu
hẹp dần về phía hạ lưu có nơi chỉ còn vài trăm mét. Sau giồng là những vùng
trũng.
Đồng Tháp mười từ biên giới trở về xuôi có dạng hình long máng với các thành
cao 3 phía: vùng phù sa cổ Hồng Ngự- Tân Hồng (phía Bắc); các giải đất cao ven
sông (phía Tây) và vùng dất xám Vĩnh Hưng- Mộc Hóa (phía Dông). Dịa hình thấp
d ần theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, nơi thấp nhất là vùng Bắc Dông- BoBo.
Trước đây khu vực giữa đồng tháp mười là vùng ngập nước quanh năm, trong mùa
lũ nhiều nơi ngập sâu tới 3-5m, khả năng thoát lũ chậm, không bị ảnh hưởng nhiều
nước mặn.
Đồng tháp mười là ổ phèn lớn nhất ĐBSCL,khoãng 40% diện tích đất toàn vùng là
đất phèn. Đất phèn ở các dạng tiềm tàng, hoạt động và đang chuyển hóa. Trong đất
ít hoặc mới xuất hiện tầng Jarosite. Diện tích đất phèn nặng phân bố chủ yếu ở
vùng Bắc Đông, BoBo, Chợ Bưng, Tràm Chim, nơi giao thoa của các dòng triều và
lũ ở những vùng này vào đầu mùa mưa (5,6,7,8) đường dẳng trị chua (pH=4)
chiếm một phần diện tích lớn trong vùng, gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất, môi
trường và đời sống của nhân dân.
 Vung phèn Tứ giác Long Xuyên:

Có dạng một tứ giác, được giới hạn bởi sông Hậu ở phía đông, Biển Tây ở phía
Tây, biên giới Campuchia ở phía Bắc, phía Nam là kênh cái sắn. bao gồm diện tích
của hai tỉnh Kiên Giang va An Giang, gồm các huyện An Biên, Hà Tiên, Bảy Núi,
Hòn Đất… tổng diện tích khoảng 490.000 ha. Đây là vùng thường bị ngập nước
trong mùa lũ với chiều sâu ngập trung bình 1,5-1,6m. ảnh hưởng chế độ nhật triều
và do gần biển nên việc tiêu nước thuận lợi hơn vùng Đồng Tháp mười. trước đây
là vùng không có nước ngọt và cạn kiệt trong mùa khô đất ở đây đã chuyển hóa
thành phèn hiện tại, tầng Jarosite xuất hiện khá rõ. Chương trình thoát lũ ra biển
Tây đã có tác động rất tích cực trong việc cải tạo đất phèn. Nhiều vùng phèn rộng

15


lớn của Tứ giác Long Xuyên đã được cải tạo, 30.000 ha hoang hoa do bị phèn
nặng, phải bán cho công ty Kiên Tai2d9e63 trồng bạch đàn, nay đã được cải tạo và
gieo trồng được 2 vụ.
 Vùng đất phèn Minh Hải:
trừ dải đất nằm dọc biển Đông và Vịnh Thái Lan, đa số đất phèn ở đây nằm dưới
dạng than bùn, phèn nhiễm mặn, phèn hiện tại. sự xuất hiện của các loài đất phènở
đây rất phức tạp do ảnh hưởng của hai chế độ triều khác nhau của biện Đông ( chế
độ bán nhật triều) và vịnh thái Lan (chế độ nhật triều) là vùng không có nước ngọt
vào mùa khô. Chế dộ triều và chế độ nước ngọt đã có tác dộng lớn đến sự phân bố
và tính chất của đất phèn vùng này. Phèn than bùn phân bố ở rừng tram của u Minh
Thượng, U Minh Hạ,. ngoài ra xen kẽ với phèn tiềm tang dưới rừng đước, rừng
tram.
 Vùng đất phèn Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Cần Thơ và Hậu
Giang:
Đây là vùng phèn trung bình,phèn mặn xen kẽ giữa các dải phù sat rung tính hoặc
gần trung tính. Trừ diện tích gần biển bị ảnh hưởng thủy triều và nước mặn, phần
lớn diện tích có nguồn nước ngọt dồi dào, việc tiêu thoát cũng thuận lợi, đây là

vùng ngập nông và không bị ngập lũ.
6. Phân loại đất phèn
Đất phèn khi phân bố ở nơi đất thấp, gần biển, thường bị nhiễm nước
mặn, qua các hệ thống kênh rạch và các mạch nước ngầm trong mùa
khô. Đặc điểm các loại đất phèn được sử dụng trong ngành Như vậy
các loại đất phèn tập trung chủ yếu ở miền Đông Nam bộ và đồng bằng
sông Cửu Long chiếm tới 2.025.216 ha (chiếm 94,6 % tổng diện tích
đất phèn trong cả nước). Riêng đồng bằng sông Cửu Long chiếm tới
hơn 88 % diện tích đất phèn trong cả nước.
Đến năm 1996, nhóm biên tập bản đồ đất tỷ lệ 1/1.000.000 theo phân
loại định lượng của FAO – UNESCO thì:
- Nhóm đất phèn (Thionic Fluvisols) có diện tích 1.863.128 ha và được
chia thành 2 đơn vị:
• Đất phèn tiềm tàng (Proto – thionic Gleysols) có diện tích 652.244
ha (bao gồm cả đất phèn tiềm tàng dưới rừng ngập mặn).

Đất phèn hoạt động (Orthi – thionic Fluvisols) có diện tích
1.210.884 ha.
- Và diện tích đất phèn ở Việt Nam tập trung nhiều nhất ở đồng bằng
sông Cửu Long (Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và bán đảo Cà
Mau). Trong phân loại đất phèn, thì nhóm đất phèn mà chúng ta sử
dụng trên bản đồ theo phân loại của FAO – UNESCO chỉ là cấp đơn vị

16


(soil units) nằm trong 3 nhóm đất: Đất phù sa (Fluvisols), Đất glây
(Gleysols) và nhóm đất than bùn (Histosols), như vậy sẽ có các đơn vị
đất phèn sau đây:
- Đất phù sa phèn (Thionic Fluvisols)

- Đất glây phèn (Thionic Gleysols)
- Đất than bùn phèn (Thionic Histosols)
6.1 Phân loại của nhân dân vùng đất phèn.
Nhân dân vùng đất phèn Nam Bộ xếp loại đất phèn theo kinh nghiệm sản xuất và
đặt trưng hình thaiscuar đất phèn hoặc theo phẫu diện đất phèn.
a.Phèn nóng: chủ yếu do sunphat sắt FeSO4, Fe2(SO4)3 tạo thành,ít nhôm và
sunphats nhôm.Mức độ độc hại loại phèn ít hơn so với phèn nhôm.
Trên mặt nước ở ruộng, ở kênh thường có một lớp váng vàng.váng vàng này
dính vào tay chân khi lám ruộng, thuongf gây ngứa và dễ gây mục quần áo.
b.Phèn lạnh: chủ yếu do sunphat nhôm tạo nên,loại này độc hại hơn phèn
nóng.Nước trên ruộng và trong kênh mương ở khu vực đất phèn này trong suốt
(nhìn thấy đáy kênh mương). ở những vùng này, trong vụ hè thu,nếu không đủ
nước tưới dễ bị “xi” phèn gây chết lúa và cây cối.
Các loại đọng thực vật rất khó sống và phát triển ở vùng này.
c.Phèn đỏ: một số vùng ở miền tây gọi là phèn đỏ, về bản chất phèn đỏcũng như
phèn nóng, do Sunphat sắt và Oxyt sắt ngâm nước gây nên. Nước trên ruộng
thường có váng vàng đỏ ành trên mặt.mức độ độc hại khong cao.
d.Phèn trắng: về bản chất phèn trắng giống như phèn lạnh, do Sunphats nhôm gây
nên.ở những vùng phèn nhiều và thiếu nước vào cuối mùa khô ở những vùng đất
phèn xuất hiênj loại muối này trên mặt đất vào cuối mùa khô tức là đã đạt đến đỉnh
cao của sự độc hại, vào những trận mưa đầu mùa nếu lượng mưa rửa trôi và đưa
muối lớn để rửa trôi và đưa muối này ra những kênh lớn hoăc thấm xuống tầng sâu
mà đọng lại ở 1 số vùng trũng, thấp thì nước rất trong, nhưng rất độc hại. Trâu bò,
lơn gà uống phải nước này dễ bị chướng bụng và có thể dẫn đến tử vong.
ePhèn đen: những vùng phèn có phần hữu cơ lẫn lộn với hợp chất phèn thường
gặp ở những vùng trũng hoặc vùng rừng U minh. Phẫu diện thường có màu
đen.mức đọ phèn phụ thuộc vào môi trường nuowcfs xung quanh và đặc điển vệ
nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Diện tích loại đất này không lớn, mức độ
phèn cũng không như loại phèn trắng và phèn lạnh.


17


6.2 Phân loại theo nam việt nam
Sự phân loại này dựa vào hình thái phẫu diện, tính chất lý, hóa học của đất, địa
hình, địa mạo, phát sinh học, thảm thực vật, môi trường và năng suất cây trồng.
nhìn chung nhóm đất phèn được chia ra các loại sau: laoi5 đất phèn hoạt động, loại
đất phèn tiềm tàng, loại đất phèn đang chuyển hóa, loại đất phèn than bùn.
Trong loại đất phèn hiện tại được chia ra:
+đất phèn nhiều
+đất phèn trung bình và ít
+đất phèn mặn
Trong loại đất phèn tiềm tàng được chia:
+đất phèn có tầng an toàn lớn hơn 50 cm
+ đất phèn có tầng an toàn lớn hơn 30-50 cm
+ đất phèn có tầng an toàn lớn hơn 30 cm
+đất phèn có tầng hữu cơ một phẫu diện.
Với mục đích nêu mức độ an toàn trong quá trình khai thác sữ dụng, người
ta phân đất phèn tiềm tàng theo chiều dày lớp đất che phủ trên tầng sinh phèn và
gọi là chiều dày của tầng an toàn. Chiều dày tầng an toàn càng mỏng thì càng an
toàn trong quá trình khai thác,sử dụng. đất phèn tiềm tàng rất rễ chuyển hoàn thành
phèn hoạt hoạt.
Loại đất đang chuyển hóa: thông thường chúng ta hiểu là đang chuyển hóa từ phèn
tiềm tàng sang phèn hiện tại từ phèn ít sang phèn nhiều, song cũng cần phải hiểu
them cả chiều ngược của nó tức là đất phèn đang chuyển hóa từ phèn ít sang không
phèn, loại này theo Phan Liêu gọi là Đất phèn thủy ngân
a)loại đât phèn hiện tại
danh từ đất phèn hiện tại, ở nước ta còn được gọi là đất phèn hoạt động chỉ
là một khái niệm tương đối, để cho chúng ta hiểu rằng loại đất phèn này đang ở
trạng thái hoạt động gây chua, nhưng tương đối ổn định về mặt hàm lượng các độc

tố. thường ở những vùng đã canh tác lâu đời hoặc ngập về mùa mưa, khô hạn về
mùa khô, mực nước lên xuống theo thời gian và theo mùa vụ. thực vật chỉ thị là
năng ngọt, năng kim, bàng đưng, dứa dại, cú ma, cú cơm.
Trong loại đất phèn hiện tại được chia làm 3 loại như sau:
• Loại phèn ít và trung bình.
Hiện nay ranh giới phèn ít và trung bình trong thực tế xác định rất khó khăn nên
vẫn xác định là một loại: loại này thường xuất hiện ở địa hình tương đối cao
hơn vùng phèn nhiều,gần các sông gạch tự nhiên, có độ thoát nước nhanh
hơn,nằm ở vùng đất phèn nhiều và vùng đất phù sa mới trung tính. Ví dụ những
vùng đất gần sông tiên,sông Hậu,nhưng cách các con sông này một khỏa đất
phù sa gần trung tính,được bồi hằng năm. Như ở Cai Lậy,Cái Bè,Lấp Vò, Châu
Thành A, Châu Thành B, Ô Môn, kế Sách( Hậu Giang , Hồng Dân (Bạc Liêu),

18


Châu Thành ( Vĩnh Long) … ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh có các
vùng phèn của Tân Thuận (Nhà Bè), Hóc Môn , Thành Lộc, An Phú, An Lạc,
tân tạo(bình chánh).
-phẫu diện đặc trưng của vùng đất phèn trung bình đến ít cũng được chia ra
thành 3 tầng chính vá một tầng phụ đã kể trên. Nhưng độ sâu xuất hiện của tẩng
Jarosite sâu hơn, thường ở 40- 50 cm và độ dày tầng pyrite hoặc hữu cơ mỏng
hơn, hoặc xuất hiện sâu hơn. Nghĩa là tầng canh tác dày và an toàn hơn. Chính
vì vậy mà sự bốc phèn (xì phèn) lên mặt đất ít hơn.
Xét về măt độc chất cùa phèn, tầng trên thường có pH = 4-4,5,Al+3
Trong khoảng vài chục ppm đến 400 -1000 ppm: SO-24 <=0,2%, Fe+2 từ 6001200 ppm
Tầng Jarosite pH từ 3,5-4, lượng SO4-2 cao hơn các tầng khác (đất tươi)
khoảng 0,20-0,3%, Al+3 vào khoảng 600-1000 ppm. Nhưng nếu ta để đất khô
pH sẽ giảm xuống và SO-24 Al+3 sẽ tăng lên, tuy nhiên nhiệt độ tăng giảm không
nhiều.

Thành phần cấp hạt (thành phần cơ giới) thường là sét,khoảng 45- 60%,
Limông 15-13% và cát khoảng 15-30%.
Tính chất hóa học được thể ở một phẫu diện điển hình trong bảng 7 và 8.

Bảng 7:kết quả phân tích đất phèn hiện tại,tại quỳnh phụ thái bình
(viện nghiên cứu khoa học và kinh tế thủy lợi 1991)
Tầng
pH
pHkc Hữu EC
Nt
Pt
Kt
Ca
Al
đất(cm trong
cơ % ms/cm Mg/100 (%) (%) Meq/100
)
H2O
g
g
0÷ 20
4.4
3.8
3.0
1050 0.24
0.06 0.87 5.6
2.2
20 ÷ 50 4.0
3.4
2.42 910

0.2
0.05 0.86 5.2
2.3
0÷ 50 4.6
20÷ 50 3.6

4.0
3.2

2.62
2.62

840
2170

0.25
0.21

0.07
0.07

19

0.88
0.93

4.3
5.6

1.9

5.1

SO
1.4
0.5

247
247

1.1
2.1

222
185


Bảng 8: kết quả phân tích đất phèn hiện tại, tại Tâng Thành
(viện nghiên cứu Thủy lợi Miền Nam 1993)
Tầng
pH
Mùn EC
Nt
P2O5t K2Ot Ca2+ Mg2+
ml/100
đất(cm)
(%)
Ms/cm (%)
%
%
Ml/10

0
0-15
3,6
6,84 1,07
0,464 0,067 0,880 1,220 8.06
15-28
3,53 4.14 0,95
0,300 0,033 0.940 1,50 7.56
28-43
3,50 0,88 0,85
0,157 0,019 1,420 1,92 6.58
43-105 3,28 1,04 1,12
0,164 0,004 1,380 2,24 14.00
1052,97 4,25 4,25
0,185 0,015 1,350 2,22 14.80
150
0-11
3,59 8,81 0,77
0,458 0,067 1,000 0,58 3,12
11-24
3,63 6,94 0,78
0,357 0,046 1,280 1,04 5,10
24-79
2,96 3,63 1,22
0,171 0,019 1,160 1,50 5,58
79-100 2,82 5,18 1,63
0,158 0,020 1,240 1,42 8,92
1002,55 6,11 2,84
0,200 0,011 1,240 1,12 9,05
150


SO2-4

Al3+

2.100
1.675
1.550
1.900
6.625

1.687
1.650
2.160
1.575
1.811

650
1.357
2.150
5.450
10.00
0

1.687
1.650
2.160
1.575
1.811


IV. Môi trường vùng đất phèn
ở vùng đất phèn , chế độ nước , các loại thực vật, động vật và vi sinh vật nằm tronh
một thể thống nhất, chúng ảnh ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lẫn nhau. Nghiên
cứu vấn đề này giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về đất phèn, có tác dụng trong cải
tạo , sử dụng đất phèn và bảo vệ môi trường.
4.1Sinh vật vùng đất phèn
4.1.1Thực vật

-

Thực vật bị vùi lấp: Đất phèn được hình thành ở vùng đất trũng, ở đó khi
xưa là vịnh hay biển cạn với nhiều thực vật phát triển . Thực vật thời kì
trước lúc có đất phèn , thường phần lớn có các loại thực vật của rừng sú vẹt
như: Bầu, mắm, đước đôi, đước nhọn, vẹt

20


Các loại cây này mọc thành rừng dày với bộ rể khỏe, làm giảm tốc độ dòng
chảy, làm lắng đọng phù sa biển, chứa nhiều lưu huỳnh. Bản thân chúng
cũng tích lũy lưu huỳnh, khi chết đi thải ra nhiều lưu huỳnh là nguồn gốc
đầu tiên sinh ra đất phèn. Chiều sâu tầng thực vật bị vùi lấp này thường thấy
ở 1-2m dưới mặt đất đối với đất phèn ở Đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng
Bắc Bộ như vùng Hải Phòng, Thái Bình thấy ở độ nông hơn 0,7- 1,5m
Ngoài ra còn có các thực vật khác như: chà là, dừa nước, tràm, . Qua nghiên
cứu người ta thấy ở những vùng đất mà chỉ có các loại thực vật này chôn vùi
thì lưu huỳnh tổng số rất ít, không có khả năng gây chua nhiều,pH của đất
khoảng 5,5-6
Như vậy , chủng loại và chiều sâu của các loại thực vật bị vùi lấp có khả
năng ảnh hưởng lớn đến mức độ sinh phèn trong đất


-

Thực vật hiện tại

Thực vật đang sống trên đất phèn cũng thay đổi theo tính chất của mỗi loại đất.
Mỗi loại đất đều có hệ thực vật thích ứng với nó
Thực vật ở vùng phèn tiềm tàng thường có các loại cây Chà là, Ráng dại, Lác
biển, bàng, năng kim
Nếu là vùng đất phèn tiềm tàng sâu trong nội địa là những vùng trũng ngập
nước quanh năm, gồm các loại thủy sinh mọc chìm dưới nước hoặc chìm trong
nước một phần như: súng co , sen, nhị cán vàng, nhị cán tròn, cỏ bấc, rau
muống thân tím lá cứng và rau giòn, rau dừa...
Thực vật ở vùng đất phèn nhiều thường có: Năng ngọt( chiếm đa số ngoài ra
còn có vài loại cây khác )
ở vùng phèn ít và trung bình : năng ngọt, cỏ năng , lác. Thực vật trong đất phèn
không chỉ phụ thuộc vào tính chất trong đất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào chế
độ nước. Trong cùng một loại đất phèn khi chế độ nước thay đổi thì chỉ thị thực
vật cũng thay đổi
ngoài các thực vật kể trên đối với các vùng nước phèn đứng yên hoặc những
vùng sình lầy nhiều hữu cơ chúng ta còn gặp các loại tảo ocdogigo và
micropora rất nguy hiểm cho lúa vì chúng sống được ở pH rất thấp và phát triển
nhanh

4.1.2.

Vi sinh vật
Có rất nhiều loại vi sinh vật sống trong đất phèn và chúng có vai trò khác
nhau trong quá trình hình thành đất phèn. Nhưng chúng có ý nghĩa trong
việc tăng tốc độ hình thành đất phèn

Nhiều tác giả cho rằng trong đất phèn có các loài vi khuẩn: Thiobaccillus,
Thiodans, Thiobaccillus Ferroxidans và các loại vi sinh vật sắt. Có nhiều
loại sống trong điều kiện pH rất thấp( pH=2). Các loài vi khuẩn trong đất

21


phèn lấy năng lượng để sống từ các phản ứng oxy hóa và phản ứng khử
trong quá trình tạo phèn, chúng có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy nhanh
quá trình tạo phèn kể cả ở giai đoạn oxy hóa và khử
Trong đất phèn số vi sinh vật có ích rất hiếm. Nhưng vào năm 1972 Murthy
đã phân lập, nuôi cấy được một loài vi khuẩn thuộc Azotobacteracede từ
than bùn có độ chua ( pH =2,5-4,2) đã phát triển trên đất phèn. Loại vi
khuẩn này có khả năng cố định đạm 1-10mg/1g trong một tuần lễ nuôi cấy.
Đây là một khả năng mới mở đường cho việc tạo đạm dễ tiêu bằng vi sinh
vât học cho đất phèn

-

Các động vật nhìn thấy được ở vùng đất phèn

Ở đất phèn trung bình và nhèn nhiều rất ít oặc không có các động vật nhìn thấy
được như : giun, dế, mối. Thường chỉ thấy xuất hiện các loài kiến đen, kiến
vàng và một vài loại rệp ở vùng phèn nhiều pH=2,5-3 kể cả đỉa cũng không
thấy xuất hiện, rất ít tôm, cá nếu có cũng không phát triển được thường đầu to
thân và đuôi bé
ở vùng đất phèn ít các loại động vật phong phú hơn về chủng loại gần như
vùng nước ngọt
Những vùng đất phèn tiềm tàng hiện có ảnh hưởng nước lợ thì sinh vật có khá
nhiều: cua, còng, tôm, cá...

Những vùng đất phèn tiềm tàng nội địa, có nước ngập thường xuyên trên mặt
ruộng thì các loại động vật khá phong phú: tôm, cá, ếch, chuột, rắn, rết, đỉa...
( vùng Đồng Tháp Mười)

4.2

Chế độ nước vùng đất phèn

Chế độ nước là nhân tố cấu thành, phát triển và cải tạo đất phèn, nước có thể
làm tăng hay giảm hàm lượng phèn trong đất. Chế độ nước và chất lượng nước
còn ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng, năng suất cây trồng, đến việc sử dụng,
cải tạo đất phèn và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân vùng đất phèn
Chế độ nước có thể chia ra vùng có ảnh hưởng của thủy triều và vùng không
ảnh hưởng của thủy triều; vùng ảnh hưởng lũ và vùng không ảnh hưởng lũ.
Trong đó lại có thể chia ra vùng ảnh hưởng thường xuyên, đỉnh và chân triều
cao và vùng thủy triều chỉ ít tháng trong năm, chênh lệch ít.Vùng ít hoặc không
có thủy triều liên quan đến nước ngọt hay phèn có ngập lụt hay không và thời
gian ngập.Chế độ nước ở 4 vùng phèn như trên phù hợp với quá trình hình
thành, phát triển đất phèn và tính chất đất phèn của 4 vùng đặt trưng đó.
Nước là yếu tố hết sức linh hoạt nhất là các ion trong nước vì vậy, sự biến đổi
giữa vùng này và vùng kia rất khác nhau

22


Chế độ nước ngầm, chất lượng nước ngầm có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
hình thành, phát triển , sử dụng và cải tạo đất phèn. Nước ngầm cao , quá trình
hóa phèn do oxy hóa khó hình thành, nhưng quá trình cải tạo phèn gặp nhiều
khó khăn và việc tiêu thoát nước khi rửa khó thực hiện, quá trình tái nhiễm
phèn do nước ngầm dễ xảy ra. Đối với vùng phèn tiềm tàng mực nước ngầm

dâng cao có tác dụng tốt trong việc hạn chế hóa phèn; ở vùng phèn hoạt động
đang được cải tạo thì gây khó khăn cho thu rửa, dễ bị tái nhiễm phèn trong mùa
khô.
Đối với những vùng mực nước ngầm biến động lớn theo mùa , mùa khô mực
nước ngầm hạ thấp dưới tầng pyrit dẫn đến quá trình hóa phèn diễn ra mãnh
liệt, tầng Jorosit ngày càng phát triển. Vì vậy, duy trì mực nước ngầm trong đất
phèn đối với từng loại đất phèn là khác nhau và là công việc rất cần thiết trong
cải tạo và sử dụng đất phèn
Chế độ nước nói chung và chế độ nước ngầm nói riêng có ý nghĩa quyết định
đến quá trình oxy hóa của đất phèn, đặt biệt ở đất phèn tiềm tàng kéo theo sự hạ
thấp của pH và làm tăng hàm lượng các độc tố trong đất như: Al 3+, Mg2+, Fe3+,
Fe2+, Mn+, SO42-. Nước có vai trò quyết định trong quá trình phát triển của đất
phèn, cải tạo và sử dụng đất phèn
Chế độ nước ở vùng đất phèn rất phức tạp và biến động theo không gian và thời
gian, nó phụ thuộc vào chế độ lũ, chế độ thuỷ triều, chế độ mưa, khả năng tiêu
thoát nước của từng vùng. Tuy nhiên ở từng vùng cụ thể chúng đều có những quy
luật nhất định, nếu đi sâu nghiên cứu nắm vững những quy luật này ta có thể bố trí
hợp lý về thời vụ, tránh được ảnh hưởng của các độc tố trong nước gây ra và có thể
sử dụng nó để tưới, để cải tạo đất phèn như: Chế độ và chất lượng nước vùng
Đồng Tháp Mười có bốn hạn chế về điều kiện tự nhiên của vùng ĐTM là: Lũ lụt –
Hạn hán – Chua phèn và xâm nhập mặn. Các yếu tố hạn chế thay nhau ngự trị suốt
thời gian trong năm: tháng II, III, IV khô hạn, xâm nhập mặn; tháng V, VI, VII
chua phèn trên phạm vi rộng nhất. Tháng VIII, IX, X ngập lụt. Nước phèn được
hình thành từ đất phèn tại chỗ hoặc từ nơi khác tràn đến.Đất càng chua thì nước
càng chua. Quá trình hình thành nước phèn có thể phân làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn hoà tan muối phèn trên mặt ruộng.
+ Giai đoạn rửa trôi muối phèn và tập trung vào kênh rạch nội đồng.

23



+ Giai đoạn rút nước phèn ra bể tiêu.
Giai đoạn hoà tan và rửa trôi phụ thuộc vào ính chất cơ lý của đất phèn, phân bố
mưa trong các tháng đầu mùa mưa và điều kiện địa hình đồng ruộng. Kinh nghiệm
thựctế cho thấy: nếu những trận mưa đầu mùa có lượng mưa lớn thì việc hình
thành nước phèn sẽ giảm, vì lượng mưa lớn là cho nồng độ phèn giảm và được rửa
đi theo dòng thấm xuống các tầng sâu và một phần theo dòng chẩy mặt xuống kênh
mương và đưa ra khu tiêu. Trường hợp lượng mưa đầu mùa nhỏ, nồng độ phèn
trong nước cao, nước phèn không thể tháo ra khu tiêu, đọng lại ở các vùng trũng,
trên ruộng, gây ảnh hưởng lớn đến cây trồng, gia súc và con người. Nước chua
được hình thành trong các tháng đầu mùa mưa, tập trung vào kênh mương và lan
truyền rộng ra ngoài vùng đất phèn ra nhiều phía và tồn tại trong nhiều tháng (5, 6,
7, 8) do tác động của thuỷ triều .Đây là mối đe doạ lớn đến sản xuất và môi trường
sống đối với người dân vùng ĐTM.Những vùng giáp nước trên kênh là vùng ứ
đọng nước phèn trong một thời gian dài trong đầu mùa mưa. Việc tiêu lượng nước
chua có thể thực hiện theo các hệ thống kênh, nhưng do bị ảnh hưởng chế độ thuỷ
triều nên việc tiêu thoát gặp nhiều khó khăn. Lượng nước chua ở nhiều vùng chỉ
được tiêu thoát vào chính mùalũ.
Chế độ nước vùng Tứ giác Long Xuyên : So với khu vực Đồng Tháp Mười, thì
mức độ ngập lũ của vùng TGLX nhẹ hơn, lũ về chậm hơn, mức ngập lụt nông hơn,
thời gian ngập ngắn hơn. lượng mưa lớn tập trung, lượng mưa trung bình nhiều
khoảng 2.100 - 2.200 mm/năm, 80% tổng lượng mưa tập trung vào mùa mưa. Mưa
bắt đầu sớm (tháng 4) và kéo dài đến tháng 12.Trong mùa khô hơn một phần ba
diện tích bị xâm nhập mặn, không có nguồn nước ngọt.Là khu vực có diện tích
phèn hoạt động lớn, nên chất lượng nước trong vùng rất xấu, 150.000 ha chỉ có thể
gieo trồng một vụ, 30.000ha không thể gieo trồng, ở tình trạng hoang hoá.
Sau khi chương trình thoát lũ biển Tây vào vận hành, hiệu quả do hệ thống công

24



trình đem lại rất lớn, đặc biệt việc cải tạo đất và môi trường vùng đất phèn. Chế độ
nước trong vùng đã thay đổi
V. Hiện trạng ô nhiễm môi trường đất do nhiễm phèn
5.1. Trên thế giới
Tổng diện tích 14.777 triệ u ha, với 1.527 triệu ha đất đóng băng và13.251 triệu ha
đất không phủ băng. Trong đó, 12% tổng diện tích là đất canh tác, 24% là đồng cỏ
32% là đất rừ ng và 32% là đất cư trú, đầm lầy. Diện tích đất có khả năng canh tác
là 3.200 triệu ha, hiện mới khai thác hơn 1.500 triệu ha. Trong đất đang canh tác
trên đất có khả năng canh tác các nước phát triển là 70%; các nước đang phát triển
là 36%.Tài nguyên đất của thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng do xói
mòn, rửa trôi, nhiễm mặn, nhiễm phèn và ô nhiễm đất, biến đổi khí hậu. Hiện nay
10% đất có tiềm năng nông nghiệp bị sa mạc hoá.
Trên thế giới có khoảng 12,6 triệu ha đất phèn, chủ yếu xuất hiện ở các vùng ven
biển nhiệt đới hay cận nhiệt đới, gồm các vùng : Nam Nhật Bản, Nam Triều Tiên,
Nam Ấn Độ, Thái lan, Băng la đét, Đông và Nam Malayxia, Pakistan, Inđonexia,
Đông Nam của Đông- Timo, Miến điện, Việt Nam. Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở:
Guianas, Venezuela, Braxin, Achentina, Newsiland. Và những vùng ven biển thuộc
lưu vực Đông Amazon, một số nước Đông Phi và Tây Phi. Một số đất phèn cũng
được tìm thấy ở HàLan

5.2

Ở Việt Nam

Riêng Việt Nam có khoảng 2 triệu ha đất phèn chiếm gần 16% diện tích đất phèn
trên thế giới, chiếm khoảng 30% diện tích đất canh tác của Việt Nam. Diện tích đất
phèn phân bổ chủ yếu ở hai vùng đồng bằng, và một ít ở ven biển miền Trung.
Ở miền Bắc có khoảng 200.000 ha đất phèn, phân bố ở Hải Phòng, Quảng Ninh,
Thái Bình, Nam Hà, Hải Dương và một số diện tích ở ven biển miền Trung.

Ở miền Nam có khoảng 1,8 triệu ha đất phèn, phân bố ở cả miền Tây (đồng bằng

25


×