Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Nhìn lại 2014 nợ công thách thức nền kinh tế việt nam và những giải pháp thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.38 KB, 5 trang )

NHÌN LẠI 2014_NỢ CÔNG “THÁCH THỨC” NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THỜI GIAN TỚI
Phạm Thị Phương Thảo_CQ51/02.02
Học viện Tài chính
Năm 2014, kinh tế Việt Nam đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng đặc
biệt đã đạt được nhiều dấu mốc trong hội nhập kinh tế toàn cầu. Trước hết là
tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra; lần đầu thắng kiện và khởi kiện chống
bán phá giá; hoàn tất đàm phán hai hiệp định thương mại tự do song phương với
Hàn Quốc và với Liên Minh Hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan; hoàn thành
nhiều công trình quan trọng như công trình Tòa nhà Quốc Hội và dự án Cầu
Nhật Tân; ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối...Trong niềm hân hoan chứng
kiến những thành quả mà cả Nhà Nước, Chính phủ, và các thành phần trong nền
kinh tế đã nỗ lực đạt được cũng cần nghiêm túc nhìn lại một số vấn đề đã “thách
thức” nền kinh tế thời gian vừa qua. Trong đó một vấn đề khá nổi cộm được
Đảng, Nhà Nước và nhân dân rất quan tâm đó là tình trạng nợ công sát ngưỡng
cho phép.
Thực trạng nợ công của Việt Nam năm 2014
Về cơ cấu nợ công và cơ cấu sử dụng nợ công
Theo Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12, nợ công bao gồm nợ Chính
phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2014 tại Trụ sở Chính phủ,
lãnh đạo Bộ Tài Chính cho biết hiện nay, nợ trong nước chiếm tỷ trọng lớn
(51%) và có xu hướng tăng, thường có thời hạn ngắn và lãi suất cao hơn. Nợ
nước ngoài chiếm khoảng 49%, đa phần là vốn vay ODA. Trong đó, hơn 98% nợ
công là để đầu tư các dự án phát triển hạ tầng, 1,5% chi đầu tư, và 0,4% chi sự
nghiệp trong các dự án vay ODA theo cam kết.
Về tốc độ tăng nợ công
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nợ công đến cuối năm 2014 khoảng
60.3% GDP. Nghị quyết sô 10/2013/QH13 của Quốc hội quy định đến năm 2015
nợ công không quá 65% GDP. Như vậy nợ công vẫn nằm trong giới hạn cho
phép theo quy định của Chiến lược nợ công quốc gia.


Dù trong giới hạn cho phép, nợ công trong thời gian qua đã tăng khá
nhanh từ con số 51,7% GDP năm 2010, trong 3 năm kế tiếp, từ 2010-2013 nợ


công đi ngang và chỉ tăng tiếp lên 54,2% nhưng lại tăng vọt lên đến 60,3 % GDP
vào cuối năm 2014.
Theo đồng hồ đo nợ toàn cầu của The Economist, nợ công của Việt Nam
lên mức 86,2% tỷ USD trong ngày 25/12, tăng 10,3% so với năm ngoái. Trung
bình, mỗi người dân Việt đang gánh 950,16 USD nợ, chiếm 47% GDP. Theo
công cụ này, cách đây 10 năm, nợ công Việt Nam là 19,3 tỷ USD, bình quân 234
USD mỗi người. Như vậy trong một thập kỷ, tổng nợ đẵ tăng hơn gấp 4.
Về tỷ lệ trả nợ công
Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 trong
phiên khai mạc do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày, theo đó tỷ lệ trả nợ
trực tiếp từ ngân sách hiện đang ở mức 14,2%, vẫn trong ngưỡng cho phép tại
chiến lược Quản lý nợ công là không quá 25%. Tuy nhiên, nếu tính cả phần vay
đảo nợ, con số này hiện đã ở mức 26,2% GDP.
 Đánh giá thực trạng nợ công
Như vậy nợ công của Việt Nam năm 2014 gia tăng mạnh, tuy vẫn ở dưới
mức cho phép nhưng đã trạm trần, gây áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Mặt
khác, nghĩa vụ trả nợ so với tổng thu ngân sách vẫn ở mức cao, phải đảo nợ và số
đảo ngày càng tăng, gây áp lực lên ngân sách là rất lớn.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng nợ công tăng nhanh
Thứ nhất, áp lực tăng vay nợ của chính phủ cho các khoản chi tiêu, đầu tư
phát triển rất lớn. Ngoài các khoản chi trả lương, trợ cấp, các khoản phục vụ an
sinh xã hội, văn hóa, giáo dục.... thì chi đầu tư thực hiện các dự án trọng điểm
quốc gia về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như các dự án
ngành điện, giao thông, hàng không... cũng đòi hỏi nhu cầu vốn lớn trong khi
nguồn chi tiêu chủ yếu của Chính phủ chỉ là từ nguồn thu Ngân sách Nhà nước
(NSNN). Nhưng thực tế theo số liệu của Bộ Tài chính năm 2014 NSNN bội chi

224.000 tỷ đồng, tương đương 5,3% GDP. Như vậy nguồn NSNN còn lại để bố
trí cho trả nợ và đầu tư phát triển rất hạn hẹp. Do đó để đáp ứng được những nhu
cầu này thì NSNN vẫn phải trong tình trạng bội chi và Chính phủ sẽ phải tăng
phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng vay nợ nước ngoài vừa để đảm bảo nguồn
vốn cho các hoạt động và vừa thực hiện được các mục tiêu của mình.
Thứ hai, sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với khả
năng quản trị tài chính công yếu kém dẫn đến việc sử dụng vốn vay không hiệu
quả làm gia tăng nợ công. Một số chủ dự án lợi dụng sự bảo lãnh vay vốn nước
ngoài của Chính phủ hoặc sự “ưu ái” được Nhà nước đầu tư vốn đã sử dụng vốn


không hiệu quả, lãng phí. Các nguồn vốn đó có khi chưa bám sát các hạng mức
nợ, chưa gắn đầy đủ trách nhiệm tới các cơ quan ban ngành và địa phương. Đồng
thời lợi dụng sự tiếp cận “dễ dãi” này một số chủ dự án đã không trách nhiệm,
chưa thực hiện tốt các khâu chuẩn bị, thẩm định nên phải điểu chỉnh tăng quy mô
dẫn đến phải tăng vay nợ, tạo áp lực gia tăng nợ công và làm tăng nghĩa vụ chi
trả trực tiếp của Chính phủ.
Thứ ba, tham nhũng, thất thoát lãng phí cũng góp phần làm cho xu hướng
nợ công tăng cao. Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước với nhiều bộ phận
phòng ban vẫn khá cồng kềnh, không cần thiết đã gây lãng phí một khoản không
nhỏ NSNN cho việc chi thường xuyên, trong khi các khoản chi cho an sinh, các
chương trình mục tiêu quốc gia... không thể cắt giảm khiến cho cơ quan quản lý
phải thắt chặt túi tiền dành cho đầu tư. Hoạt động đầu tư vì thế không đảm bảo
đã khiến cho Chính phủ phải phát hành trái phiếu hoặc vay nợ để bù đắp. Theo
VnExpress, Bộ Trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng công bố tại diễn đàn Quốc
hội, tỷ trọng cho lĩnh vực đầu tư giảm từ 21,6% năm 2010 xuống mức 16 – 17%
tổng chi hiện nay. Để bù đắp, Chính phủ phải phát hành 170.000 tỷ đồng trái
phiếu trong 3 năm 2014 – 2016, bên cạnh con số 225.000 tỷ đã được Quốc hội
phê duyệt trước đó cho giai đoạn 2011- 2015. Chính điều này đã đẩy nợ công
tăng cả về tỷ lệ lẫn số tuyệt đối.

Thứ tư, công tác quản lý còn phân tán, chưa đồng bộ, nhất quán và năng
lực giám sát nợ công còn hạn chế. Do đó chưa thực hiện tốt quy định trong việc
tổng hợp, báo cáo, công khai thông tin nợ công theo quy định và chưa có chế tài
xử lý đối với các trường hợp vi phạm. Từ đó dẫn đến tình trạng khó kiểm soát nợ
công, chưa có giải pháp hiệu quả để khắc phục và tình trạng này kéo dài càng
làm cho nợ công gia tăng nhanh.
Đề xuất một số giải pháp đảm bảo an toàn nợ công và quản lý nợ công
hiệu quả thời gian tới
Thứ nhất, cần phát triển nội lực của nền kinh tế trong nước thông qua tập
trung nâng cao khả năng sản xuất chuyên môn hóa các ngành, sản phẩm; cải
thiện chất lượng dịch vụ. Đồng thời phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để
làm giảm nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu nhằm thúc đẩy gia
tăng trong xuất khẩu. Từ đó tạo động lực đưa nền kinh tế phát triển, tạo ra nhiều
hơn những lợi ích kinh tế mới, góp phần nâng cao nguồn thu NSNN để có thể
phục vụ nhu cầu chi thường xuyên, đầu tư phát triển và đảm bảo được khả năng
chi trả nợ công.


Thứ hai, chủ động điều chỉnh cơ cấu NSNN theo hướng lành mạnh hơn,
triệt để tiết kiệm chi ngân sách và chống lãng phí trong chi thường xuyên, chi
đầu tư phát triển và bố trí đủ nguồn trả nợ thông qua quản lý chặt các khoản chi;
tinh giảm biên chế, bộ máy; chi tiết kiệm có hiệu quả trong tổ chức các hội nghị,
hội thảo, đi công tác nước ngoài... Hàng tháng, Bộ Tài chính cần đăng tải công
khai chi tiêu của chính quyền trung ương và địa phương trên trang web của mình
để đông đảo công chúng có thể theo dõi, qua đó tạo sức ép phải thực thi các biện
pháp hạn chế chi tiêu ngân sách. Việc cắt giảm, hạn chế chi tiêu này cũng cần
phải thực hiện nghiêm túc để hướng tới quản lý nợ công an toàn và bền vững.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nguồn vốn vay phải được sử
dụng cho đầu tư phát triển và chỉ những dự án quan trọng, thiết yếu, mang lại
hiệu quả kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Đồng thời tăng cường

thanh tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư để phòng tránh tình trạng
tham nhũng, lãng phí và chủ động ngăn ngừa, xử lý nghiêm túc hành vi tiêu cực.
Thứ tư, cần cơ cấu lại nợ công nhằm giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và
chi phí vốn. Cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng các khoản vay trung và dài hạn,
lãi suất thấp hơn, hạn chế vay ngắn hạn; loại bỏ các dự án không hiệu quả. Đồng
thời tiếp tục phát triển thị trường tài chính, trái phiếu để tạo thuận lợi cho việc
chuyển đổi các khoản vay từ ngắn hạn sang trung và dài hạn.
Thứ năm, tăng cường công tác giám sát và minh bạch hóa thông tin về nợ
công. Cần thành lập Ban giám sát nợ công cho phép quản lý và giám sát nợ một
cách sát sao, khách quan và độc lập thông qua yêu cầu công khai số liệu, thực
trạng nợ công ở mức thường xuyên như thế nào. Mặt khác cần tăng cường tính
minh bạch và trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan được ủy quyền thay mặt
Chính phủ thực hiện các giao dịch vay và trả nợ.
Thứ sáu, hoàn thiện thể chế chính sách và các công cụ quản lý nợ công.
Tiến hành rà soát, hoàn thiện thể chế, sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách Nhà nước,
Luật Quản lý nợ công, chiến lược quản lý nợ công và nợ nước ngoài..., bảo đảm
quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả nợ công, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội bền vững.
Tóm lại, nợ công năm 2014 gia tăng nhanh tuy vẫn dưới ngưỡng cho phép
nhưng cũng mang lại nhiều thách thức về áp lực trả nợ trong ngắn hạn, đe dọa an
ninh tài chính vĩ mô. Do đó Chính phủ cùng các ban ngành, địa phương cần phải
phối hợp chặt chẽ với nhau, nhất quán trong các phương án để giải quyết tình
trạng nợ công gia tăng nhanh một cách hiệu quả nhằm đảm bảo an toàn nợ công
thời gian tới.


Tài liệu tham khảo:
/> /> />



×