Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.27 KB, 48 trang )

Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự

MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................................................1

GVHD: Trần Hồng Ca

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Tố tụng hình sự là luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự; Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố tụng
hình sự cụ thể. Pháp luật tố tụng hình sự vừa là công cụ đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm vừa là cơ sở bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Quyền con người, quyền công nhân ngày càng được Việt Nam quan tâm và
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế qua những Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1998, Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 và gần đây nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
(chuẩn bị có hiệu lực) với “quyền im lặng” là một bước đột phá về quyền con người.
Trong quá trình điều tra các vụ án hình sự thì tài liệu, chứng cứ,… là những
bằng chứng khá quan trọng trong công tác thu thập để từ đó xác định, chứng minh tội
phạm và người phạm tội. Thực tế cho thấy, một phần đáng kể những bằng chứng này
được thu thập thông qua hoạt động khám xét.
Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát cưỡng
chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện, thu
giữ công cụ, phương tiện phạm tội; đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người


bị bắt cóc.
Trước những diễn biến phức tạp về tình hình tội phạm hiện nay và cơ quan điều
tra còn lúng túng trong việc vận dụng trình tự, thủ tục, thẩm quyền dẫn đến việc xâm
phạm các quyền cơ bản của công dân, làm giảm hiệu quả của hoạt động khám xét nói
riêng và hoạt động tố tụng hình sự nói chung.
Đó là những lý do, người viết chọn đề tài “Quy định về biện pháp khám xét
trong tố tụng hình sự” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích các vấn đề lý luận, đánh giá các quy
định của Pháp luật về biện pháp khám xét và thực tiễn áp dụng. Từ đó, người viết đưa
ra những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của biện pháp khám xét trong
thực tiễn áp dụng.

GVHD: Trần Hồng Ca

1

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
3. Phương pháp nghiên cứu
Người viết sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh và đối
chiếu thực tiễn và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ thể là những quy định về biện pháp khám
xét trong tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận xung quanh về biện

pháp khám xét trong tố tụng hình sự; Vấn đề thực tiễn được áp dụng trong những gần
đây.
5. Bố cục đề tài
Luận văn được bố cục gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về biện pháp khám xét trong Bộ luật tố tụng
hình sự
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp khám xét
Chương 3: Thực trạng, bất cập và giải pháp về biện pháp khám xét trong tố
tụng hình sự.

GVHD: Trần Hồng Ca

2

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP KHÁM XÉT
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp khám xét
1.1.1. Khái niệm về biện pháp khám xét
Khám xét là một trong những biện pháp điều tra được quy định trong Pháp luật
của nhiều nước trên thế giới nói chung và trong lịch sử Tố tụng hình sự Việt Nam nói
riêng.
Ở góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, biện pháp điều tra khám xét cũng là đề
tài nghiên cứu của nhiều học giả. Xung quanh khái niệm khám xét tồn tại nhiều quan
niệm, cách thức định nghĩa khác nhau:
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, “khám” dưới góc độ pháp lý được hiểu là:

“Xét, lục soát để tìm tang chứng của tội lỗi, của hoạt động phạm pháp1”.
Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm khám xét là: “Một hoạt động
điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố vụ án theo lệnh của người có thẩm quyền
theo quy định, để tìm kiếm và thu hồi công cụ phạm tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội
mà có, cũng như mọi đồ vật và tài liệu khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án. Có thể
tiến hành phát hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi2”.
Có thể thấy, việc định nghĩa khám xét theo hai bộ Từ điển nêu trên đã nêu lên
được khám xét là hoạt động tố tụng hình sự đồng thời là biện pháp nghiệp vụ điều tra
của các cơ quan có thẩm quyền, áp dụng đối với tội phạm nhằm phát hiện những
người đang bị truy nã và phát hiện tử thi.
Tuy nhiên, định nghĩa này lại chưa khẳng định được bản chất của khám xét là
sự tìm tòi, lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng
nhất định, cũng chưa thể hiện đầy đủ mục đích của khám xét là nhằm phát hiện những
chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án, hoặc tìm kiếm người đang bỏ trốn, người bị
bắt cóc, hoặc phát hiện các phần của tử thi… dẫn đến việc hiểu không thật sự đầy đủ
về bản chất, mục đích của hoạt động khám xét.
Bên cạnh đó, việc quan niệm khám xét là một hoạt động điều tra được tiến hành
ngay sau khi khởi tố vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ, khám xét là một trong những biện
pháp điều tra ban đầu nên biện pháp này hoàn toàn có thể được thực hiện trước hoặc
sau khi khởi tố vụ án hình sự.
1
2

Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, năm 2003, dòng 42, tr. 230
Từ điển Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2000, dòng 38, tr. 92

GVHD: Trần Hồng Ca

3


SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
Theo người viết, dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, khám xét cần được
hiểu đầy đủ là: “Một biện pháp điều tra được quy định trong luật tố tụng hình sự, do
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát, cưỡng chế người,
chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm để tìm kiếm, thu
thập dấu vết của tội phạm, tài liệu, vật chứng hoặc những đồ vật khác có liên quan
đến vụ án theo các căn cứ, trình tự, thủ tục luật định”.
Như vậy, theo khái niệm trên, biện pháp khám xét phải bao hàm những yếu tố
sau:
- Được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ và theo một
trình tự, thủ tục luật định.
- Khám xét chủ yếu bao gồm các hoạt động: tìm tòi, lục soát, cưỡng chế.
- Các biện pháp khám xét cụ thể bao gồm: khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
- Mục đích chung của biện pháp khám xét là phát hiện, thu thập những chứng
cứ, tài liệu hoặc đồ vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Đặc điểm về biện pháp khám xét
Biện pháp khám xét có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Khám xét là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự với mục đích là phát hiện,
thu thập vật chứng có liên quan trong vụ án hình sự, từ đó làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án.
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự thì cơ quan điều tra có nhiều biện
pháp điều tra khác nhau và mỗi biện pháp mang lại những mục đích, hiệu quả riêng.
Đối với biện pháp khám xét khi thực hiện thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ phát hiện,
thu thập được những chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án (nếu có). Đó có thể là
vũ khí, công cụ, phương tiện phạm tội, những tài sản bị tội phạm chiếm đoạt, những
vật mang dấu vết tội phạm, những mẫu vật để nghiên cứu, so sánh hoặc những giấy tờ,

tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Trong một số trường hợp, khi hoạt động khám xét được tiến hành tại chỗ ở, địa
điểm, chỗ làm việc của của chủ thể bị khám xét còn giúp phát hiện người đang bị truy
nã, tử thi hoặc các phần của tử thi, người bị bắt cóc, người bị giam giữ… Những tài
liệu, chứng cứ này là cơ sở quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay
không có hành vi phạm tội xảy ra, nếu có căn cứ để xác định là đã xảy ra hành vi phạm
tội thì lập kế hoạch, phương hướng điều tra và tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra
GVHD: Trần Hồng Ca

4

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
phù hợp, từ đó từng bước chứng minh tội phạm, nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật
khách quan trong vụ án hình sự.
Khám xét là biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, cưỡng chế là “buộc người khác phải làm
theo những ý nghĩ hoặc hành động của mình 3”, suy rộng ra, cưỡng chế trong tố tụng
hình sự là việc căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để buộc các đối
tượng bị áp dụng phải tuân theo những mệnh lệnh, yêu cầu nhất định.
Trong tố tụng hình sự, có nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau được ghi nhận
như các biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường
hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam,
cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm … hoặc các biện pháp điều tra thể hiện tính
cưỡng chế như khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan
trực tiếp đến vụ án, xem xét dấu vết trên thân thể, áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản…
Khi thực hiện những biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào các
quy định của luật tố tụng hình sự và những quy định liên quan khác để buộc các đối

tượng bị áp dụng phải tuân thủ.
Có thể thấy khám xét là biện pháp điều tra có tác động mạnh đến những quyền
cơ bản của công dân đã được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Đó là các quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín được ghi nhận tại Bộ luật Tố tụng Hình sự: “Không ai được
xâm phạm trái pháp luật chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an
toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư
khác của cá nhân4”; Quyền bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân ghi nhận: “Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản
của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật5”…
Tuy nhiên, để kịp thời ngăn chặn âm mưu, hành động phạm tội của tội phạm và
thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự vẫn ghi nhận quyền
tiến hành khám xét của các cơ quan có thẩm quyền nếu những cơ quan này có đủ căn
cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của của một người có công
cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có
3

Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, năm 2003, dòng 42, tr. 78
Điều 12 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
5
Điều 11 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
4

GVHD: Trần Hồng Ca

5

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh



Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Những đối tượng bị
khám xét có nghĩa vụ phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của lực lượng tiến hành
khám xét, nếu các đối tượng bi áp dụng có hành vi cản trở, chống đối hoặc không hợp
tác thì tùy theo tính chất của hành vi, họ sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất
định.
Khám xét là biện pháp điều tra có sự đa dạng về đối tượng, địa điểm thực hiện
Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm hoặc người bị tình nghi là
tội phạm hoặc những người có liên quan khác có thể che giấu những tài liệu, công cụ,
phương tiện có liên quan đến vụ án ở nhiều địa điểm, trong nhiều đồ vật khác nhau, đó
có thể là trên người, nơi ở, nơi làm việc hoặc trong bưu kiện, bưu phẩm ... Bởi vậy, với
vai trò là một biện pháp điều tra giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra tìm kiếm,
phát hiện những tài liệu, công cụ liên quan đến vụ án bị tội phạm che giấu, khám xét
cũng có sự đa dạng về đối tượng. Theo đó, đối tượng của biện pháp khám xét bao
gồm: người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm,...
Mỗi đối tượng khám xét khác nhau sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền thu thập
những đồ vật, tài liệu khác nhau, từ đó tổng hợp, đánh giá chứng cứ. Sự đa dạng trong
đối tượng của biện pháp điều tra khám xét vừa tạo sự khách quan trong hoạt động tìm
kiếm, thu thập chứng cứ, vừa góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động điều tra cũng
như quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Khám xét phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định
Trước hết, hoạt động khám xét phải tiến hành theo quy định của pháp luật. Như
đã phân tích, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín là những quyền quan trọng của công dân được pháp luật bảo hộ, ghi nhận.
Trong khi đó, đối tượng của hoạt động khám xét lại là người, chỗ ở, địa điểm, thư tín,
điện tín,... Bởi vậy, khi tiến hành những hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền
cần triệt để tuân theo các quy định của pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này được
thể hiện ở chỗ: Mọi cuộc khám xét phải đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ, trình tự, thủ

tục, thẩm quyền khám xét và không được xâm phạm các quyền cơ bản của công dân.
Cụ thể:
- Chỉ được khám xét khi có các căn cứ nhận định những nơi định khám xét
đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có đối
tượng đang bị truy nã lẩn trốn, người bị bắt cóc, xác chết hoặc các phần của nó ... Nếu
chưa có đủ căn cứ ra lệnh khám xét thì các cơ quan có thẩm quyền cần phải thu thập

GVHD: Trần Hồng Ca

6

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
những tài liệu bổ sung, nếu việc thu thập tài liệu bổ sung vẫn chưa đủ căn cứ khám xét
thì không được ra lệnh khám xét.
- Phải tuân thủ những quy định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền ra lệnh
khám xét: Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có lệnh của những người có thẩm
quyền. Trừ trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại
nơi khám xét giấu trong người những đồ vật, tài liệu cần thu giữ thì việc khám người
có thể được tiến hành mà không cần có lệnh.
- Khi tiến hành khám xét, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân những quy định
về trình tự, thủ tục khám xét đối với các đối tượng khám xét cụ thể.
- Trong quá trình khám xét, những người thi hành lệnh khám xét không được có
những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
công dân. Để đảm bảo thực hiện nội dung này, lực lượng khám xét phải tiến hành
khám xét nghiêm túc, đúng pháp luật. Trước khi tiến hành khám xét, các cơ quan thi
hành lệnh phải lên kế hoạch chuẩn bị khám xét một cách kỹ lưỡng, chu toàn bao gồm:
nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập, phân tích, đánh giá những tài liệu liên quan đến cuộc

khám xét, lập kế hoạch khám xét (xác định thời gian khám xét, thành phần lực lượng
khám xét, dự kiến những tình huống xảy ra và các biện pháp giải quyết). Khi tiến hành
khám xét, người chủ trì cần giải thích, phổ biến kế hoạch khám xét cho các thành viên
trong đội khám xét, phân công nhiệm vụ cho từng người và kiểm tra việc chuẩn bị của
họ. Trong quá trình khám, lực lượng khám xét phải chấp hành các nguyên tắc: khi
khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến; khi
khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình,
có đại diện xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; khi khám chỗ làm
việc của một người thì phải có mặt người đó (trừ trường hợp không thể trì hoãn) và đại
diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc …
Hoạt động khám xét phải đảm bảo yêu cầu về nghiệp vụ là bí mật, bất ngờ, bảo
đảm an toàn cho người thực hiện. Để đạt được yêu cầu trên, cơ quan thi hành lệnh
khám xét phải giữ bí mật chủ trương, kế hoạch khám xét, việc chuẩn bị, triển khai các
lực lượng bao vây, giám sát và tạo được yếu tố bất ngờ khi xuất hiện ở nơi cần khám
xét. Ngoài ra, trong quá trình khám xét, các cơ quan này không được để lộ bí mật về
những phương tiện hỗ trợ, cách thức thực hiện và các biện pháp nghiệp vụ đã được áp
dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trước mắt
và lâu dài. Đây là nhân tố cơ bản để hoạt động khám xét đạt được mục đích. Khi yêu
cầu này được thực hiện, tội phạm sẽ không có cơ hội che giấu, tiêu hủy chứng cứ hoặc
chạy trốn.
GVHD: Trần Hồng Ca

7

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
1.2. Mục đích và ý nghĩa quy định khám xét
1.2.1. Mục đích của khám xét

Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh
giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó, thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự.
Nếu không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử
dụng chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề thu thập
chứng cứ nói riêng luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập
pháp mỗi nước quốc gia khi xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự.
Phát hiện, thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng cứ theo
đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện chứng minh. Phát
hiện, thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý
nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải quán triệt những nguyên tắc, quy
luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác là phải khách
quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Phát hiện, thu thập những tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa trong công tác điều tra
là mục đích quan trọng nhất và phổ biến nhất đối với công tác khám xét. Ngoài ra,
công tác khám xét còn có mục đích để phát hiện, thu giữ những đồ vật, tài sản phục vụ
cho việc bồi thường thiệt hại hoặc những đồ vật, tài liệu thuộc loại cấm tàng trữ, lưu
hành.
Mặc khác, công tác khám xét còn được sử dụng nhằm mục đích tìm kiếm, rà
soát những tội phạm đã có lệnh truy nã hoặc tìm kiếm xác chết, thi thể mất tích hoặc
những người đã bị bắt cóc,…
1.2.2. Ý nghĩa của khám xét
Khám xét đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố
tụng Hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án6.
Theo khái niệm này, chứng cứ chỉ được coi là hợp pháp và có giá trị chứng
minh khi thỏa mãn đầy đủ các thuộc tính khách quan, tính liên quan và tính được thu

6

Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

8

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
thập hợp pháp. Nếu thiếu đi một trong các thuộc tính này, chứng cứ sẽ mất đi giá trị
chứng minh, trong đó thuộc tính được thu thập hợp pháp là thuộc tính cần được chú
trọng bởi nó dễ bị xâm phạm nhất.
Khi thực hiện hoạt động khám xét, để đảm bảo thuộc tính được thu thập hợp
pháp của chứng cứ, các cơ quan có thẩm quyền phải tránh việc xâm phạm các quyền
cơ bản của công dân. Trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta, các quyền bảo đảm
an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín,
điện tín … của công dân luôn được ghi nhận. Hiến pháp 2013 quy định:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm … 7”. Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có
quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình 8”. Bản Hiến pháp này cũng quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người
khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định … 9”. Nếu
chỉ căn cứ theo những quy định này thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự,
trong đó có khám xét đối với công dân sẽ bị coi là không hợp pháp. Tuy nhiên, khi
những quy định về hoạt động khám xét đươc ghi nhận trong tinh thần của Hiến pháp
cũng như trong luật tố tụng hình sự thì hoạt động khám xét của các cơ quan có thẩm

quyền đã được đảm bảo về cơ sở pháp lý, từ đó tính hợp pháp của những chứng cứ thu
thập được từ hoạt động khám xét cũng được khẳng định.
Khám xét bảo đảm quyền con người
Quyền con người được hiểu là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người
mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội nhất định.
Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội, vừa mang tính phổ
biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống
nhất với quyền dân tộc cơ bản.
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó có mối quan
hệ chặt chẽ với quyền công dân và được hiện hữu trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự, khám xét là một biện pháp điều tra được tiến hành bởi
một bên là những chủ thể đại diện cho Nhà nước, được nhà nước trao quyền, còn một
bên là tội phạm hoặc người bị cho là thực hiện hành vi phạm tội. Sự khác nhau về địa
7

Điều 20 Hiếp pháp năm 2013
Điều 21 Hiếp pháp năm 2013
9
Điều 22 Hiếp pháp năm 2013
8

GVHD: Trần Hồng Ca

9

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự

vị pháp lý này dễ dẫn đến những hành vi xâm phạm quyền con người của những người
tiến hành khám xét. Do đó, việc Bộ luật Tố tụng Hình sự điều chỉnh biện pháp điều tra
khám xét về các căn cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh, trình tự thủ tục tiến hành khám
xét,… đã góp phần hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan, cá nhân tiến hành
khám xét, từ đó bảo vệ quyền công dân, quyền con người theo tinh thần của Bộ luật
Tố tụng Hình sự là “góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân10”.
Khám xét góp phần giải quyết các vụ án hình sự nhanh chóng và thuận lợi
Thực tế hoạt động điều tra cho thấy, những tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan
có thẩm quyền thu thập được như công cụ, phương tiện phạm tội, những đồ vật, tài
liệu liên quan đến vụ án… có vai trò quyết định đến thời gian và hiệu quả của việc giải
quyết vụ án hình sự. Đây được coi là những bằng chứng quan trọng để chứng minh có
hay không có hành vi phạm tội (?) ai là người thực hiện hành vi phạm tội (?) cách thức
thực hiện hành vi phạm tội (?) ... để đưa tội phạm ra xét xử trước pháp luật. Trong khi
đó, khám xét lại là một biện pháp điều tra tổng hợp, bao gồm nhiều hoạt động lục soát,
tìm kiếm với mục đích là phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài
sản do phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác
chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc, từ đó đưa ra kế hoạch, phương hướng
cho những hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo. Như vậy, việc pháp luật ghi nhận hoạt
động khám xét đã giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra sớm phát hiện, thu thập các
chứng cứ hoặc tài liệu liên quan đến vụ án, từ đó nhanh chóng chứng minh tội phạm,
rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết vụ án hình sự.
1.3. Lược sử quy định về khám xét ở nước ta từ 1988 đến nay
1.3.1. Từ năm 1988 đến trước 01/7/2004
Trên cơ sở những nguyên tắc Hiến định, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 đầu
tiên của nước ta ra đời đã có những quy định rõ ràng, đầy đủ về hoạt động khám xét.
Tại đây, hoạt động khám xét được điều chỉnh trong một chương độc lập, bao gồm 4
điều luật với các nội dung cụ thể như sau:
- Căn cứ khám xét: khám xét chỉ được thực hiện khi có căn cứ nhận định trong

người, chỗ ở, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản
do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát

10

Điều 2 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

10

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
hiện người đang bị truy nã hoặc khi cần phải thu thập những tài liệu, đồ vật liên quan
đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm11.
- Thẩm quyền ra lệnh khám xét: trong những trường hợp thông thường, Viện
trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán Toà
án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên, chủ toạ phiên toà;
Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan
điều tra cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên (có lệnh khám xét do Viện kiểm sát cũng cấp
phê chuẩn) là những người có thẩm quyền ban hành lệnh khám xét. Tuy nhiên, trong
trường hợp không thể trì hoãn, người chỉ huy của đơn vị quân đội độc lập cấp trung
đoàn; Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo hoặc biên giới; Người chỉ huy máy bay,
tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng cũng có quyền ra lệnh
khám xét. Trong những trường hợp này, sau khi khám xong, người ra lệnh khám phải
báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ 12.
- Trình tự, thủ tục tiến hành khám xét: Khi khám xét, người tiến hành khám xét

phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó, giải thích cho đương sự
và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, trong trường hợp
bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong
người đồ vật cần thu giữ thì có thể tiến hành khám người mà không cần có lệnh. Trước
khi khám, người tiến hành khám xét phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có
liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám xét13.
- Các lưu ý khi tiến hành hoạt động khám xét cụ thể: Bên cạnh căn cứ, thẩm
quyền và trình tự thủ tục khám xét, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 cũng quy định
về những trường hợp khám xét cụ thể (khám người, khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm, khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm,…). Theo đó, khi khám người,
người tiến hành khám xét phải thực hiện theo nguyên tắc: nam khám nam, nữ khám nữ
và phải có người cùng giới chứng kiến. Khi tiến hành khám chỗ ở, địa điểm, người
tiến hành khám xét phải đảm bảo sự có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong
gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường hoặc thị trấn và người láng giềng
chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt,
bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện
chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban
đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Khi
11

Điều 115 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988
Điều 116 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988
13
Điều 117, 118 và 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988
12

GVHD: Trần Hồng Ca

11


SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
khám chỗ làm việc của một người: thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể
trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.Việc khám chỗ làm việc phải có đại
diện của cơ quan hoặc tổ chức chứng kiến. Khi tiến hành khám chỗ ở, địa điểm, những
người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi
với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xong; Khi cần thiết phải thu
giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì Cơ quan điều tra ra lệnh thu
giữ. Người thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu
quan trước khi tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan phải
giúp đỡ người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm vụ. Khi thu giữ thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng kiến và ký xác nhận
vào biên bản. Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người có thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết, trừ trường hợp việc thông báo cản trở điều tra thì
sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh thu giữ phải thông báo ngay. Bên
cạnh đó, tất cả các hoạt động khám xét cần phải được lập biên bản, ghi nhận lại toàn
bộ những hoạt động đã thực hiện, có chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia.
Như vậy, khi Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 ra đời, các quy định về khám
xét đã lần đầu tiên được điều chỉnh trong một Bộ luật Tố tụng Hình sự thống nhất với
các nội dung khá rõ ràng, chi tiết và chặt chẽ. Những quy định về khám xét này vừa
thể hiện sự thống nhất, kế thừa của những văn bản trước như Luật số 103/SL-L005
ngày 20/5/1957, Nghị định 301 ngày 10/7/1957, Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976
… vừa có những điểm tiến bộ, phát triển hơn. Những quy định này là cơ sở pháp lý
vững chắc cho các cơ quan chức năng thực hiện hoạt động khám xét và cũng là cơ sở
để bảo vệ quyền công dân.
1.3.2. Từ 01/7/2004 đến nay
Tiếp tục duy trì những nguyên tắc của Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2003 được chỉnh sửa với những quy định được rõ ràng, chi tiết hơn về biện pháp khám

xét. Cụ thể biện pháp khám xét cũng được điều chỉnh trong một chương độc lập, bao
gồm 10 điều luật với các nội dung cụ thể như sau:
Căn cứ khám xét
Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn
cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ,
phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có
liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi
cần phát hiện người đang bị truy nã.

GVHD: Trần Hồng Ca

12

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
Thẩm quyền ra lệnh khám xét
Những người được quy định sau có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường
hợp: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao;
Hội đồng xét xử.
Những người được quy định sau có quyền ra lệnh khám xét và phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra các cấp.
Trong trường hợp không thể trì hoãn, những người được quy định sau có quyền
ra lệnh khám xét: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ

huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên
phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã
rời khỏi sân bay, bến cảng. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh
khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Trình tự và nguyên tắc khám người
Khi bắt đầu khám người, phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh
khám đó; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của
họ. Người tiến hành khám phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật, tài liệu có liên
quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám.
Khi khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới
chứng kiến.
Có thể tiến hành khám người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người
hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ
vật, tài liệu cần thu giữ.
Trình tự và nguyên tắc khám chỗ ở, chỗ làm việc và địa điểm
Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm được tiến hành theo quy định về căn
cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh khám xét và trình tự khám người như trên.
Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên
trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng

GVHD: Trần Hồng Ca

13

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt,
bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện

chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến.
Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn,
nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Khi khám chỗ làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp
không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Việc khám chỗ làm việc phải
có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến.
Khi tiến hành khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm những người có mặt không
được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với
những người khác cho đến khi khám xong.
Sau khi hoàn tất công tác khám xét, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 còn quy
định cụ thể về thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; Tạm giữ đồ
vật, tài liệu khi khám xét; Kê biên tài sản được quy định tại các điều 144, 145 và 146
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Điều 147, 148 và 149 quy định về trách nhiệm bảo quản đồ vật, tài liệu, thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong; Biên bản khám
xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm; Trách
nhiệm của người ra lệnh và thi hành lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ đồ
vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
Với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin thì khái niệm “dữ liệu điện tử”
còn xa vời với Bộ luật năm 2003. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 được ra
đời để hoàn chỉnh với tình hình thực tế của thời đại công nghệ thông tin với các điều
khoản quy định về khám xét dữ liệu điện tử và sắp có hiệu lực thi hành.

GVHD: Trần Hồng Ca

14

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh



Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
BIỆN PHÁP KHÁM XÉT

Là một biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục đích là nhằm phát hiện,
thu thập chứng cứ, tài liệu hoặc các đồ vật có liên quan khác, góp phần làm sáng tỏ
những tình tiết khách quan trong vụ án hình sự, khám xét được Bộ luật Tố tụng Hình
sự năm 2015 quy định tại Chương XIII với 09 điều luật chính: Từ Điều 192 đến Điều
200.
Những điều luật này vừa trực tiếp hiện thực hóa các nguyên tắc bảo hộ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, bảo đảm quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân quy định tại Điều 11, Điều 12 Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015 cũng vừa là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Có thể khái quát nội dung điều chỉnh của luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp điều tra khám xét bao gồm những vấn đề sau: căn cứ khám xét, thẩm quyền ra
lệnh và tiến hành khám xét nói chung; các biện pháp khám xét cụ thể, bao gồm: khám
người; khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm,…
2.1. Căn cứ tiến hành khám xét
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khám xét là một biện pháp điều tra thu
thập chứng cứ cần thiết và quan trọng nhưng ở một góc độ khác, biện pháp điều tra
này lại tác động trực tiếp đến các quyền bất khả xâm phạm của công dân được Hiến
pháp và pháp luật của nước ta bảo vệ, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ
ở, thư tín, điện tín,… Vì vậy, khi không có những căn cứ luật định, không cơ quan, tổ
chức hay cá nhân nào được thực hiện biện pháp điều tra này.
Căn cứ khám xét có thể hiểu là những thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền
thu thập được, qua đó có đủ cơ sở để nhận định rằng ở những đối tượng, địa điểm dự

định khám xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc
ở đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, xác chết hoặc các phần của nó, người bị bắt
cóc. Những thông tin này phải được kiểm tra, xác minh, đảm bảo độ tin cậy trước khi
sử dụng làm căn cứ.

GVHD: Trần Hồng Ca

15

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, việc khám xét chỉ được
thực hiện khi có các căn cứ sau:
1. Việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được
tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm,
phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà
có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện cũng được tiến hành
khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
2. Khi có căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ
liệu điện tử có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ
án thì có thể khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử 14.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 không đưa ra căn cứ chung cho các hoạt
động khám xét mà đối với mỗi biện pháp khám xét khác nhau lại ghi nhận những căn
cứ khác nhau.
2.1.1. Căn cứ khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện
Căn cứ khám xét được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 là cơ
sở pháp lý để các lực lượng tiến hành khám xét vận dụng trong thực tiễn hoạt động

điều tra. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 không đưa ra căn cứ chung cho
các hoạt động khám xét mà đối với mỗi biện pháp khám xét khác nhau lại ghi nhận
những căn cứ khác nhau. Đối với khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm,
phương tiện thì:
Căn cứ để tiến hành khám xét có thể dựa vào các căn cứ phạm tội hoặc dấu vết
của hành vi phạm tội để lại hiện trường hay một địa điểm nào đó. Từ nghi vấn đó, cơ
quan điều tra có lý do để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một
người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài
liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã.
Căn cứ phạm tội có thể dựa vào những nguồn tài liệu như tin báo của công dân ,
của đại diện các cơ quan tổ chức xã hội, kết quả tiến hành những biện pháp trinh sát,…
ví dụ như người dân phát hiện công cụ phạm tội của tội phạm đang được giấu ở chỗ
nào hoặc địa điểm giấu công cụ phạm tội,… Những tài liệu này được đối chiếu so sánh
với những tài liệu chứng cứ khác của vụ án và sau khi được kiểm tra thận trọng chính
xác có thể sử dụng làm căn cứ khám xét.
14

Điều 192 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

16

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
Dấu vết tội phạm có thể được xác định khi có đủ bằng chứng hoặc có dấu vết
của hành vi phạm tội của tội phạm để lại hiện trường vụ án từ đó có thể khám xét chỗ
ở, nơi làm việc,…

Công cụ phạm tội được hiểu là tất cả những vật được sử dụng trực tiếp trong
quá trình thực hiện tội phạm; Phương tiện phạm tội là những vật được sử dụng nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội và đồ vật, tài sản do phạm
tội mà có là tiền bạc hoặc những đồ vật khác có được do mua bán bằng tiền phạm tội,
đổi chác những vật do phạm tội mà có.
2.1.2. Căn cứ khám xét tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm, dữ liệu điện tử
Căn cứ để tiến hành khám tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm,
dữ liệu điện tử là dựa vào những dấu hiệu có nghi vấn để nhận định trong thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm chứa những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án cần phải thu
thập. Đó có thể là giấy tờ, tiền hoặc những vật khác có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến vụ án đang giải quyết.
Ta có ví dụ minh họa về khám xét 11 gói bưu phẩm nghi chứa thảo mộc mạnh
gấp nhiều lần ma túy đá tại Hà Nội:
Sáng 22/9/2016, Cục Hải quan Hà Nội phối hợp với Cục Điều tra chống buôn
lậu (Tổng cục Hải quan) và Cục Cảnh sát điều tra Tội phạm về Ma túy (C47), Viện
Khoa học hình sự (C54) của Bộ Công an tổ chức khám xét 11 gói bưu kiện tại Chi cục
Hải quan đang thuộc diện hàng gửi từ Việt Nam ra nước ngoài theo đường Bưu chính
quốc tế.
Kết quả kiểm tra, các lực lượng chức năng phát hiện trong trong 11 gói bưu gửi
nói trên là thảo mộc khô, trọng lượng 82,5 kg nghi có chứa chất ma túy. Số thảo mộc
này nghi là lá Khát, hay còn gọi là lá "Thiên đường" có thành phần Cathinone - một
chất ma túy cực mạnh nằm trong danh mục các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng
trong y học và đời sống xã hội15.
Như vậy, căn cứ khám xét bưu phẩm nêu trên là do gói bưu phẩm thuộc chuẩn
loại thảo mộc có hình dạng giống lá Khát - một loại cây có thành phần chất cathinone chất ma túy cực mạnh nên cơ quan điều tra đã ra quyết định khám xét bưu phẩm của
Phạm Văn Duy (địa chỉ: Vạn Hòa, Lào Cai) gửi đi Mỹ bằng đường bưu chính quốc tế.
15

Uyên Phương, Báo Mới (Công ty Cổ phần Công nghệ EPI), Khám 11 gói bưu phẩm nghi chứa thảo mộc mạnh

gấp nhiều lần ma túy đá, [Truy cập ngày 29/11/2016]

GVHD: Trần Hồng Ca

17

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
Có thể thấy, mỗi biện pháp khám xét có một mục đích riêng và cũng tác động
đến những quyền khác nhau của cá nhân, không biện pháp nào giống biện pháp nào.
Do đó, việc Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định những căn cứ khác nhau cho các biện
pháp khám xét khác nhau là phù hợp với thực tiễn hoạt động điều tra nói chung và
khám xét nói riêng.
Trên thực tế, việc xác định căn cứ khám xét là một hoạt động khá phức tạp và
khó khăn bởi những tài liệu về đối tượng cần khám xét thường ít ỏi, trong khi đó, hoạt
động khám xét lại đòi hỏi phải tiến hành khẩn trương, đề phòng sự tẩu tán, tiêu hủy
những tài liệu, chứng cứ vụ án của tội phạm. Bởi vậy, trước khi ra lệnh khám xét, các
cơ quan có thẩm quyền cần phải phân tích, đánh giá tất cả những tài liệu chứng cứ của
vụ án có liên quan đến việc khám xét một cách thận trọng, khách quan, toàn diện
nhưng cũng cần phải nhanh chóng, kịp thời. Nếu đủ căn cứ khám xét thì ra lệnh khám
xét và tiến hành khám xét ngay để phát hiện, thu giữ những tài liệu, chứng cứ có ý
nghĩa đối với hoạt động điều tra.
Những quy định về căn cứ tiến hành khám xét được quy định trong Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2015 đã được cập nhật đúng tình hình thực tế và được chi tiết, rõ
ràng hơn về các trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định song
mang nhiều ý nghĩa trong thực tiễn điều tra cũng như trong việc bảo vệ các quyền cơ
bản của con người. Một mặt, những quy định trên tạo cơ sở pháp lý, đảm bảo tính hợp
pháp cho hoạt động khám xét của các cơ quan có thẩm quyền, mặt khác góp phần hạn

chế sự lạm quyền, giảm thiểu những cuộc khám xét không đảm bảo tính hợp pháp về
căn cứ tiến hành khám xét. Điều này đã khẳng định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa cũng như nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân, Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của công dân của luật tố tụng hình sự Việt Nam.
2.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét
2.2.1. Thẩm quyền ra lệnh khám xét
Để hạn chế được việc khám xét tràn lan, thiếu căn cứ, xâm phạm đến quyền tự
do dân chủ của công dân, nhưng cũng nhằm bảo đảm việc phát hiện kịp thời mọi tội
phạm thì theo Điều 193 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thì những người
sau đây có ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp:
- Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân
sự các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
GVHD: Trần Hồng Ca

18

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao;
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp có quyền ra lệnh khám
xét, nhưng lệnh này phải được Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn.
Ngoài ra, trong những trường hợp không thể trì hoãn, căn cứ vào Điều 193 nêu
trên và khoản 2 Điều 110 thì những người sau đây có quyền ra lệnh khám xét:
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;

- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người
chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng.
Trường hợp không thể trì hoãn là trường hợp cần phải ngăn chặn ngay việc tiêu
huỷ nguồn chứng cứ. Cho nên những người nói trên có quyền ra lệnh khám xét mà
không cần có sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, trong thời
hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh phải báo bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát điều tra.
Sau khi có lệnh khám xét thì điều tra viên thi hành quyết định khám xét theo
quy định: “Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc quyết định
bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài
khoản, xử lý vật chứng16”.
Ngoài lực lượng thi hành quyết định khám xét là điều tra viên đã được quy định
tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của Điều tra viên thì Bộ luật Tố tụng năm 2015 cũng quy định thêm một số cán bộ
điều tra ngoài lực lượng công an nhân dân, quân đội nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm tương tự điều tra viên để tiến hành một số hoạt động điều tra, cụ thể:
- Giám đốc, Phó giám đốc Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy; Cục trưởng, Phó
Cục trưởng, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân, Giám thị, Phó Giám thị Trại
giam theo quy định của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự;

16

Điểm e Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

GVHD: Trần Hồng Ca

19


SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
- Giám thị, Phó Giám thị Trại giam; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn
và tương đương17.
Như vậy, Bộ luật đã quy định rất cụ thể những chức vụ đảm nhiệm nào có thẩm
quyền ra lệnh khám xét và thi hành lệnh khám xét. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra
với người nghiên cứu luật là tại sao những người này lại có thẩm quyền ra lệnh khám
xét và thi hành lệnh khám xét mà người dân lại không có thẩm quyền khám xét (?).
Theo Hiến pháp năm 2013 thì “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp18”. Theo đó, cơ bản thì sơ đồ bộ máy nhà nước có 03 hệ
thống gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, cơ quan lập pháp đứng đầu là
Quốc hội, cơ quan hành pháp đứng đầu là Chính phủ và cơ quan tư pháp cao nhất là
Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong đó, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp19 và có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân20.
Còn Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp và có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất22.
21

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì thẩm quyền ra lệnh
khám xét thuộc về những người đảm nhiệm các chức vụ thuộc hệ thống tư pháp (theo

Sơ đồ bộ máy nhà nước Việt Nam). Bởi cơ quan tư pháp là cơ quan có nhiệm vụ bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,… mà Hiến pháp đã hiến định.
Vì vậy, thẩm quyền ra quyết định khám xét thuộc về những người này đảm bảo sự
công minh, rõ ràng của Pháp luật.
Ngoài ra, người dân không được Pháp luật cho phép tham gia cũng như ra
quyết định khám xét vì bởi mỗi người dân là một cá thể, còn những người có thẩm

17

Điểm e và g Khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013
19
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013
20
Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013
21
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013
22
Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013
18

GVHD: Trần Hồng Ca

20

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
quyền ra quyết định khám xét là đại diện cho một tập thể và tập thể đó có chức năng

và nhiệm vụ thực thi công tác khám xét do Pháp luật quy định.
Mặc khác, người dân tham gia hoạt động khám xét sẽ không đảm bảo tính
khách quan và có thể phát sinh hành động cố ý hủy hoại chứng cứ của vụ án. Từ đó,
quá trình điều tra thu thập chứng cứ ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cũng có quy định đối với các đối tượng sau
đây có thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp khám xét nhưng phải được Viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra các cấp; Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như hồ
sơ, trình tự thủ tục, thời hạn,… lại đang bị bỏ ngỏ, chưa được điều chỉnh. Điều này đã
gây cho Cơ quan điều tra nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện. Vấn
đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau.
Ngoài ra, trong trường hợp khẩn cấp không thể trì hoãn, những người sau đây
có quyền ra lệnh khám xét: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ
trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng,
Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh,
thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên
phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn
trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh
vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh
sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh
sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi
tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải
thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm
quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
Mục đích của việc tiến hành khám xét khẩn cấp nhằm hạn chế tối đa khả năng
thủ tiêu, cất giấu hoặc làm thay đổi tính chất những chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên
quan đến vụ án của tội phạm và các đối tượng hữu quan, từ đó góp phần nâng cao hiệu
quả của hoạt động khám xét. Bởi nếu hoàn tất thủ tục của quy trình khám xét theo quy

định của Pháp luật thì sẽ không còn đảm bảo tốt cho hoạt động điều tra. Đó là lý do
phải tiến hành khám xét khẩn cấp mà không cần thông qua Viện kiểm sát cùng cấp

GVHD: Trần Hồng Ca

21

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ
việc, vụ án ngay thời điểm đó.
Có thể thấy việc pháp luật ghi nhận và trao quyền ra lệnh khám xét cho những
chủ thể trên đã thể hiện sự linh hoạt, phù hợp của pháp luật trong những trường hợp
khẩn cấp, cần khám xét ngay. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định nghĩa vụ của các
chủ thể trên phải thông báo bằng văn bản đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong
thời hạn 24 giờ sau khi khám xong đã đảm bảo sự giám sát chặt chẽ về trình tự, thủ tục
khám xét, hạn chế những cuộc khám xét tràn lan, vô căn cứ.
Tuy nhiên, quy định này cũng bộc lộ hạn chế là chưa có hướng dẫn cụ thể về
việc xác định Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp lệnh khám xét được ban hành
khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Hơn nữa, những trường hợp không
thể trì hoãn là những trường hợp nào cũng không được quy định cụ thể trong Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 2015. Các cơ quan có thẩm quyền chủ yếu phải căn cứ vào diễn
biến, tính chất của từng vụ án để quyết định trường hợp nào là không thể trì hoãn, phải
tiến hành khám xét khẩn cấp.
Trong thực tiễn điều tra, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền đều xác định các
các trường hợp không thể trì hoãn theo những căn cứ như:
- Có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một
người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ

vật, tài liệu liên quan đến vụ án, người đang bị truy nã. Nếu không tiến hành khám xét
ngay thì rất có thể bị tẩu tán, tiêu hủy, người bị truy nã có thể lẩn trốn, tẩu thoát.
- Những đồ vật, công cụ, phương tiện đang ở trong người, chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm của một người có thể gây nguy hại cho những người xung quanh hoặc bọn tội
phạm có thể sử dụng để tiếp gây án tiếp tục.
Tuy nhiên, những căn cứ này chỉ mang tính tham khảo chứ không phải là quy
định của văn bản quy phạm pháp luật nên không có hiệu lực bắt buộc chung. Do đó,
nếu các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tài liệu này để xác định những trường hợp
không thể trì hoãn thì không thuyết phục về mặt pháp lý. Nội dung này người viết sẽ
kiến nghị hoàn thiện pháp luật ở Chương sau.
2.2.2. Thầm quyền tiến hành khám xét
Khám xét là một biện pháp điều tra được tiến hành trước hoặc sau khi khởi tố
vụ án hình sự hoặc trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Do đó, thẩm quyền
tiến hành khám xét thuộc về các cơ quan được giao thẩm quyền điều tra vụ án hình sự,

GVHD: Trần Hồng Ca

22

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
trước hết là Cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra gồm có cơ quan điều tra trong Công an
nhân dân, cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Cụ thể như sau:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân gồm: Cơ quan điều tra của Lực lượng
Cảnh sát nhân dân: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện) và cơ quan
điều tra của Lực lượng An ninh nhân dân: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ
quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ
quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh).
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân gồm: Cơ quan điều tra hình sự Quân
đội; Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và
tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực và cơ quan điều tra An ninh điều tra
Quân đội: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân
khu và tương đương.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm: Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Xuất phát từ thực tế là tội phạm có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực, ở tất cả
các địa bàn, vào bất kỳ thời điểm nào nên để có thể kịp thời ngăn chặn tội phạm, thu
thập chứng cứ ban đầu, hạn chế việc tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tang vật phạm tội, luật
tố tụng hình sự Việt Nam quy định giao cho một số cơ quan quản lý nhà nước trong
một số lĩnh vực và những cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự đất nước được
quyền tiến hành một số hoạt động điều tra. Do đó, những cơ quan này cũng có thẩm
quyền tiến hành khám xét.
Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Đây không phải là các cơ quan tiến hành tố
tụng, mà chỉ là các cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định và
những cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự xã hội. Các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ có thẩm quyền thực hiện một số
hoạt động điều tra ban đầu, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cho các cơ quan tiến hành tố
tụng theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, các cơ quan được giao tiến hành một số

GVHD: Trần Hồng Ca

23


SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


Đề tài: Quy định về biện pháp khám xét trong tố tụng hình sự
hoạt động điều tra nêu trên cũng chỉ được tiến hành khám xét trong phạm vi thẩm
quyền điều tra chứ không phải trong suốt giai đoạn điều tra như cơ quan điều tra.
Như vậy, người có thẩm quyền ra lệnh khám xét và người thi hành lệnh khám
xét là những chủ thể trực tiếp quyết định và thực hiện biện pháp điều tra khám xét đối
với những chủ thể bị áp dụng. Những người này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và những quy định khác có
liên quan đến khám xét, nếu có hành vi ban hành hoặc thi hành lệnh khám xét trái
pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà họ sẽ bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng được quy định trong Bộ
luật hình sự Việt Nam hiện hành.
2.3. Các biện pháp khám xét cụ thể
2.3.1. Khám người
Khám người là việc tiến hành tìm tòi, lục soát trong người, quần áo đang mặc
và các đồ vật đem theo, kể cả phương tiện đi lại của họ nhằm phát hiện và thu giữ
công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do tội phạm mà có hoặc đồ vật, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án.
2.3.1.1. Người bị khám
Người bị khám xét có thể là bị can, người bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, người đang bị truy nã hoặc người có mặt tại nơi khám xét.
Việc khám người chỉ được tiến hành khi có các căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều
192 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (đã trình bày tại phần căn cứ tiến hành khám
xét).
2.3.1.2. Trình tự, thủ tục tiến hành khám xét người
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì trình tự, thủ tục tiến
hành khám người được quy định như sau:

1. Khi bắt đầu khám xét người, người thi hành lệnh khám xét phải đọc lệnh và
đưa cho người bị khám xét đọc lệnh đó; giải thích cho người bị khám xét và những
người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Người tiến hành khám xét phải yêu cầu người bị khám xét đưa ra các tài liệu,
đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu họ từ chối hoặc đưa ra không đầy đủ các tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án thì tiến hành khám xét.

GVHD: Trần Hồng Ca

24

SVTH: Nguyễn Văn Đỉnh


×