Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.65 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 2
II. Các quy định hiện hành của luật tố tụng hình sự về vấn đề tạm giữ
trong tố tụng hình sự 3
1. Khái niệm tạm giữ 3
2. Mục đích của biện pháp tạm giữ 3
3. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ 3
4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ 5
5. Thủ tục tạm giữ 5
6. Thời hạn tạm giữ 7
7. Chế độ tạm giữ 9
8. Những biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản của người bị tạm
giữ 9
III. Những đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định về tạm giữ trong
tố tụng hình sự 10
1. Về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ 10
2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ 11
3. Về thời hạn tạm giữ 11
4. Về gia hạn tạm giữ 12
5. Về việc trả tự do cho người bị tạm giữ 13
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật
TTHS. Đó là những quan hệ luôn có 1 bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là
hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm
cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng
hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế


1
để tác động tới đối tựợng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưỡng chế là sự
tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ
những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì biện pháp ngăn chặn bao gồm:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để đảm bảo. Và trong bài tiểu luận này e xin được đi sâu tìm hiểu về tạm
giam trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị
khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn
tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.
Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng của luật tố tụng hình
sự, là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn
chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội,
ngăn ngừa người phạm tội, bị can bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc diều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo
đảm thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp và các văn
bản pháp luật khác.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS), các biện pháp
ngăn chặn bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
II. Các quy định hiện hành của luật tố tụng hình sự về vấn đề tạm giữ
trong tố tụng hình sự

1. Khái niệm tạm giữ
2
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những
người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo lệnh truy nã.
2. Mục đích của biện pháp tạm giữ
Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội,
hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo
điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định
tính chất hành vi của người bị tạm giữ. Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh
truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị
bắt
3. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ
Tạm giữ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo
quyết định truy nã.
1
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì đối tượng áp
dụng biện pháp tạm giữ bao gồm:
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ, vì trong
hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác
định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra.
Trong trường hợp người bị bắt khi phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm
tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không
có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ.
Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị
phát hiện nay ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về việc phạm tội của
mình. Đây là người đã thực hiện tội phạm nhưng chưa bị cơ quan có thẩm

quyền xác định đó là ai, mặc dù vụ án đã bị phát hiện hoặc chưa bị phát hiện,
như các trường hợp: cơ quan bảo vệ pháp luật biết có vụ án xảy ra (đã hoặc
1
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003
3
chưa khởi tố vụ án) nhưng chưa biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội;
hoặc vụ án chưa phát hiện được do xảy ra trong rừng sâu.
Người phạm tội đầu thú là người đã thực hiện tội phạm và đã bị phát hiện;
người đã bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt trốn khỏi nơi
giam, giữ; người có nghĩa vụ phải chấp hành án phạt tù nhưng đã trốn khỏi nơi
cư trú nay ra đầu thú. Đặc điểm chung của người đầu thú là cơ quan bảo vệ
pháp luật đã biết: nhân thân của họ (như họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh,
quê quán, dân tộc, tôn giáo…) và họ phạm tội gì, trốn từ lúc nào. Thực chất của
việc đầu thú là đầu hàng cơ quan pháp luật, biết không thể trốn mãi nên đã đến
trình diện và khai báo với cơ quan nhà nước về sự việc phạm tội của mình và
quá trình trốn tránh pháp luật để mong được hưởng sự khoan hồng, làm nhẹ tội.
Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai, Cơ quan
điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ
quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi
xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ người nào bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, tự thú, đầu thú hoặc bắt theo quyết định truy nã đều bị ra
lệnh tạm giữ. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng, sự việc đơn giản, không có căn cứ
cho rằng người phạm tội bỏ trốn, thông cung, cản trở việc điều tra hoặc tiếp tục
việc phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng thì có thể không bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giữ. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng
lấy lời khai, xác minh những tình tiết có liên quan đến hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội để làm căn cứ ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người đó.
4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ

Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81
của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm
giữ.
2
Như vậy có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm
người sau đây:
2
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003
4
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra
trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ;
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân
bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Do đó, theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên
có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị
bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND
phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt
người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền.
 Những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những
người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người
của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
5. Thủ tục tạm giữ
Thủ tục tạm giữ gồm có: quyết định tạm giữ, các công việc mà người thi
hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người.
Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải
ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người

bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền,
người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi
cho viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Đồng thời để bảo đảm công tác giám sát giam giữ, tránh vi phạm quyền tự do,
bất khả xâm phạm thân thể của công dân. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy
việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết, viện kiểm sát yêu cầu
cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ hoặc trực tiếp ra
5
quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và yêu cầu cơ quan điều tra đã ra lệnh tạm giữ
trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Còn nếu xét thấy việc tạm giữ có căn cứ
hoặc cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn.
Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ
hoặc tự mình ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau
đây:
- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là
người phạm tội tự thú, đầu thú;
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm
cho xã hội khônh đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự
việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ
ràng và không có biểu hiện.
Bên cạnh đó, người thi hành quyết định tạm giữ phải có trách nhiệm giải
thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ được quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 48 BLTTHS 2003:
“2. Người bị tạm giữ có quyền:
a. Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b. Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c. Trình bày lời khai;

d. Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
e. Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
f. Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo
quy định của pháp luật.”
6. Thời hạn tạm giữ
6

×