Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Mấy vấn đề bồi dưỡng học sinh giỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.2 KB, 28 trang )

Biểu tượng kép trong ca dao Việt Nam
(Nhân đọc Một biểu tượng kép về sự thuỷ chung trong ca dao)
-----
Con người ta đang sống trong một thế giới biểu tượng. Hay nói cách khác, một
thế giới biểu tượng đang sống trong mỗi chúng ta. “Biểu tượng là cái gì ngoài ý nghĩa vốn
có của nó còn hàm chứa một ý nghĩa khác, tức là ngoài nghĩa đen còn có nghĩa
bóng”( K.G. Jung) . Nghiên cứu về biểu tượng là lĩnh vực đã và đang được các nhà khoa
học thuộc nhiều ngành khác nhau quan tâm. Các biểu tượng góp phần làm nên bộ mặt của
một nền văn hóa ở những đường nét cơ bản nhất. những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu tượng
khơi gợi ra như một quy ước thẩm mỹ của cộng đồng…
Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao là những kí hiệu ngôn ngữ được lặp đi lặp lại
nhiều lần, có khả năng biểu hiện những ý nghĩa sâu xa; là những hình ảnh đã được dân
gian chọn lọc trong sử dụng và được thử thách qua nhiều năm tháng, thể hiện đậm nét
những đặc trưng truyền thống của VHDG.
Trong hệ thống biểu tương văn học dân gian, “Muối mặn-Gừng cay” thuộc biểu
tượng mang tính dân tộc. Tác giả Khải Nguyên đã rất tinh tế khi đưa ra những phân tích
lý giải :" Không phải ngẫu nhiên mà các từ có yếu tố “cay” đều có chung nét nghĩa bất ổn,
không lành (cay cú, cay cực, cay đắng, cay độc, cay nghiệt, chua cay, sâu cay…), còn các
từ có yếu tố “mặn” thì lại thể hiện sự thân thiết, gắn kết (mặn mà, mặn mòi, mặn nồng…).
Trong các vị thông thường, thì cay, đắng thuộc dương; mặn, ngọt, chua thuộc âm. “Cay”
gây ra bứt rứt, nóng nảy, “cay như hớt”, “cà cuống chết đến đít vẫn còn cay”, quả là khó
quên. “Mặn” hầu như không có tác dụng ngay, mà âm ỉ theo thời gian “ăn mặn, khát
nước” (đời cha ăn mặn, đời con khát nước) hoặc phải rút kinh nghiệm “mặn mất ngon,
giận mất khôn”, cũng không phải dễ quên.
Xét mặt “mùi đời”, có thể coi đây là hai “vị chủ”, tiêu biểu cho mặn nồng và cay
đắng, hai trạng thái của con người hay hai cách cư xử về một con người. Nhấn mạnh
“cay”, “mặn”; hai mặt đối lập của một chỉnh thể (“đĩa muối chấm gừng”) như vậy, cho
thấy sự nhìn nhận vấn đề hôn nhân rất khách quan: cay đắng hay mặn nồng là hai trạng
thái, tình huống song song tồn tại trong quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa người khác với
vợ chồng…
Muối mặn - gừng cay


là một biểu tượng kép bởi nó chứa đựng trong mình
nhiều tầng ý nghĩa, tượng trưng cho đôi bạn trẻ, cho ‘tình duyên”, thủy chung trong hôn
nhân. "
Khi tách riêng hai hình ảnh muối và gừng; lúc này mỗi hình ảnh có nghĩa biểu vật
và theo ngữ cảnh riêng, không mang nét nghĩa của biểu tượng
". (Khải Nguyên,
Một biểu
tượng kép về sự thuỷ chung trong ca dao: Muối mặn-Gừng cay.
(Nguồn:
).
Tương tự, "trầu-cau", "mai – trúc", “cây đa, giếng nước, ngôi đình”... Chỉ khi
được đặt trong "quần thể" của nó, ta mới thấy hết được ý nghĩa của biểu tượng này. Vì
thế từ bao đời nay những hình ảnh này vẫn tồn tại bên nhau trong các làng quê Việt Nam.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, có những trường hợp, các hình ảnh không đứng trong
"quần thể", người ta vẫn xem là "biểu tượng kép". Trong VHDG, mỗi biểu tượng nhiều khi
không chỉ có một nghĩa. Trong quá trình lưu truyền, các tác giả dân gian không ngừng mở
rộng đối tượng nhận thức qua các biểu tượng, vì vậy, các tín hiệu thẩm mỹ này thường
mang tính đa nghĩa. Khi xây dựng biểu tượng, nghệ nhân dân gian đã qua sự chọn lựa,
sàng lọc từ sự vật một hoặc một số khả năng gợi liên tưởng nào đó, tạo ra cho sự vật
những ý nghĩa mới. Những nét nghĩa này được sử dụng nhiều lần, được tập thể công nhận
và trở thành nghĩa biểu tượng. Khi ấy, người ta hiểu ý nghĩa của biểu tượng theo một thứ
phản xạ được xây dựng bằng thói quen, bằng quy ước văn hóa của cộng đồng.
Chẳng hạn, ngày xưa các cô thôn nữ dùng yếm để che ngực. Cái yếm thường là do
người dùng tự cắt may. Chính vì thế mà nó trở thành biểu tượng nữ tính:
-Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
-
Trầu em têm tối hôm qua
Cất trong dải yếm mở ra mời chàng

- Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh
- Yếm trắng mà vó nước hồ
Vó đi vó lại anh đồ yêu thương…

Hình ảnh chiếc cầu trong ca dao được nhắc đến rất nhiều:
cầu tre, cầu ván, cầu
đá, cầu xây…cầu mùng tơi, cầu sợi chỉ, cầu cành hồng
… Chiếc
cầu dải yếm
không có
trong thực tế nhưng lại là chiếc cầu đẹp nhất, nên thơ và gợi cảm nhất trong ca dao. Bản
"thiết kế" của "kiến trúc sư" trong bài ca dao này chắc chắn là của một người con gái ở độ
tuổi mười tám, đôi mươi… tình yêu vừa chớm nở. Người con gái nghĩ ra chiếc cầu này là
để "bắc" riêng cho một người "sang chơi". Ý nghĩ đó thật táo bạo, tinh nghịch nhưng cũng
rất đằm thắm và đầy nữ tính, thể hiện ước muốn được gần nhau. Người con gái đã nghĩ
thật và nói thật, nhưng là cái thật của ước mơ, khát vọng chứ không phải là cái thật trong
hiện thực cuộc đời. Trong trường hợp này, chiếc yếm trở thành biểu tượng cho khát vọng
tình yêu mãnh liệt của những chàng trai, cô gái lao động trong xã hội xưa.
Yếm là mảnh vải hình vuông (hoặc hình thoi) đeo trước ngực, phía trên khoét tròn
làm cổ, hai góc bên đính với dải để buộc ra sau lưng. Khi trời nóng bức, người ta mặc váy
yếm, hai tay và lưng để trần. Yếm có nhiều mầu sắc: yếm nâu mặc đi làm đồng, yếm
trắng mặc thường ngày. Yếm thắm, yếm đỏ, yếm hồng, yếm đào mặc trong dịp lễ hội…
Trang phục lễ hội cổ truyền, người thiếu nữ không thể không có hình ảnh cái yếm (Xem
thêm:
Ý nghĩa nhân văn trong trang phục truyền thống
- Trần Ngọc Dung).
Như vậy, chiếc yếm cũng đã trở thành một biểu tượng kép:
vừa là biểu tượng nữ
tính, vừa là biểu tượng cho một khát vọng tình yêu, may mắn, hạnh phúc.

Hay hình ảnh
mái đình, cây đa vẫn được xem một biểu tượng của làng quê truyền thống. Khi người ta ví
người nào đó với "cây đa, cây đề" thì cây đa trở thành biểu tượng cho sức làm việc quên
mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú… Có khi cây như như một nhân chứng
của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời:
-Tr
ǎ
m n
ǎ
m dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
-Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ

Có khi, cây đa còn là biểu tượng tâm linh của con người:

-Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề
-Cây thị có ma, cây đa có thần
"Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn.... Cây đa
được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng già
cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường được
dân chúng thắp hương chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu cho
những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân làng"
(Nguồn: /> Như vậy, cây đa là biểu tượng đẹp với nhiều ý nghĩa : vừa gần gũi với cuộc sống
người dân , vừa mang đậm yếu tố tâm linh của con người Việt Nam. Tính chất "biểu
tượng kép" của cây đa chính là ở đó…
Muốn hiểu được đầy đủ, trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng, cần có vốn sống, vốn
văn hóa, vì mỗi biểu tượng đều có một tầng nền lịch sử - xã hội - văn hóa riêng của nó.
Bài viết của Khải Nguyên là một sự tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc. Với một người làm
công tác sưu tầm, nghiên cứu VHDG, đi tìm những "biểu tượng kép" trong ca dao là một

công việc thú vị. Từ bài viết này, mong tác giả Khải Nguyên có thể phát triển, mở rộng ra
thành một đề tài lớn hơn "Đi tìm những biểu tượng kép trong ca dao Việt Nam" thì sẽ thú
vị và có ý nghĩa lớn lao hơn.
Có thể là như thế.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC
SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT KHÔNG CHUYÊN
1. Đặt vấn đề
1.1. Bàn về chuyện dạy văn trong không khí văn chương buồn
tẻ như ở nhà trường THPT hiện nay đã khó, nói đến chuyện bồi
dưỡng học sinh giỏi (HSG) môn văn lại càng khó hơn. Với tôi,
chuyện người thầy phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như
người trồng hoa. Bông hoa đẹp bởi bàn tay người chăm bón, nâng
niu. Nhưng đâu phải khi nào hoa cũng khoe sắc rực rỡ. Chỉ cần
một cơn trở gió, một sự thay đổi tiết trời, một sự lãng quên, bất
cẩn của người là hoa kém sắc, cây không trổ bông.
Có đồng nghiệp nói với tôi rằng, giỏi văn chỉ là "thiên bẩm".
Là người trực tiếp giảng dạy môn văn đã nhiều năm ở phổ thông,
tôi không nghĩ như vậy. Với tôi, người thầy dạy văn trong trường
học không phải là chất xúc tác trong quá trình biến đổi chất!
Năng khiếu và tri thức văn chương nói riêng, tri thức văn hoá nói
chung được bồi đắp theo năm tháng, gắn liền với sự nhạy bén của
tố chất cá nhân đã làm nên hồn văn ở học sinh.
1.2. Trong nhà trường THPT, nhất là ở những trường không
chuyên, việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi như thế nào để
đạt kết quả tốt, quả là một vấn đễ không đơn giản. Trường Huỳnh
Thúc Kháng chúng tôi, việc bồi dưõng HSG đã có sự quan tâm và
đầu tư nhất định. Hằng năm, qua các kỳ thi HSG tỉnh chúng tôi đã
gặt hái được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học
sinh đạt giải môn văn lại chưa nhiều. Điều này có nguyên nhân từ

cả hai phía. Trước hết là từ phía người thầy. Do phải bám sát việc
thực hiện theo phân phối chương trình, người thầy không có điều
kiện đầu tư về chiều sâu trong giờ giảng; thời gian tập trung bồi
dưỡng cho HSG cũng không nhiều (thường thì những em được
chọn đi thi HSG chỉ được tập trung bồi dưỡng 8 - 10 buổi); Trong
số thời gian hạn hẹp đó, giáo viên bộ môn được phân công mỗi
người dạy từ 2- 3 buổi; mỗi người dạy theo cách riêng của mình.
Về phía học sinh, ngoài vấn đề năng khiếu, do phải học nhiều
môn nên việc đầu tư thời gian tự bồi dưỡng môn văn không được
nhiều, quyết tâm đoạt giải của các em lại chưa cao. Thiết nghĩ,
việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi nếu được đầu tư một
cách thích đáng và và tiến hành bài bản, kết quả sẽ khả quan hơn.
Và kéo theo đó là hứng thú học văn sẽ phần nào được cải thiện.
Việc phát hiện bồi dưỡng năng khiếu văn chương, vì vậy, là việc
cần phải ý thức thường xuyên, trước hết là đối với những giáo
viên trực tiếp giảng dạy. Năng khiếu văn, càng được phát hiện và
bồi dưỡng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhưng phát hiện và
bồi dưỡng như thế nào cho có hiệu quả là cả một vấn đề cần được
trao đổi kỹ lưỡng…
2. Phát hiện Học sinh giỏi văn
2.1. Thế nào là học sinh giỏi văn?
HSG văn trước hết phải là những học sinh có niềm say
mê, yêu thích văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện
thường xuyên, liên tục và bằng ý thức tự giác trong học tập, như
soạn bài cẩn thận chu đáo, luôn chủ động tiếp thu kiến thức trong
giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các bài
làm văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập,
thực hành rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê
sẽ giúp các em chịu khó tìm tài liệu để mở mang kiến thức. Và
quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát huy được trí tưởng

tượng, sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình đã
đọc, đã học.
HSG văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh,
như tiếp thu nhanh, có tri nhớ bền vững, có khả năng phát hiện
vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng mới trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống,
thuộc nhiều thơ văn trong và ngoài chương trình qua sự tìm đọc,
tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng nhiều càng tốt về con người và
xã hội.
Chẳng hạn nhờ có sự say mê tìm đọc mà một học sinh đã biết
thêm ý kiến của thầy giáo Mai Văn Hoan về cách hiểu câu thơ:
"Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" là phải dựa vào đặc điểm
cây bồ đề - một loại cây cao chừng15m, búp non, phủ lông mịn
màu vàng, hoa nhỏ mọc thành chùm. Bồ đề có hai loại : loại hoa
trắng gọi là cánh kiến trắng, loại hoa vàng gọi la cánh kiến vàng.
Loại cánh kiến hoa vàng thường mọc trên vùng sỏi sạn ở độ cao
300-700 m. Nhựa của nó vừa là loại thuốc quí , vừa để chế ra chất
keo gắn kết rất chặt. Phải chăng vì những phẩm chất đó mà nhà
thơ Chế Lan Viên so sánh "Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" -
một tình yêu đẹp được ươm mầm trong gian khổ, khó khăn và
khăng khít keo sơn mãi mãi.
Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường khó
giấu của HSG văn là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước
mọi vấn đề, trước cuộc sống. Biểu hiện thường thấy ở những học
sinh này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn trước những vấn đề đặt
ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng của giáo
viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình cảm, thích
gần gũi với thầy cô, bạn bè và với mọi người, hay bộ lộ quan
điểm tình cảm và chiều sâu nội tâm của mình thông qua cách phát
biểu trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài viết. Sự nhạy cảm ở các

em luôn gắn liền sự thông minh và theo tôi thì sự thông minh của
HSG văn là sự thông minh của cả khối óc lẫn con tim.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi
dào, biết sử dụng chính xác chúng trong những trường hợp khác
nhau. Thường những em HSG văn đều có khả năng diễn đạt mượt
mà, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, diễn đạt hàm súc và có bản sắc
riêng. Năng khiếu ở HSG văn thường đi kèm với các biểu hiện
bên ngoài như ánh mắt sáng, cách nói lưu loát, gãy gọn bởi ngôn
ngữ diễn đạt là cái vỏ của tư duy. Một học sinh hay nói lay, nói
lặp, nói dài dòng mà lượng thông tin ít, khả năng lựa chọn ngôn
ngữ trong diễn đạt hạn chế … quyết không thể là một học sinh có
tư duy trong sáng và có năng khiếu học văn. HSG văn thường là
những học sinh nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
2.2. Phát hiện học sinh giỏi văn
Từ quan niệm về HSG nói trên, việc phát hiện và bồi
dưỡng học sinh giỏi cần được tiến hành từ đầu lớp 10. Cơ sở của
việc tuyển chọn của chúng tôi là:Thứ nhất, tìm hiểu kết quả của
học sinh ở cấp THCS qua điểm tổng kết, điểm thi tốt nghiệp,
điểm thi học sinh giỏi và nếu có thể, tham khảo thêm ý kiến giáo
viên đã trực tiếp giảng dạy học sinh ở cấp học đó để nắm bắt
những mặt mạnh, mặt yếu của học sinh.Thứ hai, chúng tôi xem
bài viết đầu tiên của học sinh (đặc biệt là học sinh lớp 10) như
một dấu ấn để bắt đầu cuộc hành trình phát hiện năng khiếu của
học sinh. Công việc của người thầy trong bài đầu tiên này là kiểm
tra chất giọng, chất văn, cách nghĩ của học trò. Những học sinh
đạt được cả chất văn và ý văn trong một bài viết không phải
nhiều, không phải đều. Cái tật lộ ra ở từng học trò phải được nhận
biết, nét tài hoa của từng học sinh cần phải được ghi nhận và trân
trọng. Khi chấm bài, thầy cô không chỉ chú trọng những bài chu
đáo, khuôn mẫu, đầy đủ...mà còn quan tâm đến những bài có thể

có chỗ chưa sâu, nhưng có chỗ độc đáo, sâu sắc… phải sửa kỹ,
phê kĩ, thật sự nghiêm khắc khi đánh giá và có nhật kí chấm bài.
Dĩ nhiên, một bài viết không thể đánh giá được quá trình nhưng
đó là sự khởi đầu để định hướng phát hiện, bổ sung ở những bài
viết tiếp theo vì việc tuyển chọn HSG không chỉ dừng lại ở một
số bài viết mà phải theo dõi cả quá trình học tập.
3. Bồi dưỡng HSG văn
3.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HSG
Theo phân phối chương trình môn văn, số tiết dạy chính
khoá trong tuần của giáo viên ở trường THPT không chuyên, chỉ
bằng 1/2 số tiết dạy của giáo viên trường chuyên. Thời lượng để
dạy một tác phẩm cũng ít hơn rất nhiều. Vì vậy, giáo viên không
có điều kiện đi sâu, giảng kỹ tác phẩm; học sinh ít có cơ hội để
được ôn luyện bài bản như học sinh ở các trường chuyên. Đây là
một thực tế hết sức bất lợi cho cả thầy và trò trường không
chuyên trong những kì thi HSG tỉnh vì cả học sinh trường chuyên
và không chuyên đều cùng thi chung một đề (dĩ nhiên, những học
sinh trường chuyên là những học sinh đã được tuyển chọn kỹ
lưỡng lúc vào trường lại được học tập, bồi dưỡng có hệ thống sẽ
có lợi thế hơn nhiều so với các em ở trường không chuyên).
Những khó khăn đó chính là bài toán nan giải đối với những giáo
viên giảng dạy ở trường không chuyên như chúng tôi. Tuy nhiên,
dù khó khăn bao nhiêu chúng tôi cũng phải tìm được một cách
giải, một lối thoát cho mình.
Sau khi đã phát hiện và thành lập được đội ngũ HSG
công việc tiếp theo là xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch
bồi dưỡng HSG (Bao gồm cung cấp kiến thức, hướng dẫn tự học
và rèn luyện kỹ năng). Các khâu trên càng thực hiện chu đáo bao
nhiêu, kết quả càng tốt bấy nhiêu. Trong phạm vi SKKN này tôi
chỉ xin trình bày, trao đổi một vài kinh nghiệm trong việc rèn

luyện kỹ năng làm văn cho HSG trong khoảng thời gian cho phép
của nhà trường.
3.2. Các bước rèn luyện kỹ năng làm văn
3.2.1. Cách lựa chọn hướng ra đề
Thực tế giảng dạy giúp tôi ý thức một cách sâu sắc
rằng, việc ra đề là khâu quan trọng đầu tiên của quá trình phát
hiện, kiểm tra, đánh giá và lựa chọn HSG. Đề đúng và hay sẽ
phân hoá được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm trúng điểm
mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh từ đó có thể đánh giá khách
quan, chính xác, công bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của
học sinh; đồng thời tạo được niềm tin và hứng thú học tập cho
học sinh, khi hiểu được năng lực của mình. Ngược lại, đề thiếu
chính xác, sáo mòn không những không đánh giá được chính xác
về năng lực học sinh mà còn làm giảm thiểu hững thú học văn,
tính độc lập sáng tạo của học sinh. Và hậu quả của nó là việc rèn
kỹ năng sẽ trở nên vô nghĩa.
Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi các cấp trong
những năm qua, chúng tôi nhận thấy, đề thường có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ văn
chương. Phạm vi thường xoay quanh những vấn đề cốt lõi của
chương trình như: chức năng và đặc trưng của văn học nghệ
thuật, phẩm chất của người nghệ sỹ, phong cách của nhà văn...
hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc sắc, trong đó không ít
tác phẩm còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau (Chẳng hạn :Trao
duyên, Hai đứa trẻ, Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Tống biệt
hành, Thơ duyên...), hoặc phân tích một số tác phẩm để nêu bật
một vấn đề nào đó liên quan đến phong cách của một tác gia, hay
một đặc điểm quan trọng của tiến trình lịch sử văn học dân tộc...
Nhìn chung, tinh thần nhất quán của đề thi HSG là theo sát
chương trình. Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề rèn luyện kỹ

năng cho học sinh, tôi thường tập trung vào một số dạng đề cơ
bản sau:
a. Đề kiểm tra khả năng cảm thụ tác phẩm văn học
Dạng đề này phải gắn với những tác phẩm hay có trong chương
trình.

×