TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======
BÙI THỊ DIỆU LINH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp phát triển ngôn ngữ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LÊ THỊ LAN ANH
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non đã giúp đỡ em trong quá
trình học tập tại trƣờng và tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
Đặc biệt em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo T.s Lê Thị Lan Anh –
ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn chỉ bảo em trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành khóa luận này.
Qua đây, em xin gửi đến Ban giám hiệu và các cô giáo trƣờng mầm non
xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, cùng các bạn trong khoa
Giáo dục Mầm non lời cảm ơn chân thành nhất.
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2016
Sinh viên
Bùi Thị Diệu Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu và kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chƣa đƣợc
công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2016
Sinh viên
Bùi Thị Diệu Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chƣơng 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỀ XUẤT MỘT
SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI .................. 7
1.1 Cơ sở lí luận ................................................................................................ 7
1.1.1. Cơ sở tâm lí ............................................................................................. 7
1.1.2. Cơ sở sinh lí ............................................................................................ 9
1.1.3 Cơ sở ngôn ngữ học ............................................................................... 11
1.1.4. Từ và vốn từ .......................................................................................... 13
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 16
1.2.1. Thực trạng nhận thức và phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi của giáo
viên .................................................................................................................. 16
1.2.2. Thực trạng vốn từ và hứng thú phát triển vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi ...... 16
1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng ................................................................. 16
Chƣơng 2: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO ....................... 18
TRẺ 5 – 6 TUỔI .............................................................................................. 18
2.1 Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn ...................................... 18
2.1.1 Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non ......................................................... 18
2.1.2 Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi......................................... 24
2.2 Biện pháp................................................................................................... 25
2.2.1 Tạo môi trƣờng chữ................................................................................ 25
2.2.2 Mở rộng phạm vi tiếp xúc ...................................................................... 30
2.2.3 Sử dụng một số trò chơi ......................................................................... 31
2.2.4 Kết hợp với phụ huynh để phát triển vốn từ cho trẻ .............................. 35
Chƣơng 3: THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM ........................................................... 37
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XXI, xu hƣớng toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ đang đặt ra nhiều yêu cầu với việc đào tạo nguồn nhân lực của
mỗi quốc gia. Ngƣời lao động trong thời đại mới phải có năng lực, trình độ,
tích cực chủ động sáng tạo và nhất là thế hệ trẻ phải đủ bản lĩnh, tri thức đặc
biệt là phải tự tin trong giao tiếp. Giáo dục đã và đang là mối quan tâm hàng
đầu của các cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Bậc học giáo dục mầm non là
một mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân; có nhiệm vụ hoàn
thành và phát triển nhân cách trẻ tạo ra những thế hệ trẻ Việt Nam có đầy đủ
phẩm chất, trí tuệ, thể chất cũng nhƣ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
hội. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ, ngôn ngữ đóng
vai trò vô cùng quan trọng. Nhà giáo dục Usinxki K.D đã từng nói “Tiếng mẹ
đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ và là kho tàng của mọi tri thức.” Còn
nhà sƣ phạm Nga ChiKhieva E.L nói rằng: “Ngôn ngữ là công cụ của tư duy,
là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng văn hóa của dân
tộc, của nhân loại.”
Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ, phƣơng tiện để trẻ giao tiếp, nói lên
nhu cầu của bản thân, là cầu nối giữa trẻ với bạn bè, cô giáo, gia đình cũng
nhƣ xã hội. Ngôn ngữ là thành tựu lớn nhất của con ngƣời – là một hệ thống
tín hiệu đặc biệt. Đồng thời, ngôn ngữ cũng là phƣơng tiện giao tiếp quan
trọng nhất của các thành viên trong xã hội loài ngƣời. Nhờ có ngôn ngữ con
ngƣời có thể trao đổi cho nhau những hiểu biết, những kinh nghiệm, bày tỏ
với nhau những nguyện vọng, ý muốn và cùng nhau thực hiện những dự định
tƣơng lai.
1
Trên con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội, một nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa cần đào tạo những con ngƣời hoàn thiện về mọi mặt. Trong đó phát
triển vốn từ cũng là điều vô cùng quan trọng, vốn từ là nền móng để phát triển
ngôn ngữ. Vốn từ đƣợc sử dụng trong lời nói đƣợc coi là một phƣơng tiện tác
động rất tinh tế đến hệ thống xây dựng môi trƣờng sƣ phạm có định hƣớng,
bởi trong ngôn ngữ nói không chỉ có thông tin mà có cả ý nghĩ tình cảm.
Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, ngôn ngữ phát triển
rất mạnh mẽ, tạo ra những điều kiện, cơ hội để trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của nền văn hóa loài ngƣời. Ngôn ngữ giúp trẻ tích lũy kiến
thức, phát triển tƣ duy, giúp trẻ giao tiếp đƣợc với mọi ngƣời xung quanh, là
phƣơng tiện giúp trẻ điều chỉnh, lĩnh hội những giá trị đạo đức mang tính
chuẩn mực. Ngày nay, trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ chúng ta càng
thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục – phát triển trọn ven nhân
cách trẻ.
Trẻ 5 – 6 tuổi là lứa tuổi chuẩn bị chuyển sang trƣờng tiểu học, đây là
bƣớc ngoặt quan trọng trong cuộc sống của trẻ. Vì trẻ phải chuyển qua một lối
sống mới với sự thay thế của hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập.
Hiện nay trẻ biết phát âm đúng tiếng mẹ đẻ, nói có ngữ điệu, đúng ngữ
pháp, biết biểu đạt ý nghĩ bằng ngôn ngữ, biết dùng ngôn ngữ làm phƣơng
tiện chính để tiếp xúc, giao lƣu… là hoàn toàn có thể đạt đƣợc ở lứa tuổi 5 – 6
tuổi. Nhƣng hiện nay ở các trƣờng mầm non, trẻ 5 – 6 tuổi nói ngọng còn rất
nhiều; vốn từ nghèo nàn, hạn chế, không diễn đạt đƣợc bằng lời suy nghĩ của
mình một cách mạch lạc. Đồng thời việc phát triển vốn từ cho trẻ cũng còn
nhiều khó khăn và hạn chế. Bản thân chúng tôi là những giáo viên mầm non
trong tƣơng lai thấy rằng việc phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi đang là vấn
đề cấp bách.
2
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp phát
triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trẻ em luôn giành đƣợc rất nhiều sự quan tâm của gia đình, nhà trƣờng
và xã hội. Những vấn đề về trẻ em đã đƣợc các nhà nghiên cứu khoa học hết
sức quan tâm. Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo đặc biệt là mẫu giáo lớn
không còn là một đề tài mới mẻ, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ở
nhiều khía cạnh khác nhau và đã đƣợc xã hội ghi nhận.
Năm 2003, tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã cung cấp những tri thức cơ
bản và tiếng Việt trong hai tập “Tiếng Việt”, NXB Đại học Sƣ phạm; từ đó
giúp giáo viên mầm non có vốn kiến thức cơ bản phục vụ tốt việc phát triển
ngôn ngữ mẹ đẻ cho trẻ mầm non.
Trong cuốn “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, NXB Đại học Sƣ
phạm, năm 2004, Nguyễn Xuân Khoa cũng đã nghiên cứu rất kĩ sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo, trên cơ sở những đánh giá chung về đặc điểm sinh
lí của trẻ lứa tuổi này. Dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học với
những bộ môn khác, ông đã đƣa ra đƣợc một số phƣơng pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển vốn từ cho trẻ.
Ngoài ra, ông cũng đƣa ra các cách sửa lỗi phát âm và một số trò chơi nhằm
phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo.
Tiếp theo cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi”,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, các tác giả Hoàng Thị Oanh –
Phạm Thị Việt – Nguyễn Kim Đức đã nói lên tầm quan trọng của ngôn ngữ
trong việc giáo dục toàn diện cho trẻ và nêu sơ lƣợc nội dung, phƣơng pháp,
biện pháp để luyện phát âm, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong cuốn sách “Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005.
3
Và trong cuốn “Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non”, 2005, tác giả
Nguyễn Ánh Tuyết đã trình bày sự phát triển vốn từ của trẻ về mặt số lƣợng
cũng nhƣ cơ cấu từ loại.
Tạp chí Giáo dục mầm non có rất nhiều bài viết về cách tổ chức, quản
lí, những sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên và cán bộ quản lí ngành mầm
non. Trong đó cũng có khá nhiều bài viết về vấn đề phát triển ngôn ngữ và
vốn từ cho trẻ mầm non. Trong tạp chí Giáo dục mầm non số 1/2006, tác giả
Đinh Thị Uyên có bài dịch tìm hiểu về chƣơng trình phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mầm non Hàn Quốc. Đây là một góc nhìn mở cho nền giáo dục mầm non
Việt Nam hiện nay.
Đứng trên phƣơng diện một nhà giáo dục học, một nhà tâm lí học, tác
giả Nguyễn Ánh Tuyết đã nghiên cứu ý nghĩa của truyện cổ tích trong việc
bồi dƣỡng cảm xúc lành mạnh và trong sáng góp phần giáo dục đạo đức cho
trẻ trong cuốn “Giáo dục mầm non, những vấn đề lí luận thực tiễn”, năm
2007, NXB Đại học Sƣ phạm.
Không dừng ở đó, tác giả Đinh Hồng Thái trong cuốn “Phát triển ngôn
ngữ tuổi mầm non”, NXB Đại học Sƣ phạm, năm 2014, cũng chú trọng đến
dạy nói cho trẻ, phát triển ngôn ngữ thông qua các thành phần của ngữ pháp
tiếng Việt, phát triển lời nói mạch lạc, phát triển vốn từ nghệ thuật cho trẻ qua
các tác phẩm văn học để tạo tiền đề tốt cho trẻ chuẩn bị vào lớp Một.
Nhƣ vậy, vấn đề này đã đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu tâm lí, ngôn ngữ
quan tâm, tuy nhiên chƣa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu về việc phát triển
vốn từ cho riêng trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn. Và chính vì thế chúng tôi đi nghiên
cứu về vấn đề này.
4
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu vấn đề này nhằm phát triển vốn từ cho trẻ 5-6
tuổi
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: Một số biện pháp phát triển vốn từ
4.2. Phạm vi
Chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi ở
trƣờng mầm non xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
- Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi
- Thể nghiệm sƣ phạm
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phƣơng pháp
sau:
-
Phƣơng pháp điều tra
-
Phƣơng pháp thống kê
-
Phƣơng pháp so sánh
-
Phƣơng pháp chuyên gia
-
Phƣơng pháp tực nghiệm
-
Phƣơng pháp tổng hợp
5
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung khóa luận đựơc chia thành 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đề xuất một số biện pháp phát
triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi (Trƣờng mầm non xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình)
Chƣơng 2: Những biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi
Chƣơng 3: Thể nghiệm sƣ phạm
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở tâm lí
Trẻ 5 – 6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi mầm non.
Ở giai đoạn này, nhiều cấu tạo tâm lí đặc trƣng của con ngƣời đã đƣợc hình
thành trƣớc đây, đặc biệt trong độ tuổi mẫu giáo lớn vẫn tiếp tục phát triển
mạnh.
Con ngƣời khác xa với con vật nhờ có ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là
phƣơng tiện vừa là điều kiện để con ngƣời giao lƣu. Trong hoạt động học tập,
ngôn ngữ là công cụ có giá trị, có tác dụng vô cùng to lớn. Ngôn ngữ vừa là
công cụ thực hiện hóa tƣ duy, lĩnh hội tri thức vừa nói lên khả năng trí tuệ của
con ngƣời. Ngôn ngữ và tƣ duy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tác động
qua lại lẫn nhau; tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tƣ duy phát triển tốt.
Đứng ở góc độ tâm lí học, các nhà ngôn ngữ thấy rằng việc tiếp thu
ngôn ngữ có nhiều điểm khác so với tiếp thu kiến thức trong các lĩnh vực
khác. Ngôn ngữ đƣợc hình thành rất sớm. Ngay từ giai đoạn hài nhi ở trẻ đã
hình thành những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp với
ngƣời lớn ngày càng tăng làm nảy sinh khả năng nói của trẻ. Trẻ không có ý
thức về ngôn ngữ nhƣng bằng cách bắt chƣớc có tính chất bản năng, trẻ sẽ học
đƣợc cách nói của ngƣời lớn xung quanh mình.
Sự phát triển mọi mặt của trẻ mẫu giáo chƣa hoàn thiện, còn non nớt.
Hoạt động học tập đòi hỏi sự căng thẳng về trí tuệ và thể lực, đòi hỏi sự chú ý
có chủ định kéo dài, đòi hỏi sự hoạt động nhiều mặt của trẻ. Trẻ 5 – 6 tuổi,
chú ý không chủ định phát triển mạnh, chú ý có chủ định đã xuất hiện nhƣng
7
còn hạn chế. Đặc điểm trí nhớ của trẻ mẫu giáo là tính trực quan hình tƣợng,
tính không chủ định nhờ tác động một cách tự nhiên của những ấn tƣợng hấp
dẫn bên ngoài. Trí nhớ trực quan phát triển mạnh hơn trí nhớ từ ngữ - logic.
Ghi nhớ máy móc là đặc điểm nổi bật, trẻ ghi nhớ những sự vật, hiện tƣợng
cụ thể dễ dàng hơn nhiều so với lời giải thích dài dòng. Giai đoạn 5 – 6 tuổi,
trí nhớ của trẻ có một bƣớc biến đổi về chất. Trí nhớ chủ định xuất hiện và
phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục đích và phải nhờ đến công cụ tâm lí
nhƣ sơ đồ, biểu đồ và chữ viết. Biểu tƣợng của trí nhớ ở trẻ 5 – 6 tuổi mang
tính khái quát hơn. Trong quá trình tƣởng tƣợng trẻ sử dụng các biểu tƣợng
của trí nhớ.
Ngôn ngữ giúp trẻ biết điều khiển chú ý của mình, biết tự giác hƣớng
chú ý của mình vào những đối tƣợng nhất định, khối lƣợng chú ý tăng và sức
tập trung chú ý trở nên bền vững hơn. Ghi nhớ của trẻ 5 – 6 tuổi cũng ngày
càng có tính chủ định hơn so với trẻ 3 – 4 tuổi. Tuy vậy cho đến tuổi mẫu giáo
lớn (5 – 6 tuổi) các quá trình tâm lí không chủ định vẫn chiếm ƣu thế trong
hoạt động tâm lí của trẻ, ngay cả hoạt động trí tuệ.
Đặc điểm tâm lí của trẻ trong việc phát triển ngôn ngữ:
- Đặc điểm về vốn từ
Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng từ 1300 – 2000 từ. Danh từ và
động từ trẻ vẫn chiếm ƣu thế, tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều
hơn.
Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian nhƣ: Cao
thấp, dài ngắn, rộng hẹp; các từ chỉ tốc độ nhƣ: nhanh – chậm; các từ chỉ màu
sắc: đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái niệm tƣơng đối nhƣ: hôm
qua, hôm nay, ngày mai trẻ dùng chƣa chính xác. Một số trẻ biết sử dụng các
từ chỉ màu sắc nhƣ: xám, xanh lá cây, tím, da cam. 100% trẻ biết sử dụng các
8
từ cao thấp, dài, ngắn, rộng, hẹp; 55% số trẻ đếm đƣợc từ 1 – 10, tuy nhiên trẻ
sử dụng một số từ còn chƣa chính xác.
Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không? (mót thay cho từ muốn)
Phát triển vốn từ cho trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, có khoa học
nhằm cung cấp,làm giàu vốn từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ, củng cố
và tích cực hóa vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong
hoạt động giao tiếp.
1.1.2. Cơ sở sinh lí
Cho đến lúc ra đời, não bộ của trẻ chƣa phát triển đầy đủ, mặc dù
hình thái và cấu tạo giải phẫu của nó không khác với não của ngƣời lớn là
mấy. Ở trẻ sơ sinh, não bộ có kích thƣớc nhỏ, khoảng 370 – 392 gam (1/8 – 1/
9 trọng lƣợng cơ thể). Trong 9 năm đầu, trọng lƣợng não ngƣời tăng lên mạnh
mẽ. Chẳng hạn, trẻ đƣợc 6 tháng tuổi, trọng lƣợng của não tăng lên gấp đôi
lúc sơ sinh; trẻ 3 tuổi tăng gấp ba và đa số các tế bào thần kinh đã đƣợc biệt
hóa.
Học thuyết về các hệ thống tín hiệu đã khẳng định: Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt động đặc biệt của vỏ bán cầu đại não. Hệ
thống tín hiệu thứ hai có đƣợc nhờ những kích thích trừu tƣợng nhƣ ngôn
ngữ, lời nói, chữ viết… Việc phát triển ngôn ngữ phải liên quan mật thiết tới
việc phát triển và hoàn thiện bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung.
Trong ba năm đầu là kết thúc sự trƣởng thành về mặt giải phẫu vùng não chỉ
huy ngôn ngữ, vì thế phải phát triển ngôn ngữ đặc biệt là vốn từ cho trẻ đúng
lúc mới đạt kết quả tốt.
Để có thể giao tiếp tốt, chúng ta không thể không kể đến bộ phận
máy phát âm. Mỗi con ngƣời sinh ra đã có sẵn bộ máy phát âm, đó là tiền đề
vật chất để sản sinh âm thanh ngôn ngữ. Đó là một trong những điều kiện vật
chất quan trọng nhất mà thiếu nó không thể có ngôn ngữ; nếu nhƣ cấu tạo của
9
nó có một khiếm khuyết nào đó (chẳng hạn nhƣ sứt môi, hở hàm ếch, ngắn
lƣỡi…) thì việc hình thành lời nói cũng hết sức khó khăn. Khi sinh ra, mỗi
con ngƣời không phải đã có ngay một bộ máy phát âm hoàn chỉnh. Chính lứa
tuổi mầm non là giai đoạn hoàn thiện dần dần bộ máy đó: sự xuất hiện và
hoàn thiện của hai hàm răng, sự vận động của môi, lƣỡi của hàm dƣới… Quá
trình đó diễn ra tự nhiên theo các quy luật sinh học, nó phát triển và hoàn
thiện cùng với sự lớn lên của trẻ. Trong thực tế có những trẻ cùng sinh ra
nhƣng có những trẻ ngôn ngữ phát triển rất tốt, có trẻ không nói ngọng. Có sự
khác nhau nhƣ thế là do bộ máy phát âm khác nhau và quá trình chăm sóc
giáo dục cũng khác nhau. Trẻ nói ngọng là do bộ máy phát âm phát triển chƣa
hoàn thiện. Tuy nhiên bộ máy phát âm hoàn chỉnh mới chỉ là tiền đề vật chất.
Cùng với thời gian, quá trình học tập, rèn luyện một cách có hệ thống sẽ làm
cho bộ máy phát âm đáp ứng đƣợc nhu cầu thực hiện các chuẩn mực âm
thanh ngôn ngữ. Cấu tạo bộ máy phát âm gồm: dây thanh và các hộp cộng
hƣởng phía trên thanh hầu. Âm sắc và tiếng nói do tính chất của âm xác định
và phụ thuộc vào các khoang cộng hƣởng của phần trên các bộ phận thanh
quản, họng, khoang miệng, mũi. Bộ máy phát âm của trẻ chƣa phát triển đầy
đủ, các bộ phận tạo thành tiếng nói chƣa liên kết chặt chẽ nên trẻ phát âm còn
chƣa chuẩn, không chính xác. Do đó, việc nghiên cứu bộ máy phát âm để tìm
hiểu vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi hoàn toàn có cơ sở và mang tính khoa học.
Ở cuối tuổi mẫu giáo lớn, do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ đƣợc mở
rộng trong những năm trƣớc đây, tai nghe âm vị đƣợc rèn luyện thƣờng xuyên
để tiếp nhận các ngữ âm khi đang nghe ngƣời lớn nói, mặt khác cơ quan phát
âm đã trƣởng thành đến mức trẻ có thể phát âm tƣơng đối chuẩn kể cả những
âm khó của tiếng mẹ đẻ khi nói năng. Trẻ mẫu giáo lớn đã biết sử dụng ngữ
điệu một cách phù hợp với nội dung giao tiếp.
10
1.1.3 Cơ sở ngôn ngữ học
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phƣơng tiện giao tiếp
cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng ngƣời.
Ngôn ngữ đồng thời cũng là phƣơng tiện phát triển tƣ duy truyền đạt truyền
thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lenin đã từng khẳng
định: “Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là
một hoạt động đặc trưng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất.” Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống con ngƣời, nhờ
ngôn ngữ mà con ngƣời có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho
nhau những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nỗi niềm thầm kín. Không
có ngôn ngữ, con ngƣời không thể giao tiếp đƣợc, thậm chí không thể tồn tại
đƣợc, nhất là trẻ em, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc, bảo vệ của
ngƣời lớn. Ngôn ngữ chính là một trong những phƣơng tiện thúc đẩy trẻ trở
thành một thành viên của xã hội loài ngƣời. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học
tập, vui chơi. Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những
nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để ngƣời lớn có thể chăm sóc, điều
khiển, giáo dục trẻ là một điều kiện rất quan trọng để trẻ tham gia vào mọi
hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ cần cho
tất cả các hoạt động của trẻ và ngƣợc lại, mọi hoạt động tạo điều kiện thúc
đẩy ngôn ngữ của trẻ phát triển.
Ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mầm non chủ yếu là ngôn ngữ nói, vì
thế sự phát triển ngôn ngữ nói của trẻ phụ thuộc rất lớn vào sự giao tiếp của
trẻ em với ngƣời lớn và trẻ em với nhau. Sống trong xã hội con ngƣời luôn
phải giao tiếp, mà khi giao tiếp con ngƣời phải sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt
với những ngƣời xung quanh. Trẻ em giao tiếp với mọi ngƣời xung quanh,
học các từ của ông bà, bố mẹ, ngƣời thân, bạn bè thì ngôn ngữ của trẻ chịu
ảnh hƣởng không nhỏ. Trẻ bắt chƣớc ngƣời lớn nói và đƣợc ngƣời lớn dạy.
11
Cần làm giàu vốn từ cho trẻ bằng những từ mới, những từ khó đối với trẻ.
Đào sâu cung cấp, chính xác hóa vốn từ cho trẻ hiểu chính xác nghĩa của từ;
tích cực hóa vốn từ cho trẻ, trang bị cho trẻ vốn từ sống động. bằng vốn ngôn
ngữ của mình, trẻ có thể biểu đạt sự hiểu biết của mình cho ngƣời lớn hiểu và
hiểu đƣợc ý nghĩa câu nói của ngƣời lớn. Trong công tác giáo dục mầm non,
ngƣời lớn càng phải có ý thức rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ một
cách thƣờng xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động.
Sống trong xã hội luôn phải giao tiếp, mà khi giao tiếp con ngƣời
phải sử dụng vốn từ của mình để biểu đạt với ngƣời xung quanh. Vốn từ cá
nhân phát triển thì ngôn ngữ cũng phát triển. Trong vốn từ của trẻ mẫu giáo,
đầu tiên trẻ phản ánh những đặc trƣng của sự vật, hiện tƣợng. Càng lớn, trẻ
em càng có nhiều vốn từ thể hiện đặc điểm của sự vật, hiện tƣợng bằng từ
ngữ. Vốn từ của trẻ mẫu giáo có khối lƣợng nhỏ hơn rất nhiều so với số lƣợng
vốn từ của ngƣời lớn vì khối lƣợng tri thức của trẻ còn quá chật hẹp. Vì thế
mở rộng vốn từ cho trẻ phải dựa vào sự mở rộng nhận thức cho trẻ. Vốn từ
chủ động là vốn từ mà chủ thể nói năng sử dụng một cách tích cực trong giao
tiếp. Vốn từ thụ động là vốn từ mà chủ thể nói năng có thể hiểu nhƣng không
biết cách sử dụng trong giao tiếp. Vốn từ chủ động của trẻ mẫu giáo ít hơn so
với vốn từ thụ động, vì thế tích cực hóa vốn từ là chuyển vốn từ thụ động
sang vốn từ chủ động cho trẻ. Vốn từ cơ bản gồm những từ ngữ có tần số xuất
hiện cao, vì thế dạy trẻ em phải dạy cho trẻ vốn từ vựng cơ bản vì chỉ khi đó
trẻ mới có thể giao tiếp tốt hơn. Vốn từ ngữ phong phú, chính xác sẽ giúp trẻ
dễ dàng định hƣớng trong không gian.
Để dạy trẻ ngôn ngữ nhƣ một phƣơng tiện giao tiếp thì ngƣời giáo
viên không thể không tìm hiểu vốn từ của trẻ. Trong ngôn ngữ, từ là quan
trọng nhất, là vật liệu trực tiếp để tạo ý, tạo lời và tạo câu. Ở tuổi mẫu giáo trẻ
phải nắm đƣợc một vốn từ cần thiết đủ để chúng có thể giao tiếp đƣợc với bạn
12
bè, ngƣời lớn, tiếp thu các tri thức ban đầu trong trƣờng mầm non, chuẩn bị
học tập ở trƣờng phổ thông; xem các chƣơng trình truyền hình, truyền
thanh… Vì thế giáo dục học mẫu giáo coi việc hình thành và phát triển vốn từ
là một nhiệm vụ quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ. Phát triển vốn từ
đƣợc hiểu nhƣ một quá trình lâu dài của việc lĩnh hội vốn từ mà con ngƣời đã
lĩnh hội đƣợc trong lịch sử. Nó bao gồm hai mặt: tích lũy số lƣợng (tăng dần
số từ tích cực) và nâng cao chất lƣợng (lĩnh hội dần dần nội dung xã hội tích
lũy trong từ, nó là sự phản ánh kết quả của nhận thức).
1.1.4. Từ và vốn từ
a. Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng của ngôn ngữ
Trẻ em học nói phải bắt đầu học từng từ riêng lẻ. Học tiếng nƣớc
ngoài ta phải học từ và nhớ từ. Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên trong trí óc của
từng ngƣời bản ngữ. Tuy nhiên phải trả lời câu hỏi “Từ là gì?” không phải là
chuyện đơn giản. Đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về từ, song chƣa có
một định nghĩa nào thỏa mãn đƣợc mọi ngƣời. Tựu trung có hai khuynh
hƣớng. Khuynh hƣớng 1: Cố gắng đƣa ra một định nghĩa đúng cho mọi ngôn
ngữ trên thế giới. Đây là một việc khó bởi vì nhƣ L.V Sherba đã nhận xét:
“Trong thực tế từ là gì? Thiết nghĩ rằng trong các ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ
khác nhau do đó tất sẽ không có khái niệm từ nói chung.” Khuynh hƣớng 2:
Khảo sát từ của từng ngôn ngữ riêng biệt để đƣa ra một định nghĩa về từ chủ
động cho một ngôn ngữ. Tuy vậy đằng sau tính đa dạng của ngôn ngữ vẫn có
những đặc tính phổ quát. B.A Serebrenmikov đã viết: “Đằng sau sự đa dạng
đến kinh ngạc vô cùng của các ngôn ngữ trên thế giới, (…) ẩn dấu những
thuộc tính chung cho tất cả các ngôn ngữ ấy.” Do vậy cũng có thể chỉ ra
những thuộc tính, bản chất chung cho từ của mọi ngôn ngữ.
b. Vốn từ
13
Vốn từ là khối từ ngữ cụ thể, hoàn chỉnh (có đủ hình thức, chữ và nội
dung ngữ pháp) mà mỗi cá nhân tích lũy đƣợc trong kí ức của mình. Vốn từ
của từng ngƣời cụ thể, không ai giống ai. Vốn từ nhiều hay ít, đơn giản hay đa
dạng tùy thuộc vào kinh nghiệm sống, ở trình độ học vấn, ở sự giao tiếp giao
lƣu văn hóa ngôn ngữ của từng ngƣời. Mỗi một ngôn ngữ phát triển một số
lƣợng từ hết sức lớn và phong phú. Có thể lên tới hàng chục vạn, hàng triệu
từ.
Từ vựng của một ngôn ngữ bao gồm nhiều lớp từ, nhiều nhóm từ
không đồng nhất và có chất lƣợng khác nhau. Trong vốn từ ngữ của một ngôn
ngữ nào đó cũng đều có từ mới và từ cũ, những từ phổ biến chung, những từ
văn hóa (là những từ ngữ chuẩn mực), những từ chuyên môn hay từ vay
mƣợn.
Vốn từ vựng của một ngôn ngữ và vốn từ của cá nhân sử dụng có
quan hệ bao hàm. Cụ thể, vốn từ của cá nhân đƣợc hiểu là bộ phận của vốn từ
chung. Vốn từ của một cá nhân là toàn bộ các từ và đơn vị tƣơng đƣơng từ tồn
tại trong trí óc của cá nhân đó và đƣợc cá nhân đó sử dụng trong hoạt động
giao tiếp. Vốn từ của cá nhân đƣợc tích lũy trong đầu óc một ngƣời còn vốn
từ vựng của ngôn ngữ, theo cách nói của F.de.Saussure đƣợc lƣu giữ “trong
các bộ óc của một tập thể… những ngƣời cùng một cộng đồng ngôn ngữ”.
Vốn từ đƣợc tích lũy trong đầu óc con ngƣời không phải là một mớ
hỗn tạp mà đƣợc tổ chức thành hệ thống gồm nhiều đơn vị ngôn ngữ có nét
chung về hình thức hoặc nội dung, khiến con ngƣời đứng trƣớc một đơn vị
nào đó có thể dễ dàng nghĩ đến , liên tƣởng đến những đơn vị khác cùng hệ
thống. Có thể nói, từ ngữ tồn tại trong đầu óc con ngƣời là một hệ thống (hệ
thống lớn bao gồm nhiều hệ thống nhỏ thuộc các tầng bậc, cấp bậc khác
nhau). Nhờ đó từ mới đƣợc tích lũy nhanh chóng và đƣợc sử dụng một cách
dễ dàng. Số lƣợng từ của một ngôn ngữ, một dân tộc rất lớn nhƣng vốn từ của
14
từng cá nhân thuộc dân tộc đó có thể không nhiều. Vốn từ của từng cá nhân
có đƣợc tùy thuộc vào sự phát triển trí tuệ nhận thức, văn hóa, kinh nghiệm
sống của cá nhân đó.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lí học ngôn ngữ, ngƣời có trình độ
học vấn trung bình có vốn từ khoảng 25000 từ [11; 91]. Dựa vào tần suất sử
dụng từ trong đời sống xã hội, ngƣời ta chia vốn từ thành vốn từ tích cực và
vốn từ thụ động. Vốn từ tích cực là những từ sử dụng hàng ngày, những từ có
tần suất sử dụng cao, đƣợc con ngƣời nắm vững và sử dụng trong lời nói,
trong giao tiếp một cách thành thạo. Còn vốn từ thụ động là những từ ít đƣợc
sử dụng hay không còn mang sắc thái mới, chƣa đƣợc sử dụng rộng rãi. Trong
quá trình phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ, một số từ mới có nghĩa đƣợc nảy
sinh, bên cạnh đó cũng có một số từ cũ, nghĩa cũ bị đào thải loại bỏ. Những từ
đó đã lỗi thời dần dần bị gạt ra khỏi vốn từ tích cực, chúng ít đƣợc sử dụng và
trở thành vốn từ thụ động. Những từ mới xuất hiện thì chƣa thể trở thành vốn
từ tích cực mà từ đó phải đƣợc vận dụng vào giao tiếp một cách thƣờng xuyên
và hiệu quả. Một trong những nhiệm vụ chính nhằm nâng cao trình độ văn
hóa về mặt ngôn ngữ của con ngƣời là nâng cao vốn từ bằng cách làm giàu
vốn từ tích cực.
Vốn từ đƣợc hình thành theo hai con đƣờng: Con đƣờng tự nhiên, vô
thức (qua việc nghe, đọc sách báo từ ngữ tự nhiên xâm nhập vào ngƣời) và
con đƣờng có ý thức (qua học tập). Phát triển vốn từ cho trẻ mầm non nhằm
mục đích hình thành vốn từ cho trẻ theo con đƣờng có ý thức thông qua hoạt
động học tập và vui chơi.
Vốn từ của trẻ là toàn bộ từ và ngữ cố định (thành ngữ, tục ngữ) mà
trẻ có đƣợc trong quá trình học tập, giao tiếp trong và ngoài nhà trƣờng. Trẻ
đã tích lũy đƣợc một số vốn từ nhờ giao tiếp trong môi trƣờng gia đình và
trƣờng mầm non. Nhƣng những từ trẻ tích lũy đƣợc còn lộn xộn, trẻ chƣa hiểu
15
nghĩa từ chính xác và sắp xếp chƣa hệ thống nên trẻ thƣờng gặp rắc rối và gặp
trở ngại trong việc lựa chọn sử dụng từ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng nhận thức và phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi của giáo
viên
a.
Mục đích khảo sát
-
Khảo sát nhận thức của giáo viên về nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ
trong các lĩnh vực phát triển vốn từ.
Khảo sát nội dung và các phƣơng pháp dạy học thƣờng sử dụng để phát
-
triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi.
Khảo sát những đề xuất của giáo viên để nâng cao chất lƣợng phát triển
-
vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi.
b. Đối tượng khảo sát
Giáo viên trƣờng mầm non xã Quỳnh Mỹ: 12 ngƣời
1.2.2. Thực trạng vốn từ và hứng thú phát triển vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi
a. Thực trạng vốn từ
-
Vốn từ của trẻ còn rất nghèo nàn
-
Trẻ chƣa biết sử dụng từ đã học
-
Trẻ nói và phát âm sai do ảnh hƣởng ngôn ngữ của ngƣời lớn xung
quanh
b. Thực trạng hứng thú phát triển vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi
Đa số trẻ đều có ý thức phát triển vốn từ cho mình thông qua việc
hỏi cô và những ngƣời xung quanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có không ít
trẻ không mấy hào hứng.
1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng
a.
Nguyên nhân từ phía giáo viên
16
-
Vốn từ của giáo viên còn hạn chế, chƣa thật phong phú, chƣa đáp ứng
yêu cầu để hƣớng dẫn trẻ mở rộng và phát triển vốn từ. Bên cạnh đó việc nắm
nghĩa từ của một số giáo viên còn hạn chế nên việc truyền đạt kiến thức cho
trẻ chƣa sâu.
-
Nhận thức của giáo viên về nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ còn chƣa
đầy đủ, chƣa chính xác.
-
Phƣơng pháp lên lớp của giáo viên: Đa số giáo viên sử dụng phƣơng
pháp truyền thống trong giảng dạy. Phƣơng pháp lên lớp của giáo viên chủ
yếu là giảng giải, vì vậy, trong giờ học ít phát huy đƣợc tính tích cực, tự giác
và hứng thú học tập của học sinh. Từ đó làm giảm bớt hiệu quả của việc phát
triển vốn từ cho trẻ.
-
Các hình thức tổ chức dạy học của giáo viên còn đơn điệu, chƣa phong
phú, sinh động, hấp dẫn; chƣa chú ý đến việc phát triển vốn từ cho trẻ; chƣa
vận dụng hiệu quả các hình thức dạy học mới: thảo luận nhóm, trò chơi học
tập,…
b.
Nguyên nhân từ phía trẻ
-
Vốn từ của trẻ còn nghèo nàn, chƣa phong phú, ít về số lƣợng, còn
khiếm khuyết về chất lƣợng.
-
Học sinh chƣa thực sự hứng thú, say mê với các giờ học, các hoạt động
của cô.
Nhƣ vậy, chúng tôi đã tìm hiểu thực trạng phát triển vốn từ cho trẻ 5
– 6 tuổi. Chúng tôi đã tìm hiểu lí do dẫn đến thực trạng trên và đây cũng
chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để chúng tôi đề xuất một số biện pháp phát
triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi.
17
Chƣơng 2: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO
TRẺ 5 – 6 TUỔI
2.1 Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn
2.1.1 Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non
Ngôn ngữ chính là một trong những phƣơng tiện thúc đẩy trẻ trở
thành một thành viên của xã hội loài ngƣời. Ngôn ngữ là một công cụ hữu
hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để
ngƣời lớn có thể chăm sóc, điều khiển giáo dục trẻ là một điều kiện quan
trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân
cách trẻ.
Lúc đầu, ngôn ngữ của trẻ chỉ là những từ riêng lẻ xuất phát từ sự
nhận thức thế giới xung quanh. Trẻ chƣa thể nói thành câu hoàn chỉnh. Qua
quá trình tiếp xúc với mọi ngƣời xung quanh, vốn từ của trẻ tăng lên, trẻ học
đƣợc cách nói của ngƣời lớn, lúc đó trẻ mới nói đƣợc câu hoàn chỉnh. Với
mỗi cá nhân, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra rất nhanh ở giai đoạn 0 – 6 tuổi
(lứa tuổi mầm non). Từ chỗ sinh ra chƣa có ngôn ngữ, đến cuối 6 tuổi – chỉ
một khoảng thời gian rất ngắn so với cả đời ngƣời – trẻ đã có thể sử dụng
thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày. Đây chính là giai đoạn phát
cảm về ngôn ngữ. Ở giai đoạn này nếu không có những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển ngôn ngữ thì sau này khó có thể phát triển tốt đƣợc.
2.1.1.1. Vốn từ xét về mặt số lượng
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với
các giai đoạn mang những đặc trƣng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ.
Trẻ sơ sinh chƣa hiểu đƣợc ngôn ngữ của ngƣời lớn. Ở giai đoạn này,
trẻ mới bắt đầu cảm nhận ngữ điệu, giọng nói của ngƣời mẹ.
Khi trẻ đƣợc 7 – 8 tháng, trẻ bắt đầu biết tên mình.
18
Đến 10 – 11 tháng, trẻ bắt đầu hiểu một số từ chỉ các sự vật, ngƣời
mà trẻ thƣờng xuyên đƣợc tiếp xúc.
Từ 12 tháng trở đi, nhu cầu giao tiếp của trẻ với thế giới xung quanh
ngày càng tăng lên, bên cạnh các âm bập bẹ xuất hiện các từ chủ động đầu
tiên. Ở 18 tháng tuổi, số từ bình quân là 11 từ, trẻ bắt chƣớc ngƣời lớn học lại
một số từ đơn gần gũi nhƣ: mẹ, bà, bố…
Từ 19 – 21 tháng, môi trƣờng tiếp xúc của trẻ đƣợc mở rộng, trẻ
đƣợc làm quen với nhiều sự vật, hiện tƣợng hơn, số lƣợng từ của trẻ tăng lên
rõ rệt. Đến 21 tháng, trẻ đạt tới 220 từ. Giai đoạn 21 – 24 tháng, tốc độ chậm
lại, chỉ đạt 234 từ. Vào tháng 24, sau đó tăng tốc: 30 tháng đạt 434 từ, 36
tháng đạt 486 từ.
Nhu cầu giao tiếp với mọi ngƣời xung quanh ngày càng cao, điều đó
thúc đẩy quá trình tiếp thu ngôn ngữ của trẻ. So với tuổi nhà trẻ (0 – 3 tuổi),
trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo (3 – 6 tuổi) có số lƣợng từ nhiều hơn hẳn. Về số lƣợng
từ của trẻ mẫu giáo, các nhà ngôn ngữ học và tâm lí học có đƣa ra các số liệu
khác nhau:
N.D.Levitop:
3- 5 tuổi
1000 từ
YU.U.Pratuxevich
4 – 5 tuổi
1900 – 2500 từ
M.Becgiorong:
3 – 5 tuổi
1222 từ
Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của trẻ nội
thành Hà Nội thì vốn từ của trẻ mẫu giáo là:
Trẻ 4 – 5 tuổi: 1900 – 2000 từ
Trẻ 5 tuổi
: 2500 – 2600 từ
Trẻ 6 tuổi
: 3000 – 4000 từ [4; Tr.136]
Còn theo thống kê của tác giả Đinh Hồng Thái, đến năm thứ ba, trẻ
đã sử dụng trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động từ, tính từ và các loại từ
khác rất ít. Danh từ chỉ đồ dùng, đồ chơi quen thuộc, các con vật gần gũi nhƣ:
19
chó , mèo, gà… Động từ chỉ hoạt động gần gũi của trẻ và những ngƣời xung
quanh nhƣ: ăn, uống, ngủ, đi…
Trẻ 4 tuổi có thể nắm đƣợc xấp xỉ 700 từ. Ƣu thế vẫn thuộc về danh
từ và động từ. Hầu hết các loại từ đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ.
Từ 5 – 6 tuổi, vốn từ của trẻ tăng bình quân đến 1033 từ, tính từ và
các loại từ khác đã chiếm tỉ lệ cao hơn.
Tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi khác nhau, chậm dần theo độ tuổi.
Cuối 3 tuổi so với đầu 3 tuổi vốn từ tăng 10,7%; cuối 4 tuổi so với đầu 4 tuổi
vốn từ tăng 40,58%; cuối 5 tuổi so với đầu 5 tuổi vốn từ của trẻ chỉ tăng
10,40%; cuối 6 tuổi so với đầu 6 tuổi, vốn từ của trẻ cũng chỉ tăng 10,01% [6;
Tr.77].
Mặc dù số lƣợng từ của trẻ mẫu giáo do các nhà tâm lí học, ngôn ngữ
học đƣa ra không khớp nhau, nhƣng sự chênh lệch không lớn lắm; bởi lẽ số
lƣợng từ của trẻ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau trong đó quan trọng
nhất là tác động của môi trƣờng nhƣ sự tiếp xúc ngôn ngữ thƣờng xuyên với
những ngƣời xung quanh, trình độ của bố mẹ,…
2.1.1.2. Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại
Cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ là một tiêu chí để đánh giá chất
lƣợng vốn từ. Số lƣợng từ loại càng nhiều bao nhiêu thì càng tạo điều kiện
cho trẻ diễn đạt thuận lợi bấy nhiêu. Các loại từ xuất hiện dần dần trong vốn
từ của trẻ. Theo Xtecno, ban đầu củ yếu là danh từ, sau đó đến động từ và tính
từ; các loại từ khác xuất hiện muộn hơn.
Theo nhà nghiên cứu Lê Thị Lan, trẻ mẫu giáo có tỉ lệ các từ loại nhƣ
tính từ, trạng từ, quan hệ từ đƣợc tăng lên, động từ giảm đi so với lứa tuổi nhà
trẻ.
20