Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Phân tích các nhân tố tác động đến lạm phát việt nam sử dụng mô hình svar và TVP VAR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ LỆ THỦY

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
LẠM PHÁT VIỆT NAM SỬ DỤNG MÔ HÌNH
SVAR VÀ TVP-VAR

Chuyên ngành : TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .......................................... 3
1.1

Lý do nghiên cứu........................................................................................ 3



1.2

Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 4

1.3

Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4

1.4

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4

1.5

Ý nghĩa của bài nghiên cứu ........................................................................ 4

1.6

Bố cục bài nghiên cứu ................................................................................ 5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 6
2.1

Giá dầu thô thế giới .................................................................................... 6

2.2

Lỗ hổng sản lượng .................................................................................... 10


2.3

Thâm hụt ngân sách .................................................................................. 16

2.4

Chính sách tiền tệ ..................................................................................... 21

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 31
3.1

Dữ liệu nghiên cứu ................................................................................... 31

3.2

Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 31

3.2.1 Những ràng buộc cấu trúc cho mô hình SVAR ........................................ 32
3.2.2 Mô hình tham số thay đổi theo thời gian với những biến động ngẫu nhiên
(TVP-VAR) ...................................................................................................... 34
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 39
4.1

Tổng quan biến động lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000-2015............ 39

4.2

Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu .......................................................... 44



4.3

Kết quả thực nghiệm trong mô hình SVAR .............................................. 44

4.3.1 Kiểm định tính dừng các biến .................................................................. 44
4.3.2 Xác định độ trễ tối ưu .............................................................................. 45
4.3.3 Phân tích các cú sốc đến lạm phát tại Việt Nam ....................................... 49
4.3.4 Phân rã phương sai .................................................................................. 51
4.4

Kết quả thực nghiệm từ mô hình TVP- VAR ............................................ 53

4.4.1 Biến động ngẫu nhiên của các biến .......................................................... 53
4.4.2 Phân tích các cú sốc đến lạm phát tại Việt Nam ....................................... 58
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
Bài nghiên cứu “Phân tích các nhân tố tác động đến lạm phát Việt Nam sử
dụng mô hình SVAR và TVP-VAR” được tác giả thực hiện dựa trên số liệu thu thập
theo quý từ Q1/2000 đến Q2/2015 vì trong khoảng thời gian này lạm phát của Việt
Nam lên xuống hết sức thất thường không ổn định khi ở mức hai con số, khi ở mức
một con số và thậm chí xuống dưới cả 0%.
Để đạt được mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm định các nhân tố tác
động đến lạm phát, tác giả sử dụng mô hình cấu trúc tự hồi quy véctơ (SVAR) và
mô hình tham số thay đổi theo thời gian với các biến động ngẫu nhiên (TVP –

VAR). Dựa vào tìm hiểu và tham khảo các tài liệu nghiên cứu trước đây, tác giả đưa
ra các nhóm nhân tố chính tác động đến lạm phát như sau: Giá dầu được xem là yếu
tố bên ngoài đại diện cho những biến động của tình hình kinh tế thế giới, các yếu tố
bên trong như triển vọng nền kinh tế đại diện bởi lỗ hổng sản lượng, chính sách tài
khóa đại diện bởi thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ đại diện bởi lãi suất tái
cấp vốn. Kết quả phân tích hàm phản ứng đẩy trong mô hình SVAR cho thấy.
-

Lạm phát trong nước chịu tác động mạnh nhất bởi giá dầu thô thế giới.

-

Gia tăng lỗ hổng sản lượng làm tăng tỷ lệ lạm phát.

-

Mức độ ảnh hưởng của thay đổi lãi suất lên lạm phát là khá nhỏ.

-

Phản ứng của lạm phát trước cú sốc từ chi tiêu chính phủ khá phức tạp,

không theo một chiều hướng cụ thể.
Kết quả phân tích hàm phản ứng đẩy trong mô hình (TVP-VAR) cho thấy
lạm phát phản ứng cùng chiều với một cú sốc trong giá cả hàng hóa thế giới (giá
dầu), lỗ hổng sản lượng và chính sách tài khóa. Phản ứng này là ngược chiều đối
với một cú sốc trong chính sách tiền tệ. Như vậy hình dạng của hàm phản ứng đẩy
trong mô hình SVAR cố định thì phù hợp với đường trung bình của hàm phản ứng
đẩy TVP-VAR ở một mức độ nào đó. Điều này cho thấy mô hình tác giả sử dụng là
vững.



2

Nghiên cứu cũng đưa ra một số hàm ý chính sách về tài chính tiền tệ, ngân
sách nhà nước và điều hành cung cầu thị trường giúp Chính phủ can thiệp vào kiểm
soát lạm phát.
Từ khóa: lạm phát, SVAR, TVP - VAR


3

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1

Lý do nghiên cứu
Lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế luôn được quan tâm hàng đầu ở

nhiều quốc gia trên thế giới vì nó ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến tất cả các
ngành nghề sản xuất kinh doanh cũng như mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội.
Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam trải qua hai giai đoạn phát triển chính được
đánh dấu bằng mốc khởi đầu đổi mới năm 1986: nền kinh tế chuyển từ kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cả hai
giai đoạn này (1976-1986; 1986-đến nay), lạm phát luôn được quan tâm hàng đầu
trong chính sách và chiến lược phát triển, nhất là trong thời kỳ lạm phát dâng cao ở
cuối thập niên 1970 – nửa đầu thập niên 1980. Từ năm 1995-2007, nước ta đã 12
năm liền kiềm chế được lạm phát ở một con số. Nhưng từ đầu năm 2008 lạm phát
cao quay trở lại do tác động của tình hình kinh tế thế giới. Dựa trên số liệu tổng cục
thống kê công bố, lạm phát của Việt Nam bất ngờ lên hai chữ số và đạt đỉnh điểm
19,89% trong năm 2008, và 18,13% trong năm 2011. Điều này dẫn đến nhiều hậu

quả nghiêm trọng như thâm hụt thương mại, thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức cao.
Cụ thể, cán cân vãng lai thâm hụt 10% GDP, cán cân thanh toán thâm hụt khoảng 4
tỷ USD, nhập siêu kéo dài trong nhiều năm từ 2007 đã làm dự trữ ngoại hối giảm,
tăng nợ công quốc gia. Hơn thế nữa, do lạm phát cao đã khiến cho lãi suất tăng cao
vì thế số doanh nghiệp phá sản tăng từ 43.000 doanh nghiệp vào năm 2010 lên
79.000 doanh nghiệp năm 2012, đẩy tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Do vậy, việc kiềm
chế lạm phạt là ưu tiên số một, ưu tiên nhất quán của Chính phủ.
Từ năm 2012 đến nay, Chính phủ đã có nhiều biện pháp rất thành công để
kiềm chế lạm phát, nhưng hậu quả là tốc độ tăng trưởng giảm xuống. Điều này cho
thấy, việc tìm hiểu những nguyên nhân gây ra lạm phát để có những chính sách chủ
động kiềm chế cũng như kiểm soát lạm phát là một vấn đề tất yếu. Đặc biệt trong
tình hình Việt Nam đã mở rộng giao thương với nhiều nước thì các yếu tố ảnh
hưởng đến lạm phát ngày càng phức tạp hơn. Chính vì lý do đó, tác giả thực hiện


4

bài nghiên cứu “Phân tích các nhân tố tác động đến lạm phát Việt Nam sử dụng
mô hình SVAR và TVP-VAR”.
1.2

Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào mục tiêu chính sau: Kiểm định các nhân tố vĩ mô

tác động đến tình hình lạm phát ở Việt Nam.
1.3

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định tính nhằm tổng hợp lý thuyết liên quan đến các yếu tố tác


động đến lạm phát ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp định lượng, tác giả sử dụng
mô hình cấu trúc tự hồi quy véctơ (SVAR) để phân tích, kiểm định sự tác động của
các nhân tố vĩ mô đến lạm phát Việt Nam. Bên cạnh đó, nhằm củng cố cho kết quả
thu được tại mô hình SVAR, tác giả sử dụng thêm mô hình tham số thay đổi theo
thời gian với những biến động ngẫu nhiên (TVP-VAR).
1.4

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố vĩ mô tác động đến lạm phát ở Việt Nam.

-

Phạm vi nghiên cứu: lạm phát ở Việt Nam giai đoạn quý 1- 2000 đến quý 2 2015.

1.5

Ý nghĩa của bài nghiên cứu
Với dữ liệu được cập nhật và thu thập trong khoảng thời gian dài, nghiên cứu

sẽ góp phần hệ thống về mặt lý thuyết cũng như bổ sung bằng chứng thực nghiệm
các nhân tố tác động đến lạm phát, từ đó tìm ra tính quy luật phổ biến của lạm phát
ở Việt Nam.
Kết quả của bài nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố
vĩ mô tác động đến lạm phát, đây sẽ là những thông tin hữu ích để chính phủ, các tổ
chức và cá nhân chủ động có kế hoạch ứng phó với sự thay đổi của lạm phát. Đặc
biệt là đối với các nhà hoạch định chính sách, bài nghiên cứu sẽ là một công cụ đắc
lực để dự đoán lạm phát cũng như đo lường được tác động của lạm phát đến tình



5

hình kinh tế vĩ mô, từ đó các nhà hoạch định chủ động đề ra các biện pháp để kiềm
chế lạm phát, cũng như đưa ra những chính sách kịp thời để chính phủ có thể đạt
được những mục tiêu phát triển kinh tế cụ thể, giúp đất nước tăng trưởng
Bên cạnh đó, thông qua việc xác định trong số các nhân tố ảnh hưởng đến
lạm phát, nhân tố nào tác động mạnh nhất, nghiên cứu đã giúp giải quyết bài toán
làm thế nào kiểm soát lạm phát với chi phí thấp nhất thông qua việc tập trung vào
nhân tố gây ảnh hưởng lớn nhất.
1.6

Bố cục bài nghiên cứu
Luận văn được trình bày trong 5 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu trình bày: Tổng quan về đề tài nghiên

cứu bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi
nghiên cứu, ý nghĩa bài nghiên cứu.
- Chương 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây trình bày: Tổng quan
biến động lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000-2015, những lý thuyết cũng như
bằng chứng thực nghiệm trong và ngoài nước về mối quan hệ của từng biến kinh tế
vĩ mô tác động lên lạm phát.
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu trình bày mô hình nghiên cứu, mô tả các
biến và dữ liệu nghiên cứu.
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu trình bày và phân tích kết quả nghiên cứu
trong mô hình SVAR và TVP VAR.
-

Chương 5: Kết luận.



6

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát tuy nhiên hai lý
thuyết chính thường được nhắc tới là: Lạm phát do cầu kéo và lạm phát do chi phí
đẩy. Những nghiên cứu gần đây về lạm phát ở Việt Nam xoay quanh các nhân tố
CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, sản lượng, giá dầu, giá gạo thế giới và hầu hết sử
dụng mô hình VAR hoặc VECM. Trong bài nghiên cứu này tác giả đưa ra các nhóm
nhân tố chính tác động đến lạm phát như sau: Giá dầu được xem là yếu tố bên ngoài
đại diện cho những biến động của tình hình kinh tế thế giới, các yếu tố bên trong
như triển vọng nền kinh tế đại diện bởi lỗ hổng sản lượng, chính sách tài khóa đại
diện bởi thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ đại diện bởi lãi suất tái cấp vốn.
Để giải thích tác động của các yếu tố này lên lạm phát, phần tiếp theo tác giả xin
trình bày những lý thuyết cũng như bằng chứng thực nghiệm nghiên cứu trong và
ngoài nước như sau:
2.1 Giá dầu thô thế giới
Dựa vào lý thuyết tiếp cận lạm phát hiện đại theo quan điểm lý thuyết đo
lường giá cả hàng hóa (Theory of Price Determination) cho thấy trong một nền kinh
tế cạnh trạnh, giá cả hàng hóa được quyết định bởi cung và cầu, biến động trong giá
cả hàng hóa cũng do sự biến đổi trong cung cầu. Sự biến động của các nhân tố cầu
dẫn đến lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo. Trong khi, sự biến động của các
yếu tố cung dẫn đến lạm phát được gọi là lạm phát chi phí đẩy.
Giá cả hàng hóa thế giới (giá dầu) là một nhân tố bên cung nên khi có một cú
sốc từ giá cả hàng hóa thế giới sẽ tạo ra lạm phát chi phí đẩy vì đây vừa là mặt hàng
tiêu dùng cuối cùng, vừa là mặt hàng trung gian cho quá trình sản xuất nên khi giá
xăng dầu biến động sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam.
Tác động của biến động giá dầu tới lạm phát được thể hiện trong hình 2.1.
Với AD: Tổng cầu; AS: Tổng cung, Y: sản lượng thực tế; Y* sản lượng tiềm năng,

P: mức giá chung


7

Hình 2.1: Lạm phát do chi phí đẩy
(Nguồn: Phan Nữ Thanh Thủy và Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư, 2013. Kinh
tế vĩ mô. In tái bản lần 3. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê)
Giả sử sản lượng thực đạt sản lượng tiềm năng Y*, khi chi phí sản xuất tăng
(giá dầu tăng) làm hạn chế khả năng sản xuất của các doanh nghiệp, đường cung bị
đẩy sang trái. Việc giảm cung từ AS0 đến AS1, làm giá tăng từ P0 lên P1 và sản
lượng giảm từ Y* xuống Y1.
Theo các lý thuyết kinh tế học hiện đại, để đảm bảo cung cầu của bất kỳ một
loại hàng hóa nào đó kể cả năng lượng, hầu hết các quốc gia đều thông qua hoạt
động của thị trường. Tuy nhiên, thị trường năng lượng dầu khí trên thế giới thường
có những vấn đề chính trị, độc quyền, luôn có sự can thiệp của chính phủ của các
nước trên thế giới. Ngoài ra dầu khí là nguồn năng lượng quan trọng, là đầu vào
không thể thiếu của các hoạt động kinh tế, nên vấn đề định giá bán, trợ cấp và thuế
đánh vào xăng dầu luôn là mối quan tâm của hầu hết chính phủ các quốc gia. Do đó
khi giá dầu thế giới biến động sẽ ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô khác. Giá dầu thế
giới tăng cao, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến mặt bằng
giá chung và sẽ tạo ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, làm
cho thị trường bị gián đoạn. Những nghiên cứu thấy rằng những cú sốc giá dầu đã


8

ảnh hưởng đến sản lượng và lạm phát (Hamilton, 2004; Hooker, 2002). Ngoài ra,
giá dầu tăng làm tăng chi phí sản xuất đầu vào đưa đến giá hàng hóa và dịch vụ
hàng hóa tăng.

Một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa giá dầu và lạm phát.
Mohanty và Klau (2001), nghiên cứu các yếu tố đo lường lạm phát ở các nền
kinh tế thị trường mới nổi (EME), sử dụng dữ liệu của 14 thị trường mới nổi từ năm
1980 đến 1990 cho thấy: sự ảnh hưởng của giá dầu lên đo lường lạm phát dường
như khác nhau giữa các nước. Sự khác nhau này có thể liên quan đến phản ứng khác
nhau với các cú sốc giá dầu, đặc biệt liên quan đến chính sách tiền tệ hoặc sự cứng
nhắc trong việc điều chỉnh giá xăng dầu trong nước so với thế giới. Và cuối cùng,
bài nghiên cứu cho thấy lỗ hổng sản lượng là nhân tố đo lường lạm phát có ý nghĩa
thống kê ở hầu hết tất cả các quốc gia trọng mẫu. Bên cạnh đó, yếu tố cung, bao
gồm cả những thay đổi lớn trong các yếu tố bên ngoài đất nước và những cú sốc
nông nghiệp là những yếu tố chính gây ra lạm phát, trong khi các yếu tố nhu cầu
truyền thống mặc dù có nghĩa thống kê, nhưng sự tác động của nó lên lạm phát là
tương đối yếu.
Camen (2006) sử dụng một mô hình VAR với số liệu tháng trong giai đoạn
từ 2-1996 đến 4-2005 phát hiện rằng: (i) tín dụng chiếm 25% nguyên nhân gây CPI
biến động và là nhân tố chính gây ảnh hưởng đến lạm phát sau 24 tháng; (ii) tổng
phương tiện thanh toán và lãi suất chỉ giải thích một phần rất nhỏ trong biến động
của CPI (dưới 5%); (iii) giá dầu và giá gạo quốc tế đóng vai trò quan trọng và gợi ý
rằng giá quốc tế, tỷ giá cũng có vai trò giải thích biến động của lạm phát (19%); (iv)
cung tiền của Mỹ (M3) với tư cách là một thước đo tính thanh khoản quốc tế cũng
đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các giai đoạn nghiên cứu.
Blanchard, Gali (2007): Để giải thích sự khác biệt biến động giá dầu trong
nền kinh tế giữa năm 1970 và năm 2000, tác giả sử dụng mô hình Var cấu trúc với
dữ liệu ở các nước công nghiệp (Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Ý và Nhật Bản) với 6 biến
đo lường gồm giá dầu, chỉ số lạm phát CPI, chỉ số lạm phát GDP, tiền lương, log sự


9

thay đổi trong GDP và việc làm. Tập trung vào những tác động khác nhau của biến

động giá dầu vào lạm phát và hoạt động kinh tế theo thời gian. Tác giả đưa ra 4 giả
thiết tác động đến biến động giá dầu: sự thay đổi tự nhiên của giá dầu, thành phần
dầu chiếm tỷ lệ nhỏ trong sản xuất, thị trường lao động biến động linh hoạt, đổi mới
của chính sách tiền tệ và cả bốn giả thiết đều đóng một vai trò quan trọng. Kết quả
của bài nghiên cứu chỉ ra có biến động ngược vào những năm 1970, giá dầu chỉ giải
thích một phần trong lạm phát đình đốn. Tác động của biến động giá dầu thì sụt
giảm theo thời gian.
Theo bài nghiên cứu “Lạm phát ở các nước đang phát triển ở Châu Á: Cầu
kéo hay chi phí đẩy ?” của Juthathip Jongwanich và Donghyun Park, 9/2008 thuộc
bộ phận nghiên cứu Ngân Hàng Phát Triển Châu Á tìm hiểu về nguồn gốc của lạm
phát của khu vực cũng như mức độ dẫn truyền của cú sốc giá dầu, giá lương thực
năm 2008 vào lạm phát tiêu dùng ở chín nước Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thailand, Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ đã tìm thấy
những kết quả chính sau:
-

Lạm phát ở các nước Châu Á đang phát triển chủ yếu có nguyên nhân từ yếu

tố cầu kéo, cụ thể là sự dư thừa của tổng cầu và kỳ vọng lạm phát. Các cú sốc ngoại
sinh như giá dầu và giá lương thực chỉ giải thích khoảng 30% lạm phát giá tiêu
dùng của khu vực này. Qua đó cho thấy rằng, lạm phát của khu vực này không hoàn
toàn là do các nhân tố ngoại sinh nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan tiền tệ
và vì vậy chính sách tiền tệ vẫn là một công cụ mạnh trong cuộc chiến chống lạm
phát ở các nước này.
-

Sự truyền dẫn của các cú sốc giá dầu và giá lương thực đối với lạm phát giá

sản xuất lớn hơn đáng kể lạm phát giá tiêu dùng. Sự giá tăng giá dầu và giá lương
thực giải thích khoảng hơn 50% lạm phát giá sản xuất trong khi đối với giá tiêu

dùng con số này chỉ dùng lại ở mức khiêm tốn là 30%.
Cũng đi sâu vào nghiên cứu đề tài về tầm ảnh hưởng của việc tăng lên đột
biến trong giá dầu và giá lương thực trong năm 2008 đến lạm phát, Nobuledo


10

Duma, trong bài nghiên cứu “Sự dẫn truyền của cú sốc ngoại sinh đến lạm phát ở
Sri Lanka” tháng 3/2008, tác giả tìm thấy rằng có một sự dẫn truyền không hoàn
toàn từ các cú sốc ngoại sinh, cụ thể cú sốc giá dầu và giá lương thực vào lạm phát
ở Sri Lanka. Hàm phản ứng đẩy và phân tích phương sai từ mô hình VAR đệ quy
cho thấy rằng, mức độ dẫn truyền vào giá tiêu dùng tăng từ 10% trong kỳ thứ nhất
của cú sốc đến 40% trong tháng kỳ thứ 6. Đồng thời kết quả nghiên cứu của ông
cũng tìm thấy có một sự truyền dẫn cao hơn vào lạm phát chỉ số giá bán buôn hơn là
sự dẫn truyền vào lạm phát giá tiêu dùng ở Sri Lanka..
Một nghiên cứu của Võ Văn Minh (2009) về mức chuyển tỷ giá vào lạm
phát trong giai đoạn (1-2001 đến 2-2007). Các số liệu được sử dụng bao gồm: tỷ
giá hữu hiệu danh nghĩa, khoảng cách sản lượng, giá dầu, CPI, chỉ số giá nhập
khẩu và cung tiền mở rộng M2. Kết quả cho thấy rằng mức chuyển tỷ giá ở Việt
Nam là không hoàn thiện và thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của IMF
(2003). Tác giả giải thích sự khác biệt này bằng sự khác nhau trong môi trường
lạm phát, sự giảm bớt của tình trạng đô la hóa và việc tự do hóa lãi suất giữa 2
giai đoạn. Nghiên cứu cũng kêu gọi dỡ bỏ những can thiệp đến tỷ giá.
2.2 Lỗ hổng sản lượng
Theo quan điểm truyền thống của Keynesianas cho rằng sự thay đổi của giá
cả và tiền lương là chậm và thị trường không cân bằng (non clearing market). Trong
lý thuyết tổng quát (General Theory) của Keynesianas (1935) giả định tiền lương là
tương đối cứng nhắc và chính điều này làm ngăn cản thị trường đạt được trạng thái
cân bằng giữa cung và cầu, trong khi giá cả thì biến động linh hoạt, phương trình
này được xem là phương trình tĩnh. Tuy nhiên, Phillips (1958) đã đưa ra khái niệm

đường cong Phillips với định đề: mối quan hệ giữa tiền lương thực và tỷ lệ thất
nghiệm. Với khái niệm này, mối quan hệ giữa giá cả và tiền lương mà Keynesianas
đưa ra trở thành một phương trình động. Cùng thời điểm đó, sự phát triển của mô
hình IS- LM cho thấy: khi có sự gia tăng về cung tiền, đường LM dịch chuyển sang
phải từ LM1->LM2 trong khi đường IS không thay đổi do tiền lương được xem là


11

tương đối cứng nhắc trong ngắn hạn. Vì thế, sẽ có sự gia tăng sản lượng thực từ Q1
lên Q2 đồng thời sẽ gia tăng lạm phát từ dP1 lên dP2

i

LM1

IS

Q1

LM2

Q2

P1
P2
Phillips curve

P
Hình 2.2: Mối quan hệ giữa sản lượng và đường cong Phillips

(Nguồn: Gartner Manfred, 2009, Macroeconomics, 3th Edition, chapter 15, page
401, Prentice Hall)
Ở những năm gần đây, lý thuyết truyền thống của Keynesianas được phát
triển trở thành New Keynesian Phillips Curve (NKPC). Mô hình mới này của
trường phái Keynesianas vẫn giữ nguyên những giả định về sự thay đổi của giá cả
và tiền lương là chậm và thị trường không cân bằng. Tuy nhiên, có sự kết hợp với
đường cong Phillps trong dài hạn (mô hình được Okun, Perry và Shultze (1986) đề
xuất) bên cạnh đó còn kết hợp những giả định của trường phải New Classical
trường phái này là sự phát triển của trường phái cổ điển được cải tiến chính bởi
Lucas (1942, 1973) sự kỳ vọng có lý trí. Phương trình dùng để biểu diễn mối quan
hệ giữa lạm phát và lỗ hổng sản lượng như sau:
=

{

}+

+


12

Trong đó :
: lạm phát
: lỗ

hổng sản lượng

: cú sốc của chi phí đẩy
{


} : kỳ vọng lạm phát

Cơ chế ảnh hưởng của lỗ hổng sản lượng lên lạm phát được Keynesianas lập
luận: GDP thực tế cao hơn mức GDP tiềm năng, sẽ làm gia tăng tốc độ lạm phát vì
những nhà cung cấp sẽ gia tăng giá cả hàng hóa đầu vào cần thiết cho sản suất. Và
ngược lại, khi GDP thực tế giảm dưới GDP tiềm năng, lạm phát sẽ giảm tốc vì
những nhà cung ứng cố gắng hạ giá thành để có thể tối đa hóa sản xuất.
Một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
lạm phát.
De Gregorio (1992), nghiên cứu ảnh hưởng của lạm phát lên tăng trưởng
kinh tế bài học từ châu Mỹ Latinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát dai dẳng
có thể làm giảm tăng trưởng triển vọng của Đông Âu cũng như châu Mỹ Latinh.
Tuy nhiên, các thảo luận trong bài cho thấy không có mối quan hệ giữa lạm phát và
các vấn đề về thiếu hụt và thặng dư tiền tệ. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng cho thấy
việc thiết lập một hệ thống thuế hiệu quả có thể ngăn chặn sự phụ thuộc mạnh mẽ
của thuế lên lạm phát và do đó tránh được những hậu quả tiêu cực đối với tăng
trưởng kinh tế. Ông cũng đã nhấn mạnh rằng việc loại bỏ lạm phát là cần thiết
nhưng điều này sẽ không tạo điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng.
Barro (1995) nghiên cứu lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Từ những phân
tích thực nghiệm, tác giả phát hiện ra rằng các tác động ước tính của lạm phát đối
với tăng trưởng là tương quan âm một cách đáng kể. Trong mọi trường hợp, ảnh
hưởng ước tính nhỏ của lạm phát dường như ảnh hưởng đến tăng trưởng là sai lệch.
Trong thời gian dài, những thay đổi trong tốc độ tăng trưởng có ảnh hưởng đáng kể
đến mức sống.


13

Bruno & Easterly (1998) trong nghiên cứu “ Inflation crises and long-run

growth” kết quả cho thấy tăng trưởng kinh tế và lạm phát có tương quan âm, một
phát hiện thường được cho là phản ánh một mối quan hệ dài hạn. Nhưng sự tương
quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế chỉ xuất hiện với dữ liệu tần số cao và với
các quan sát lạm phát cực lớn, không có sự tương quan chéo giữa mức trung bình
dài hạn của tăng trưởng và lạm phát. Bằng cách nghiên cứu các cuộc khủng hoảng
lạm phát cao để làm sáng tỏ những nghịch lý thực nghiệm, nhóm tác giả phát hiện
ra rằng sự tăng trưởng kinh tế giảm mạnh trong thời gian các cuộc khủng hoảng lạm
phát cao, sau đó phục hồi nhanh chóng và mạnh mẽ sau khi lạm phát giảm.
Võ Trí Thành và cộng sự (2000) sử dụng mô hình tự hồi quy véctơ (VAR) và
ECM cùng dữ liệu giai đoạn 1992-1999 để nghiên cứu các mối quan hệ giữa tiền tệ,
CPI, tỷ giá và giá trị sản lượng công nghiệp thực tế. Nghiên cứu cho thấy tiền tệ
chịu tác động của lạm phát và sản lượng công nghiệp. Bên cạnh đó, tỷ giá cũng có
ảnh hưởng đến lạm phát trong khi cung tiền không có tác động đến các biến động
trong tương lai của giá cả.
Faria and Carneiro (2001) sử dụng kiểm định đơn vị được đề xuất bởi
Dickey-Fuller (DF) và Augmented Dickey-Fuller (ADF) (1979) và phương pháp
phân tích phương sai (Variance Decomposition) dựa trên mô hình VAR cho thấy
lạm phát không ảnh hưởng đến sản lượng thực tế (GDP) trong dài hạn, tuy nhiên
trong ngắn hạn thì sự ảnh hưởng của lạm phát đến sản lượng thực tế (GDP) lại
mang dấu âm.
Ericsson, Irons & Tryon (2001) bằng cách thực hiện hồi quy ở nhiều quốc
gia đã đưa đến kết luận lạm phát tác động tiêu cực đến tăng trưởng sản lượng nhưng
không mạnh mẽ và không có một mối quan hệ dài hạn giữa tăng trưởng sản lượng
và lạm phát.
Vikesh Gokal and Subrina Hanif (2004), nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng GDP. Với mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là duy trì mức
tăng trưởng GDP cao đồng thời kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Tuy nhiên, mục tiêu


14


này khó có thể đạt được vì có một sự đối nghịch giữa lạm phát và tăng trưởng GDP.
Trong bài nghiên cứu tác giả xem xét lại các lý thuyết kinh tế khác nhau trong mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GDP. Các lý thuyết về cung trong kinh tế cổ
điển nhấn mạnh nhu cầu người tiêu dùng để tiết kiệm và đầu tư nếu nền kinh tế
quốc gia phát triển. Học thuyết của Keynes cung cấp mối quan hệ cung cầu, một mô
hình toàn diện hơn liên kết lạm phát với sự tăng trưởng. Các trường phái tiền tệ
cũng nhấn mạnh về vai trò của tăng trưởng tiền tệ để xác định lạm phát. Bài nghiên
cứu cũng tìm hiểu các kết quả thực nghiệm cho thấy rằng mối tương quan nghịch
yếu tồn tại giữa lạm phát và tăng trưởng GDP, trong khi luôn có sự thay đổi khoảng
cách về đầu cơ của các nhà đầu tư. Tác động giữa 2 biến lạm phát và tăng trưởng
GDP đi theo một chiều hướng từ tăng trưởng GDP đến lạm phát. Lạm phát có thể
dẫn đến sự không chắc chắn về lợi nhuận tương lai của các dự án đầu tư. Lạm phát
cũng có thể cắt giảm lợi thế cạnh tranh quốc tế của các quốc gia bằng cách làm cho
hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt hơn do đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Hơn
nữa lạm phát có thể tương tác với hệ thống thuế để ảnh hưởng đến các quyết định
vay và mượn. Các công ty có thể phải đánh đổi nhiều nguồn lực để tác động đến
lạm phát.
Trương Văn Phước và Chu Hoàng Long (2005) sử dụng phương pháp ước
lượng Granger với số liệu tháng từ 7-1994 đến 12-2004, kết quả nghiên cứu
chứng minh rằng các nhân tố quyết định lạm phát trong giai đoạn này là lạm
phát trong quá khứ và khoảng cách sản lượng. Cung tiền không có ý nghĩa đối
với lạm phát và tác động của giá dầu, giá gạo quốc tế cũng như mức chuyển tỷ
giá vào lạm phát là rất thấp.
Guerrero (2006) trong bài nghiên cứu của mình đã kết luận rằng hướng của
quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng không thể được xác định bằng cách
kiểm tra sự tương quan giữa chúng. Kết quả từ bài nghiên cứu cũng cho thấy các
nước đã trải qua siêu lạm phát có xu hướng thể hiện tỷ lệ lạm phát thấp hơn đáng kể
so với các nước mà chưa trải qua. Tuy nhiên, những kinh nghiệm này không tương
quan hợp lý với các yếu tố khác của tăng trưởng dài hạn. Hơn nữa, lạm phát có ảnh



15

hưởng xấu đến sự phát triển đó là kết luận quan trọng về kinh tế và khá mạnh mẽ về
mặt thống kê.
Nguyễn Thị Thùy Vinh và Fujita (2007) sử dụng cách tiếp cận VAR để
nghiên cứu tác động của tỷ giá thực đối với sản lượng và lạm phát ở Việt Nam
trong giai đoạn từ 1992 đến 2005. Các tác giả cho thấy rằng nguyên nhân chủ
yếu khiến sản lượng và mức giá thay đổi là biến động của các biến này trong
quá khứ và tỷ giá có ảnh hưởng nhiều đến cán cân thương mại và sản lượng hơn
đến lạm phát. Mô hình VAR của họ bao gồm sản lượng công nghiệp, CPI, tỷ
giá, cung tiền, thâm hụt thương mại và lãi suất của Mỹ (với tư cách là một biến
ngoại sinh). Mô hình này tập trung chủ yếu vào mức chuyển của tỷ giá và do vậy
bỏ qua các nhân tố quyết định lạm phát khác.
Sofat (2008) nghiên cứu về lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn từ quý 12001 đến quý 1-2008. Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh sự gia tăng trong giá cả
thực phẩm toàn cầu là áp lực chính khiến lạm phát ở Việt Nam gia tăng chứ
không phải sự gia tăng của giá năng lượng thế giới ảnh hưởng đến lạm phát ở
Việt Nam. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cho thấy lỗ hổng sản lượng tác động
mạnh mẽ lên lạm phát: với sự gia tăng 1 điểm cơ bản trong lỗ hổng sản lượng sẽ
tạo nên gần 1 điểm cơ bản trong lạm phát. Hơn thế nữa, sự gia tăng trong tỷ giá
cũng tác động đến lạm phát khi có sự gia tăng 1 điểm cơ bản trong tỷ giá sẽ gây
ra hiệu ứng truyền dẫn (pass through) gây ra sự gia tăng trong lạm phát là 0,4
điểm cơ bản.
Paul (2009), nghiên cứu thấy rằng các cú sốc cung, cụ thể là hạn hán và
khủng hoảng dầu lửa, và những cú sốc tự do hóa chính sách của những năm đầu
thập niên 1990 là những lý do chính cho sự vắng mặt của đường cong Phillips ở Ấn
Độ. Tuy nhiên khi tác giả xây dựng lại các dữ liệu của lạm phát và chênh lệch sản
lượng theo năm mùa vụ thay vì năm tài chính và chú ý hồi quy với lĩnh vực công
nghiệp, thì đường cong Phillips lại xuất hiện. Như vậy, sự cân bằng ngắn hạn giữa



16

lạm phát và sản lượng công nghiệp vẫn có thể ở Ấn Độ, cũng như ở các nền kinh tế
phát triển khác
Coe and McDermott (2013), nghiên cứu đo lường lạm phát bằng mô hình
Gap Model, sử dụng dữ liệu của 12 quốc gia phát triển, các nước công nghiệp mới
và các nước công nghiệp ở Châu Á. Kết quả cho thấy mô hình Gap dự đoán tốt lạm
phát ở hầu hết các nước nghiên cứu trong mẫu. Và cho thấy lỗ hổng sản lượng là
một nhân tố chính để đo lường lạm phát ở các nước. Trừ trường hợp của Trung
Quốc và Thái Lan là nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng của biến lỗ hổng sản
lượng ảnh hưởng đến lạm phát. Trong khi đó, ở Ấn Độ lỗ hổng sản lượng có vai trò
quan trọng trong đo lường lạm phát chỉ khi đo lường cùng với biến cung tiền mở
rộng. Vì thế, việc đo lường lạm phát bằng cách sử dụng lỗ hổng sản lượng là có thể
áp dụng cho các nước ở Châu Á cũng như đã được áp dụng với các nước phát triển
ở Bắc Mỹ, Tây Âu.
2.3 Thâm hụt ngân sách
Tác động của thâm hụt ngân sách lên lạm phát được truyền dẫn bằng nhiều
kênh như:
Kênh truyền dẫn thứ nhất: Thâm hụt ngân sách càng cao dẫn đến gia tăng lãi
suất và dẫn đến giảm đầu tư trong nước. Hiệu ứng lấn át (crowding-out) của thâm
hụt cuối cùng sẽ dẫn đến đầu tư thấp, một tổng cung thấp hơn và kết quả là giá cao
hơn. Tuy nhiên, tác động của thâm hụt về lãi suất vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Ví
dụ, Bradley (1986) liệt kê 21 nghiên cứu về mối liên hệ giữa thâm hụt-lãi suất và
thấy rằng chỉ có bốn nghiên cứu cung cấp bằng chứng thâm hụt ngân sách và lãi
suất có tương quan dương và có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu còn lại tìm thấy
hoặc là tác động này không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê hoặc mối liên hệ
này là tương quan âm, hoặc là không có bất kỳ mối liên hệ nào. Các nghiên cứu lý
thuyết về mối quan hệ giữa thâm hụt và lãi suất được nghiên cứu ở các quốc gia nhỏ

có nền kinh tế mở với điều kiện dòng vốn được kiểm soát. Trong khi các nghiên
cứu thực nghiệm thì liên quan đến các nền kinh tế lớn hoặc các nền kinh tế đóng.


17

Kênh truyền dẫn thứ hai: Hiệu ứng của sự thịnh vượng (wealth effect) của
thâm hụt ngân sách. Khi thâm hụt được tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu và trái
chủ không coi trái phiếu như thuế trong tương lai (một quan điểm phi Ricardo), sự
thịnh vượng của các quốc gia được coi như là đi lên. Một khi hiệu ứng thịnh vượng
càng cao dẫn đến tăng nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Vì thế đẩy giá cả hàng
hóa đi lên. Tuy nhiên, theo Tekin-Koru và Özmen (2003) tìm thấy không có mối
liên hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát thông qua các hiệu ứng thịnh vượng ở
Thổ Nhĩ Kỳ. Thay vào đó, họ phát hiện ra rằng tài trợ thâm hụt dẫn đến lãi suất của
trái phiếu chính phủ sẽ tăng cao.
Kênh truyền dẫn thứ ba: Thâm hụt ngân sách của chính phủ ảnh hưởng đến
tỷ lệ lạm phát thông qua việc tiền tệ hóa thâm hụt (monetisation of the deficit). Và
kết quả là cơ sở tiền trong hệ thống sẽ tăng lên, làm dịch chuyển đường tổng cầu
sang bên phải, dẫn đến mức giá tăng trong nền kinh tế. Nói chung, thâm hụt ngân
sách tự nó không gây áp lực lạm phát, mà là ảnh hưởng đến mức giá thông qua các
tác động về mức cầu tiền và kỳ vọng lạm phát của công chúng, kết quả là sự tăng
giá. Theo một câu nói nổi tiếng của Milton Friedman “lạm phát là luôn luôn và ở
bất kỳ nơi nào là một hiện tượng tiền tệ”. Câu nói này có nghĩa sự gia tăng về giá và
kéo dài là nguyên nhân do sự gia tăng trong cung tiền.
∆ ầ ề
Lạm phát

∆Thâmhụtngânsách
∆ ỳ ọ


ạ ℎá

Hình 2.3: Mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát
(Nguồn: Gartner Manfred, 2009, Macroeconomics, 3th Edition, chapter 8, page 200,
Prentice Hall)
Bên cạnh đó, kỳ vọng của người dân cũng là một yếu tố dẫn đến lạm phát.
Cơ chế của điều này xảy ra như sau: ngân sách chi tiêu của chính phủ được hoạch


18

định trong một khoản thời gian là nhất định. Chính vì thế, khi có sự thâm hụt thì
chính phủ sẽ tìm mọi cách để bù đắp sự thiếu hụt này bằng nhiều cách khác nhau.
Và việc tài trợ bằng việc vay nợ (phát hành trái phiếu) là điều dễ dàng xảy ra. Vì
thế, người dân tin rằng cung tiền sẽ mở rộng trong tương lai, từ đó dẫn đến lạm
phát.
Ngoài ra vấn đề thâm hụt và lạm phát còn được phân tích rõ ràng hơn qua
quan điểm của trường phái tiền tệ và của Keynesian.
Tác động của thâm hụt ngân sách lên tỷ lệ lạm phát được thể hiện trong hình
2.4. Với AD: Tổng cầu; AS: Tổng cung, Y: sản lượng thực tế; Y* sản lượng tiềm
năng, P: mức giá chung.
Theo quan điểm của trường phái tiền tệ, trong dài hạn nền kinh tế luôn đạt
mức cân bằng tại sản lượng tiềm năng Y*, mức toàn dụng nguồn lực sản xuất. Giả
sử ban đầu nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tại điểm (1) với mức giá P1 và sản
lượng tiềm năng Y*. Khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng (gia tăng cung tiền) để tài trợ cho thâm hụt ngân sách khiến tổng cầu AD1 dịch
chuyển sang AD2, điềm cân bằng chuyển sang (1’) tại mức sản lượng Y’ lớn hơn
mức sản lượng tiềm năng Y*. Nhưng trong dài hạn, khi sản lượng lớn hơn sản
lượng tiềm năng (Y*) thì do các nguồn lực sản xuất đã được sử dụng vượt mức nền
kinh tế thực có, ngay lập tức tiền lương và chi phí sản xuất tăng lên làm đường tổng

cung (AS1) dịch chuyển sang trái (AS2), điểm cân bằng chuyển sang (2) và sản
lượng quay về vị trí cũ (Y*). Nếu chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng, đường tổng
cầu tiếp tục dịch chuyển sang (AD3) và đường tổng cung lại tiếp tục dịch chuyển
sang (AS3). Như vậy có thể thấy trong dài hạn, tác động của chính sách tiền tệ mở
rộng thì sản lượng không tăng và vẫn giữ ở mức sản lượng tiềm năng Y* nhưng giá
cả tăng từ mức P1 lên P3.


19

Hình 2.4: Tác động của thâm hụt ngân sách lên lạm phát
(Nguồn: Gartner Manfred, 2009, Macroeconomics, 3th Edition, chapter 8,
page 201, Prentice Hall)
Trường phải Keynesian dự đoán sự dịch chuyển của tổng cung và tổng cầu
giống như quan điểm của trường phái tiền tệ. Tuy nhiên, có sự khác biệt về thời
gian: trường phái tiền tệ nhấn mạnh sự phản ứng của đường AS sẽ nhanh hơn, vì thế
sản lượng không thể nào vượt mức sản lượng tiềm năng trong một khoảng thời gian
dài, trong khi trường phái Keynesian tin rằng sự điều chỉnh này sẽ kéo dài hơn.
Một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và
lạm phát.
Levy (1981) nghiên cứu sự ảnh hưởng của thâm hụt tài chính lên sự phát
triển của cung tiền ở US. Tác giả sử dụng mô hình dựa trên IS-LM với dữ liệu
1952-1978. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa
chính sách tiền tệ, thâm hụt ngân sách chính phủ và lạm phát. Đặc biệt là mối quan
hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách có tương quan dương.


20

Choudhary và Parai (1991) sử dụng mô hình kỳ vọng lạm phát kết hợp với

các biến vĩ mô để kiểm định sự ảnh hưởng bởi thâm hụt ngân sách cho trước lên
lạm phát. Sử dụng dữ liệu theo quý ở Peru giai đoạn quý 1 năm 1973 đến quý 1 năm
1988. Tác giả tìm thấy có mối ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê của thâm hụt ngân
sách cũng như tỷ lệ tăng trưởng cung tiền lên lạm phát.
Piontkivsky và đồng sự (2001) nghiên cứu sự ảnh hưởng của thâm hụt ngân
sách lên lạm phát ở Ukraine. Tác giả phân tích mối quan hệ này bằng việc sử dụng
mô hình Class non-structural VAR. Dựa trên số liệu theo tháng từ 1995 đến tháng
6-2000, nhóm tác giả tìm thấy sự mất cân bằng trong chi tiêu ngân sách và chính
sách tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đo lường lạm phát ở Ukraine.
Fischer, Sahay, and Vegh (2002) nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến lạm phát
cao, dựa trên dữ liệu của trên 130 quốc gia. Nghiên cứu đã cho các kết luận sau: a)
Về dài mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát là có ý nghĩa thống kê và
tương quan dương. Trong ngắn hạn, mối quan hệ này mạnh mẽ đối với các nước có
lạm phát cao nhưng không đáng kể đối với các nước lạm phát thấp b) trong dài hạn
(hoặc nghiên cứu dữ liệu chéo) mối quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát
là rất mạnh mẽ. Khi mẫu được phân chia, các nước lạm phát thấp và cao, các mối
quan hệ được tìm thấy là mạnh mẽ hơn đối với các nước có lạm phát cao hơn so với
các nước lạm phát thấp. Mặt khác khi dùng dữ liệu bảng, cho thấy liên kết tiền tệ lạm phát vẫn còn mạnh mẽ khi xem mẫu như một toàn thể. Tuy nhiên, khi mẫu
được phân chia, mối quan hệ này ở các nước lạm phát cao về cơ bản không thay đổi
so với dài hạn, trong khi đó đối với các nước lạm phát thấp, mối quan hệ này sẽ trở
nên yếu hơn nhiều.
Canova, Gambetti, and Pappa (2007) nghiên cứu mối quan hệ và nguyên
nhân dẫn đến sự thay đổi trong mối tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh
tế ở các thị trường Mỹ (1959-2004), Liên Minh Châu Âu (1970-2002) và Anh
(1963-2004). Bằng cách kết hợp mô hình Time –varying VAR và mô hình DSGE.
Bài nghiên cứu cho thấy: ở Mỹ, những thay đổi trong cú sốc cầu được cho là nhân


21


tố có ảnh hưởng mạnh và có ý nghĩa nhất lên lạm phát, trong khu vực đồng Euro,
những thay đổi trong các cú sốc chính sách (chính sách tiền tệ và tài khóa) và các cú
sốc cung tiền tệ là nhân tố quyết định và ở Anh, cú sốc cầu, các cú sốc cung và các
chính sách tiền tệ là quan trọng. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu còn phát hiện cấu trúc
lạm phát giữa các quốc gia trên khá tương đồng trong suốt mẫu nghiên cứu. Trong
khi cấu trúc tăng trưởng kinh tế giữa các nước này chỉ bắt đầu thể hiện sự giống
nhau từ năm 1990.
Parviz Saeidi và Younes Valizadeh (2012) bằng việc sử dụng phương pháp
Phương pháp OLS, LS nghiên cứu ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên lạm phát
và thất nghiệp của nền kinh tế Iran với dữ liệu hàng năm giai đoạn 1979-2006. Bài
nghiên cứu cho thấy thâm hụt ngân sách có ảnh hưởng đến lạm phát và thất nghiệp
Lin and Chu (2013) áp dụng mô hình hồi qui (DPQR) sử dụng phân phối tự
hồi quy ARDL, để nghiên cứu mối quan hệ thâm hụt và lạm phát tại 91 quốc gia từ
năm 1960 đến năm 2006. Các mô hình DPQR ước tính tác động của thâm hụt lên
lạm phát ở các cấp độ khác nhau và cho phép điều chỉnh năng động với các đặc
điểm kỹ thuật ARDL. Các kết quả thực nghiệm cho thấy thâm hụt tài chính có tác
động mạnh tới lạm phát trong giai đoạn lạm phát cao, và có tác động yếu trong tập
giai đoạn lạm phát thấp. Kết quả ngụ ý rằng củng cố tài chính sẽ có hiệu quả hơn
trong việc bình ổn giá và kiềm chế lạm phát.
2.4 Chính sách tiền tệ
Theo trường phái tiền tệ, nổi bật là nhà kinh tế học Milton Friedman với học
thuyết số lượng tiền tệ (Quantity theory of money). Ông cho rằng: lạm phát là một
hiện tượng xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại. Ông đưa ra một
câu nói nổi tiếng “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”, nghĩa
là khi tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ (thông qua việc
ngân hàng trung ương mua trái phiếu do chính phủ phát hành) thì lạm phát là không
thể tránh khỏi.


22


Theo ông sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có thể dựa trên
sự kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm
soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng
trưởng dài hạn. Lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo
tiền ở mức lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh
hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng, nếu cung tiền tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra, nếu giữ cung tiền và hệ
số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Mức cung tiền tệ là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các biến số của kinh
tế vĩ mô như giá cả, sản lượng, việc làm. Ông xuất phát từ công thức Ms*V = P*Q
của Fisher.
Trong đó : Ms là mức cung tiền tệ,
V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ,
P*Q là sản lượng quốc gia.
Friedman cho rằng mức cung tiền tệ không ổn định vì nó phụ thuộc vào các
quyết định chủ quan của các cơ quan tiền tệ. Cụ thể, mức cung tiền tệ có tác động
đến sản lượng thường xảy ra ở 2 trường hợp:
-

Sản lượng thực tế chưa đạt đến sản lượng tiềm năng: Tăng mức cung tiền tệ
sẽ làm sản lượng tăng nhanh, giá cả tăng chậm, không có nguy cơ dẫn đến
lạm phát.

-

Sản lượng thực tế đã vượt mức sản lượng tiềm năng: Tăng mức cung tiền tệ
sẽ ít có tác động đến tăng sản lượng, mà giá cả lại tăng nhanh, có nguy cơ
lạm phát.
Mức cầu về tiền tệ theo Friedman có tính ổn định cao. Vì cầu tiền tệ có liên


quan chặt chẽ đến sự vận động của các khoản chi tiêu mà trước tiên là thu nhập,
trong khi thu nhập tương đối ổn định. MD là cầu danh nghĩa về tiền tệ, yn là thu


×