Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Lý thuyết tài chính tiền tệ: Tự do hóa tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.07 KB, 12 trang )

Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ

BÀI TẬP NHÓM 5 MÔN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
TỰ DO TÀI CHÍNH
GVHD: PGS. TS BÙI THỊ MAI HOÀI
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Ngô Thị Thùy Linh
Lý Thị Huỳnh An
Ngô Thị Ngọc Liễu
Phạm Xuân Như
Nguyễn Minh Phú
Lê Mỹ Xuân Phượng
Lê Thị Thu Thảo
Nguyễn Mai Thi
Phạm Thị Thu Sang

Page i



Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ

GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page ii


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ

GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page iii


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
I. Nội dung và nguyên tắc tự do hóa tài chính
1. Khái niệm và bản chất tự do hóa tài chính
1.1. Khái niệm:
Tự do hóa tài chính là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ và giao dịch tài
chính, làm cho hệ thống tài chính quốc gai được hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo tín hiệu của
thị trường. Đây chính là quá trình nới lỏng những hạn chế và các quyền tham gia thị trường cho các bên
tìm kiếm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Giảm tối đa việc kiểm soát giá cả và lãi suất trên thị trường tài chính.
- Xã hội hóa khu vực tài chính và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cho vay tín dụng.
- Cho phép sự gia nhập rộng rãi trong lĩnh vực tài chính.
1.2. Nội dung của tự do hóa tài chính:
- Tự do hóa lãi suất.
- Tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại.
- Tự do hóa hoạt động ngoại hối.
- Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.

2. Bản chất của tự do hóa tài chính:
Bản chất của tự do hóa tài chính nhằm đưa hoạt động tài chính vận hành theo cơ chế nội tại vốn có
của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường nhằm tìm ra sự phối hợp
có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế xã hội.
3. Nguyên tắc và trình tự tự do hóa tài chính
3.1. Nguyên tắc của tự do hoá tài chính:
- Nguyên tắc 1: Tự do hoá tài chính được thực hiện tốt nhất trong bối cảnh kinh tế vĩ mô lành
mạnh.
- Nguyên tắc 2: Tự do hoá tài chính phải gắn bó chặt chẽ với việc thiết lập một cơ sở hạ tầng thể
chế có thể giảm thiểu rủi ro bất ổn tài chính.
- Nguyên tắc 3: Để có tốc độ tự do hoá tài chính thức hợp, tại từng thời điểm cần phải xem xét lại
những điều kiện tài chính và sự lành mạnh của các định chế tài chính cũng như thời gian cần thiết để tái
cơ cấu định chế này (nếu cần).
3.2. Trình tự tự do hoá tài chính:
a) Bối cảnh quốc tế:
Trình tự tự do hóa tài chính là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của quá trình này.
Thực tế diễn biến trên thế giới cho thấy khá nhiều “kịch bản” tự do hóa tài chính đã diễn ra ở các nước.
GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 1


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
Trước tiên phải kể đến khu vực Mỹ Latinh, cả Chile lẫn Argentina đều tiến hành tự do hóa lãi
suất, tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh, thúc đẩy cạnh tranh ngành ngân hàng trong một giai đoạn
nền kinh tế không thật sự ổn định về mặt vĩ mô. Đồng thời cơ chế giám sát cũng không được quan tâm
đúng mức. Hơn thế nữa, các quốc gia này còn tiến hành tự do hóa tài khoản vốn chỉ một thời gian ngắn
sau khi các cải cách khu vực tài chính nói trên được thực hiện. Kết quả là dòng vốn nước ngoài đổ vào
hai nước này rất mạnh, nợ nước ngoài tăng lên nhanh chóng. Cho đến đầu thập niên 1980 thì cả hai
quốc gia này đã phải đối mặt với khủng hoảng vĩ mô khá trầm trọng.

Các ý kiến đánh giá về sự thất bại của tự do hóa tài chính ở Chile và Argentina trong thập kỷ 1980
đều cho rằng, hai quốc gia này đã mắc sai lầm khi lựa chọn trình tự tự do hóa tài chính. McKinnon nhấn
mạnh, trước khi tiến hành tự do hóa tài chính trong nước thì cần phải ổn định môi trường kinh tế vĩ mô,
thực hiện cải cách khu vực kinh tế thực, và thiết lập một hệ thống giám sát hiệu quả. Khi những nền
tảng cơ bản này đã được thiết lập, các nhà hoạch định chính sách mới nên bắt đầu tự do hóa lãi suất và
dỡ bỏ kiểm soát tín dụng. Sau đó, cạnh tranh trong ngành tài chính cần được khuyến khích nhằm tạo ra
tính hiệu quả, ngăn chặn độc quyền và đầu cơ. Tự do hóa tài khoản vốn nên được thực hiện vào cuối của
quá trình cải cách, nhằm ngăn chặn tình trạng dòng vốn chảy vào quá nhanh và bất ngờ, tạo ra tình trạng
đầu tư tràn lan đầy rủi ro vào những lĩnh vực thiếu hiệu quả.
Trên thực tế, cải cách môi trường kinh tế vĩ mô lại không phải là ưu tiên của nhiều quốc gia
trước khi tiến hành tự do hóa khu vực tài chính. Chile, Niu Dilan, Peru và Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu dỡ bỏ áp
chế tài chính trong điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Argentina, Brazil, Ai Cập, Mehicô và
Venezuela thậm chí còn tiến hành giảm điều tiết khu vực tài chính khi lạm phát trong nền kinh tế còn
đang ở mức cao. Một yếu tố quan trọng nữa trong ổn định vĩ mô phải kể đến là mức thâm hụt ngân sách,
những nước có mức thâm hụt ngân sách trước cải cách cao (trên 5% GDP) sẽ gặp nhiều khó khăn hơn
những quốc gia duy trì mức cân bằng ngân sách hợp lý.
Hoạt động tín dụng là một trong những lĩnh vực nội địa nhận được sự cải cách nhanh nhất. Xu
hướng chung là các nước hướng tới những tỷ lệ dự trữ ngày càng thấp hơn. Khu vực Mỹ La tinh, với tỷ
lệ dự trữ đã giảm từ 40% còn khoảng 20% vào năm 1998, là khu vực có tỷ lệ dự trữ cao nhất thời kỳ từ
năm 1970 đến 1998.
Cải cách lãi suất cũng là một chính sách được đẩy mạnh ở nhiều quốc gia. Riêng chỉ có khu vực
Châu Phi cận Sahara có lãi suất thực liên tục nằm trong phạm vi từ âm (-) 10% cho đến 0% trong suốt
ba thập niên.
Một vấn đề nữa là tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Khu vực tài chính được tự do hóa sẽ
không thể đem lại những lợi ích tối đa nếu như trong nền kinh tế vẫn còn các doanh nghiệp nhà nước
quy mô lớn, trì trệ, hoạt động không hiệu quả. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò đáng kể ở một số
nền kinh tế phát triển như Pháp, Niu Dilan, Anh và ở đa số các nền kinh tế đang phát triển. Phần lớn các
quốc gia đã tiến hành những biện pháp nhằm giảm thiểu quy mô của khu vực kinh tế nhà nước trong
cùng thời gian tiến hành cải cách tự do hóa tài chính. Ví dụ, ba nền kinh tế phát triển Pháp, Niu Dilan,
Anh đã tiến hành những cải cách quy mô lớn đối khu vực doanh nghiệp nhà nước trong thập niên 1980,

cùng thời gian với giai đoạn tự do hóa khu vực tài chính. Một số nền kinh tế khác như Chile, Ai Cập,
Ấn Độ, Hàn Quốc, Mehico và Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí có những điều chỉnh mạnh mẽ khu vực kinh tế quốc
doanh trước khi tự do hóa tài chính, trong đó Chile, Hàn Quốc và Mehicô được đánh giá là thành công
hơn cả. Nhìn chung, tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước có thể không phải là một điều kiện cần của
tự do hóa tài chính nhưng nhất thiết nên được tiến hành song song với quá trình này.
b) Quan điểm của các nhà kinh tế học:
GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 2


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ

Đối với dòng vốn vào: Theo một nghiên cứu của John Williamson và Molly Mahar về kinh
nghiệm tự do hóa tài chính của 29 nền kinh tế lớn nhất thế giới cho thấy rằng, khả năng thành công khi
dỡ bỏ kiểm soát dòng vốn vào càng tăng khi các quốc gia đáp ứng được càng nhiều những điều kiện
sau:
(1) Tiến hành xong tự do hóa thương mại tối thiểu 2 năm trước khi bỏ kiểm soát dòng vốn.
(2) Mức thâm hụt ngân sách trung bình dưới 5% trong vòng 3 năm trước thời điểm bỏ kiểm soát
vốn.
(3) Tự do hóa tài chính trong nước tối thiểu 2 năm trước khi bỏ kiểm soát vốn.
(4) Tự do hóa cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng (cho cả ngân hàng trong nước và ngoài nước)
tối thiểu 2 năm trước khi bỏ kiểm soát vốn.
(5) Giảm tỷ lệ sở hữu chính phủ trong lĩnh vực ngân hàng xuống dưới 40% tối thiểu 2 năm
trước khi bỏ kiểm soát vốn.
(6) Thiết lập xong hệ thống giám sát và điều tiết đối với hệ thống tài chính theo cơ sở thị trường.
Trên thực tế, rất khó đạt được đồng thời tất cả các điều kiện này trước khi tự do hóa. Nghiên cứu
này còn cho thấy, các quốc gia đều chỉ mở cửa tài khoản vốn vào sau khi khắc phục xong thâm hụt ngân
sách, cơ bản hoàn thành tự do hóa thương mại và tự do tài chính tài chính trong nước. Một số quốc gia
đã giảm mạnh điều tiết hoặc tự do hóa cạnh tranh đối với lĩnh vực ngân hàng trước khi mở cửa dòng

vốn vào. Có 15/29 quốc gia vẫn còn kiểm soát cạnh tranh ngành ngân hàng, 8/29 quốc gia có hệ thống
ngân hàng quốc doanh chiếm trên 40% tỷ trọng tài sản ngành ngân hàng, và 13/29 quốc gia vẫn chưa
thiết lập xong cơ chế giám sát tài chính trên cơ sở thị trường.

Đối với dòng vốn ra: Theo nghiên cứu của Bernhard Fischer và Reisen Helmut, điều kiện để dỡ
bỏ kiểm soát dòng vốn ra bao gồm:
(1)

Tự do hóa lãi suất trong nước.

(2) Hệ thống chính sách có tính nhất quán cao, thể hiện bằng việc không có sự đổi hướng đột
ngột của chính sách trong vòng 4 năm trước đó.
(3) Kỷ luật ngân sách (thâm hụt ngân sách dưới 5% trong vòng 3 năm trước khi bỏ kiểm soát
dòng vốn).
(4)

Chính sách thuế minh bạch và ổn định.

Trên thực tế, hầu hết các quốc gia chỉ dỡ bỏ kiểm soát dòng vốn ra sau khi thực hiện xong tự do
hóa lãi suất trong nước và kỷ luật ngân sách được duy trì. Những quốc gia dỡ bỏ kiểm soát dòng vốn ra
trước khi tự do hóa lãi suất trong nước bao gồm lndonesia, Hàn Quốc, Malaysia và Thổ Nhĩ Kỳ. Các
nước như Ixaren, Ý, Niu Dilan, Nam Phi, Srilanka dỡ bỏ kiểm soát vốn khi thâm hụt ngân sách vẫn còn
ở mức cao.
Mặc dù phần lớn các quốc gia tiến hành tự do hóa dòng vốn ra sau khi tuân thủ các điều kiện cần
thiết, vẫn có một số nước đã tiến hành cải cách khi mà cơ chế cạnh tranh và cơ chế giám sát lĩnh vực
ngân hàng vẫn chưa được thiết lập đầy đủ. Indonesia là một trường hợp hơi “đặc biệt” trong tự do hóa
tài chính. Quốc gia này mở cửa dòng vốn ra và dòng vốn vào rất sớm từ đầu thập niên 1970, khi tự do
hóa tài chính trong nước và tự do hóa thương mại chưa hoàn thành. Điều này không hẳn đã là hoàn toàn
tiêu cực, vì nó giúp đem lại hai hiệu ứng tích cực sau:


GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 3


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
(1) Mối lo ngại về sự phát triển thiếu nhất quán của hệ thống tài chính đã buộc các nhà đầu tư
trên thị trường phải đẩy mạnh phòng ngừa rủi ro năng động hơn.
(2) Mở cửa tài khoản vốn thúc đẩy cải cách vĩ mô diễn ra nhanh hơn. Tuy nhiên, cuộc khủng
hoảng 1997 đã chỉ ra một vấn đề khác rất nguy hiểm của hệ thống tài chính Indonesia là các doanh
nghiệp lợi dụng tự do hóa tài khoản vốn để tích lũy những khoản nợ vay ngoại tệ khổng lồ không được
phòng ngừa rủi ro đầy đủ.
c) Trình tự tự do hoá tài chính:
Thực tế cho thấy, không thể có một trình tự tự do hoá tài chính thống nhất cho các quốc gia, do
các vấn đề về đặc điểm tùng quốc gia, thời điểm tự do hoá tài chính cũng như bối cảnh kinh tế.
Hạt nhân của tự do hoá tài chính là tự do hoá lãi suất và cần thiết phải kiểm soát quà trình tự do
hoá lãi suất, cụ thể là:
- Xác định thời điểm bắt đầu và tốc độ tự do hoá lãi suất căn cứ vào những tiến bộ đạt được trong
cải cách khu vực DNNN và khu vực ngân hàng;
- Quyết định lộ trình và trật tự tiến hành tự do hoá lãi suất của các công cụ tài chính khác nhau để
không gây ảnh hưởng xấu tới hệ thống ngân hàng;
- Ngân hàng Trung ương cần có chiến lược chỉ đạo chính sách tiền tệ trong khuôn khổ hệ thống
tài chính đã tự do hoá;
- Chuẩn bị những công cụ tài chính mới sau khi thực hiện tự do hoá tài chính.
II. Nhân tố tác động và điều kiện cần thiết của quá trình tự do hóa tài chính
1. Nhân tố tác động đến quá trình tự do hóa tài chính
1.1. Khách quan: Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế là nhân tố thúc đẩy tự do hóa tài chính.
- Toàn cầu hóa kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng của hoạt động kinh tế vựơt qua mọi biên
giớ quốc gia, khu vực tạo sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển
hướng tới một nền kinh tế thống nhất.

- Sự gia tăng này thể hiện ở mức độ và quy mô hợp tác kinh tế quốc tế , sự lưu chuyển của dòng
vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.
- Toàn cầu hóa mang lại lợi ích cho các quốc gia nhờ sự mở rộng thương mại hang hóa dịch vụ,
thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học kỹ thuật của các nước phát triển. bên cạnh đó nó cũng có
sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia. Do đó các quốc gia phải tăng cường thực lực kinh tế chủ động
hội nhập với thế giới nó là nhân tố tác động đến quá trình tự do hóa tài chính.
1.2. Chủ quan: Bị tác động bởi ý muốn chủ quan của các quốc gia trong điều hành nền kinh
tế.
Các quốc gia trên thế giớ có xu hướng mở cửa hội nhập, phát triển kinh tế của đất nước. để tham
gia vào thị trường chung của thế giới thì các nước phải tạo những điều kiện thuận lợi để bên kêu gọi đầu
tư bên ngoài, hợp tác kinh tế với các nước, tiếp thu khoa học kỹ thuật công nghệ của nước khác để phát
triển kinh tế của đất nước.

GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 4


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
2. Điều kiện cần thiết để thực hiện tự do hóa tài chính:
Các nước muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh hoạt,
ổn định và đáng tin cậy. Vì vậy, điều kiện cần thiết để một nước thực hiện tự do hóa tài chính là:
- Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
- Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa tài chính.
- Hệ thống tài chính hoạt động có hiệu quả.
- Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
- Sự đầy đủ và đồng bộ của khuôn khổ pháp lý.
- Một Chính phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí.
- Các thông tin phải được công bố minh bạch.
III. Tính chất hai mặt của tự do hóa tài chính

1. Mặt lợi của tự do hóa tài chính
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động dịch vụ tài chính cũng giống như các hoạt động trao đổi mua
bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập và sự tăng trưởng của
tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số giác độ sau:
- Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài chính hoạt động
có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực
quản lý.
- Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (do sự độc
quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích
với chi phí và thời gian ít nhất.
- Tự do hóa tài chính giúp thu hút được lượng vốn đầu tư rất lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ
hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu và
làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
- Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách kinh tế vĩ mô có
hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối
nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
- Ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế:
o Tăng cường quy mô và cải thiện sự phân bổ nguồn lực tài chính.
o Tạo điều kiện cho các công ty trong nước tiếp cận thị trường tài chính toàn cầu
o Cải thiện hệ thống quản lý công ty, tăng cường năng lực cạnh tranh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nước (giảm chi phí, tiếpcận nhiều công
cụ tài chính mới, áp dụng công nghệ thông tin).
2. Mặt trái của tự do tài chính
Nhờ tự do hóa tài chính, nhiều nước đang phát triển đã thu hút được lượng vốn đầu tư rất lớn và
tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển để mở rộng sản xuất kinh
GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 5



Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
doanh và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, dòng vốn vào tăng mạnh cũng gây khó khăn cho các cơ quan
quản lý tài chính trong việc duy trì ổn định giá trị bản tệ và ngăn chặn nguy cơ đào thoát của dòng vốn
đầu tư. Đối với các nước phát triển, tự do hóa tài chính đã khuyến khích dòng vốn đầu tư ra nước ngoài,
nhưng cũng gây khó khăn khi luồng vốn đầu tư đảo chiều quay về
Đối với các nước đang phát triển thì sẽ gặp các nguy cơ:
- Dễ gây ra khủng hoảng tài chính nếu tự do hóa tài chính không được tiến hành theo những bước
hợp lý và thiếu đồng bộ với những chính sách vĩ mô khác; thị trường tài chính trong nước có thể bị thao
túng bởi các thế lực bên ngoài, Chính phủ dễ mất quyền điều tiết thị trường đặc biệt quan trọng này
nhằm thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
- Nguy cơ tiền tệ hay đúng hơn là nguy cơ mất giá nội tệ do chính sách tỷ giá hối đoái không hợp
lý và nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng chuyển vốn ra nước ngoài.
- Nguy cơ tiền tháo chạy do thiếu các biện pháp kiểm soát dòng vốn ngắn hạn.
- Nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn

- Việc đẩy mạnh đầu tư từ các nước phát triển sang các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã
giúp các doanh nghiệp tăng thu lợi nhuận nhờ chi phí lương thấp, nhưng không khuyến khích đầu tư cải
tiến công nghệ và nâng cao năng suất lao động. Xu hướng này đã từng bước làm thui chột động lực tăng
trưởng và năng lực cạnh tranh của chính các nước phát triển, triệt tiêu chính sách tiền tệ và tỉ giá do mỗi
biện pháp nới lỏng tiền tệ tại các nước phát triển đều gây ra hiệu ứng lan truyền tại các nước còn lại trên
thế giới nhằm hỗ trợ xuất khẩu vốn rất mong manh, các nỗ lực cân bằng kinh tế và thương mại toàn cầu
vì thế đều thất bại.
IV. Phân loại tự do hóa tài chính
1. Căn cứ vào các thành phần tham gia vào hệ thống tài chính
- Tự do hóa lãi suất và giá cả: là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất của tự do
hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi
suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều hành theo định hướng. Tự
do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ khó đòi, tiến hành tư
nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng các chính sách kích thích cạnh tranh lành

mạnh trong khu vực ngân hàng.
- Tự do hóa hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại: Là xóa bỏ các hạn chế, định
hướng chủ quan hay ràng buộc về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng và mở rộng tín dụng cho các thành phần kinh tế .Đồng thời cải cách hơn
nữa các thủ tục hành chính đang xảy ra đối với đơn vị nhà nước , góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
- Tự do hóa hoạt động ngoại hối: Chính là xóa bỏ các hạn chế về quản lý ngoại hối và thực hiện
điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo quy luật thị trường.
- Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính: Tiến hành mở rộng tự
do cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính thông qua việc xóa bỏ các hạn chế trong phạm vi
hoạt động , phạm vi kinh doanh của các tổ chức tài chính .

GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 6


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
2. Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng:
- Tự do hóa tài chính trong nước: Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài
chính trong nước tự do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài
chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín
hiệu thị trường.
- Tự do hóa tài chính với nước ngoài: Loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại
hối. Bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch vốn.
V. Sự thành công của các nước trên thế giới khi tự do hóa tài chính
1. Hàn Quốc:
- Cho đến đầu những năm 1960, Hàn Quốc vẫn còn là một nước nghèo. Thu nhập bình quân đầu
người chỉ ở mức dưới 100USD. Nhưng khác với những nước đang phát triển khác cùng thời kỳ, Hàn
Quốc đã sớm mạnh dạn thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Từ đó kinh tế Hàn

Quốc phát triển rất nhanh. Đến năm 1997-1998, Hàn Quốc lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ trầm trọng. Nhưng điều kinh ngạc hơn là chỉ sau hơn 1 năm, Hàn Quốc đã ra khỏi được khủng
hoảng này và lấy lại được tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Chính nhờ quá trình tự do hoá tài chính ở Hàn
Quốc được tiến hành bằng một chương trình cải cách kinh tế và đã đạt được thành công khá ngoạn mục.
Chương trình cải cách của Hàn Quốc bao gồm cải cách thương mại và cơ chế tỉ giá. Cơ chế lãi suất có
kiểm soát được điều chỉnh tăng tới mức tạo ra lãi suất thực dương. Kết quả là: giá cả trong nước ổn
định, nền kinh tế có sự khởi đầu của con đường phát triển bền vững.
- Từ tốc độ tăng trường GDP là âm 6,7% năm 1998, sang đến năm 1999 nền kinh tế Hàng Quốc
đã nhanh chóng phục hồi, đạt tốc độ tăng trưởng 10,7% năm với tỷ lệ lạm phát 0,8%. Tỷ lệ thất nghiệp
giảm từ 8,7% trong thời gian khủng hoảng xuống còn 4,1% vào tháng 04 của năm 2000. Dự trữ ngoại tệ
tăng từ 3,9 tỉ đô năm 1997 lên 84,6 tỷ đô năm 2000. Đó thực sự là những thành tựu rất đáng khâm phục.
2. New Zealand:
- Trước năm 1984, sự can thiệp của chính phủ và khu vực tài chính là rất lớn nhưng sau đó chính
phủ đã đưa ra một chiến lược mới theo hướng thị trường. Một chương trình toàn diện bao gồm các cải
cách cơ cấu tìm cách thúc đẩy tăng trưởng và chấn chỉnh lại sự mất cân bằng cán cân thanh toán bằng
cách tăng cường vai trò của các lực lượng thị trường trong nền kinh tế, trong khu vực tài chính Nhà
nước đã xoá bỏ mọi kiểm soát lãi suất và phân phối tín dụng, thả nổi tỉ giá hối đoái đưa vào những hình
thức đấu thầu trên cơ sở thị trường khi bán chứng khoán chính phủ và thiết lập một hệ thống kiểm soát
tiền tệ mới.
- Để thúc đẩy cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính, chính phủ khuyến khích việc tham gia của các
ngân hàng mới bất kể nước nào và mở rộng quyền giao dịch bằng ngoại tệ cho những tổ chức ngoài khu
vực ngân hàng. Các biên pháp kiểm soát vốn nước ngoài được xoá bỏ nhằm tăng cường hơn nữa hoạt
động của thị trường ngoại hối. Chương trình tự do hoá được thực hiện cùng với việc tăng cường năng
lực giám sát kết quả cho thấy cạnh tranh tăn lên.
VI. Thực trạng tự do hóa tài chính ở Việt Nam
1. Tự do hóa lãi suất
Việc điều hành lãi suất đã từng bước gỡ bỏ dần các ràng buộc trong cơ chế điều hành lãi suất. qua
nhiều lần thay đổi cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và đã được tự do hóa theo cơ chế
thị trường ( từ lãi suất áp đặt sang “trần-sàn”, đến khống chế trần và cuối cùng là lãi suất thỏa thuận)
GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài


Page 7


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
- Trước tháng 6/1992 ngân hàng nhà nước can thiệp mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông
qua ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
- Từ 6/1992- 1995: xóa bỏ cơ bản về sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế,
quản lý lãi suất theo một khung bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay.
- Từ năm 1996-7/200: chuyển quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi-lãi suất tối đa về tiền
vay thành quy định các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất huy động vốn.
- Tháng 8/200-5/2001 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản.
- Từ 6/2001-5/2002 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản cho đồng Việt Nam và lãi suất thị trường đối
với ngoại tê
- Từ 6/2002-nay thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận cho Việt Nam đồng và ngoại tệ.
2. Tự do hóa tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy phép theo hướng
phù hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế. Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại
hối đã được tiến hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần trách
nhiệm và hiệu quả hoạt động của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người
dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp cho NHNN có điều kiện tập trung nghiên cứu cơ chế, chính
sách theo mô hình ngân hàng trung ương hiện đại.
Từ tháng 12/2005, các giao dịch vãng lai được tự do hóa hoàn toàn và giao dịch vốn đã được nới
lỏng đáng kể với việc ban hành pháp Lệnh ngoại hối.
Tỷ giá hối đoái: thay dổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều chỉnh, đến tỷ
giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường.
3. Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chinh trên thị trường
Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối tượng khách hàng sang tín
dụng không phân biệt thành phần kinh tế và tách bạch hoạt động cho vay chính sách với cho vay thương
mại.

Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần kinh tế và tổ chức tài chính
trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ hoạt động cung ứng dịch vụ độc quyền của ngành ngân hàng
sang thị trường tài chính đa ngành
Hệ thống thanh toán và thị trường tài chính đã được hình thành và phát triển, góp phần hỗ trợ cho
quá trình tự do hóa và cải cách khu vực tài chính- ngân hàng.
4. Tự do hóa giao dịch vốn
Tự do hóa giao dịch vốn ở Việt Nam đang từng bước thực hiện.
- Thu hút FDI và mở cửa ngoại thương, nới lỏng kiểm soát lợi nhuận chuyển ra
- Nhà đầu tư được phép mua trái phiếu chính phủ với khối lượng và trị giá không hạn chế.
Tuy nhiên do độ mở cửa của nền kinh tế lớn, Việt Nam cũng chịu những tác động bất lợi của dòng
vốn đầu tư gián tiếp như áp lực lạm phát, thâm hụt …..Hệ thống tài chính còn rất yếu kém, tỷ lệ nợ xấu
cao, rủi ro hệ thống lớn, chế độ quản trị ngân hàng còn yếu kém, cơ chế tỷ giá còn cứng nhắc… vì vậy
tự do hóa giao dịch vốn ở Việt Nam một cách an toàn chưa đầy đủ.
GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 8


Nhóm 5 – Môn học: Tài chính – Tiền tệ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
/> /> /> /> />
GVHD: PGS. TS Bùi Thị Mai Hoài

Page 9



×