Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Văn hóa ẩm thực truyền thống của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.62 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1.
-

Lý do chọn đề tài:
Văn hoá truyền thống Mông có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá tinh
thần người Mông. Tuyệt đại đa số người Mông là nông dân. Xã hội Mông vẫn
là một xã hội nông nghiệp truyền thống mang nặng tính chất tự cung tự cấp.
Trong xã hội Mông, ý thức cộng đồng vẫn chi phối nếp sống người Mông.
Văn hoá truyền thống Mông chi phối mọi quá trình sản xuất, nhu cầu, phổ

2.
-

biến và tiêu dùng văn hoá ở xã hội người Mông.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài nghiên cứu còn mới , hầu như chưa có ai tham gia nghiên cứu công
trình này, và chưa có công trình nghiên cứu tiêu biểu ,nên em sẽ nghiên cứu
đề tài này .
Mục đích nghiên cứu :

-

Nghiên cứu phong tục tập quán thông qua văn hóa ẩm thực của người dân tộc

-



Mông-Hà Giang .
Nghiên cứu các giá trị văn hóa trong văn hóa ẩm thực, xác định được các giá

-

trị văn hóa cốt lõi .
Nghiên cứu, hệ thống hóa để phục vụ cho công tác phát triển du lịch, công

-

tác hoạt đông du lịch .
Đề xuất ra giải pháp phát huy giá trị văn hóa ẩm thực của dân tộc Mông-Hà

4.
5.
-

Giang .
Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu: văn hóa ẩm thực của dân tộc Mông-Hà Giang .
Phạm vi nghiên cứu: Thị trấn Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang .
Thời gian nghiên cứu: từ 1/6/2015 đến 19/6/2015 .
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng hợp dữ liệu, phân tích và

6.
-

phương pháp quan sát .

Đóng góp của đề tài :
Tiểu luận là tài liệu nghiên cứu cho những nhà quản lý văn hóa, những người
đang theo học ngành văn hóa du lịch .

2


-

Tiểu luận là tài liệu thiết thực, tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên trường
Đại học Văn Hóa Hà Nội chuyên ngành về mỹ thuật quảng cáo,văn hóa du

-

lịch, di sản văn hóa, là tài liệu chuyên sâu về chuyên ngành .
Là tài liệu cần thiết cho những nhà nghiên cứu về văn hóa ẩm thực, những
người tìm hiểu chuyên sâu về giá trị của văn hóa ẩm thực, tầm quan trọng của

-

văn hóa ẩm thực trong đời sống thường nhật .
Làm rõ nết hơn những nét đặc sắc của tộc Mông ở Hà Giang; phân tích và hệ
thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Mông dưới góc độ triết học, qua đó
đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc

7.

văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang trong giai đoạn hiện nay .
Cấu trúc bài tiểu luận :
Nội dung của tiểu luận bao gồm 2 chương :

Chương 1 :Văn hóa ẩm thực của người Mông-Hà Giang .
Chương 2 : Thực trạng về văn hóa ẩm thực của người Mông-Hà Giang .

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÔNG TÁC QUẢN LÍ VĂN HÓA ẨM THỰC
CỦA NGƯỜI MÔNG TẠI HÀ GIANG
1.1.
-

Cơ sở lý luận
Người Mông ở Hà Giang có khoảng 194.483 người với 2 nhóm chính là
Mông trắng và Mông hoa. Người Mông ở đây nổi tiếng với truyền thống canh
tác nương đá, trồng lúa, ngô và các loại hoa màu khác. Sản xuất thủ công của
đồng bào Mông đạt đến trình độ khá cao như dệt, đan lát, làm đồ gỗ, rèn
đúc... Trang phục truyền thống của phụ nữ Mông rất độc đáo. Một bộ nữ phục
3


bao gồm váy, áo cánh, áo xẻ ngực có yếm lửng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà
cạp... Váy thường là hình nón cụt, xếp nếp xoè rộng, cũng có khi là váy ống,
khi mặc xếp ở hai bên hông. Nhà của người Mông làm bằng đất, có 3 gian,
gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên. Các cửa chính và cửa phụ đều mở về phía trong.
Văn hoá truyền thống người Mông là một kho tàng hết sức phong phú với
những phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng. Các dòng họ người Mông có
cách thờ cúng tổ tiên không giống nhau. Một số lễ cúng chính như cúng ma
cửa (xia mình), ma lớn mụ (đa trung) với số lượng, nội dung các bài cúng, bài
trí, sắp xếp nơi cúng, nơi ăn uống đa dạng và phức tạp. Văn học nghệ thuật
Mông thể hiện tâm lý, ý thức của cộng đồng, các vấn đề về tự nhiên, xã hội và
lịch sử. Nổi bật trong đó là những khúc hát về tình yêu, được thể hiện bằng
khèn, sáo, đèn môi, kèn lá. Hoa văn trang trí trên váy là các hình bướm, rắn,

hoa, răng bừa, mắt chim, chân lợn... màu sắc hài hoà. Tất cả là những tài sản
-

vô giá của cộng đồng người Mông được lưu giữ từ lâu đời.
Người Mông ở Hà Giang thích nghi với đời sống trên các dãy núi cao từ
800m đến 1700m so với mặt nước biển. Núi bao quanh người Mông và người
Mông gắn bó với núi non trong mọi đời sống: Sinh hoạt, tình cảm, tập tục và
tâm linh.

-

Mèo vạc tiêu biểu cho các khu định cư của cộng đồng dân tộc Mông ở Hà
Giang. Người Mông quan niệm về vũ trụ: Sở dĩ có trời và đất là do Vua trời
cử ông Chày sinh ra bầu trời và cử bà Chày sinh ra mặt đất, lúc mới được tạo
ra mặt đất hình vuông, 4 góc phẳng phiu, còn bầu trời tròn và nhỏ hơn mặt
đất. ông Chày bèn bảo bà Chày hãy co bớt mặt đất lại để nhỏ bằng mặt trời,
bà Chày co lại và đã làm cho mặt đất lồi lõm: Chỗ cao thành núi, chỗ thấp
thành đồng bằng, chỗ hằn sâu thành sông, suối, ao, hồ, chỗ lõm sâu thành
biển cả ... và sau đó con người được sinh ra đó là quan niệm thô sơ, ban đầu
của người Mông cũng như một số dân tộc khác khi giải thích về vũ trụ thời kỳ
trước đây.
4


1.2. Hệ thống hóa cơ sở lý luận ẩm thực, văn hóa ẩm thực :
-

Người Mông sống ở độ cao 800 đến 1700m so với mặt nước biển cho nên
nước rất hiếm vì vậy người Mông chủ yếu sống bằng nghề làm nương rẫy và
ngô là nương thực chính của người Mông. Ngoài trồng Ngô, người Mông còn

trồng các cây khác: Đậu tương, khoai, dong giềng... Cây ăn quả: Mận, Táo,
Lê, Đào... và các cây dược liệu như Xuyên khung, ý dĩ...Nương của người
Mông có hai loại: Luân canh và quản canh. Về thời vụ: trước kia người Mông
trồng độc canh cây ngô, sau này do áp dụng khoa học kỹ thuật người Mông đã
chuyển từ một vụ sang trồng 2 - 3 vụ. Do đất ít, chủ yếu canh tác trong các
hốc đá nên người Mông có kỹ thuật thâm canh, xen canh khá cao. Trong một
nương ngô người Mông có thể trồng cả bí, dưa .

-

Ngoài các cây trồng trên, người Mông còn rất chăm chút đến một loại cây
trồng nữa đó là cây lanh. Cây lanh được người Mông dành cho vạt đất tốt
nhất, cho nhiều phân chuồng nhất để gieo hạt, sợi lanh dai và bền hơn sợi đay.
Phụ nữ Mông dùng sợi lanh để dệt vải, may váy. Đã là phụ nữ Mông thì hầu
hết không ai là không biết nghề dệt vải truyền thống. Bên cạnh làm nương rẫy
người Mông còn chú ý đến công việc chăn nuôi gia súc, gia cầm vì kinh tế
của người Mông chủ yếu là tự cấp, tự túc. Chuồng gia súc người Mông làm
ngay trước cửa nhà, có lát ván và làm vệ sinh hàng ngày. Người Mông quan
niệm: Vạn vật đều có hồn, đối với vật nuôi trong nhà đều có "đá chỏ" (ma tổ)
vì vậy khi mua vật về nuôi đều phải làm lễ, lễ rất đơn giản: Một nén hương,
bát nước, một mụn vải đỏ buộc vào chuồng nơi con vật ở.

-

Vật nuôi của người Mông là con bò, con ngựa.., bò dùng để làm sức kéo (cày
nương), ngựa dùng để cưỡi và thồ hàng. Khi bán và đổi ngựa người Mông giữ
lại bộ yên cương vì họ cho rằng, có giữ lại bộ yên cương thì mua con ngựa
sau mới tốt. Bên cạnh đó người Mông còn nuôi dê, lợn, gà, ngan,
ngỗng...Những vật nuôi này người Mông thường để làm thức ăn dần trong gia
đình, rất ít khi mang đi bán. Còn một loại vật nuôi là đặc sản quý của người

5


Mông đó là nuôi ong. Ong vùng núi cao hít thở khí trời trong lành và hương
hoa núi rừng nên cho một thứ mật sánh xanh, ngọt thơm - Đây là loại dược
liệu qúy dùng chữa nhiều bệnh tật của người Mông.
1.3. Văn hóa ẩm thực của người Mông-Hà Giang :
-

Trong các món ăn hàng ngày cũng như lễ hội, dân tộc Mông rất chú trọng đến
gia vị và màu sắc vì đặc điểm thiên nhiên ở đây giá lạnh, rất cần có những
món ăn ấm, nóng với màu sắc mạnh. Nếu như ăn uống trong ngày thường là
yêu cầu trọng thực, đảm bảo nhu cầu no thì ở những phiên chợ đông vui, nhu
cầu ăn uống cộng cảm được đặt lên hàng đầu. Chỉ cần một bình rượu và một
chảo thắng cố, lần lượt, từng người sẽ uống chung bát rượu và ăn chung một
chảo canh. Đó là một hình ảnh đẹp về tính cộng đồng và bình đẳng của người
Mông ở vùng cao (Hà Giang, Tây Bắc) trong cách thức ăn uống.

6


-

Cây lương thực chính của người Mông là cây ngô cho nên ở nhiều vùng, đồng
bào sử dụng ngô là món ăn chính. Món ngô hấp (hoặc đồ, thường gọi là mèn
mén) bao giờ cũng ăn với canh có nhiều mỡ, do ở vùng cao, trời rét nên mỡ là
món ăn thường xuyên. Đối với người Mông, bữa ăn sáng là bữa phụ, hai bữa
chính là trưa và tối. Ngô được xay thành bột, trộn nước cho đủ ẩm rồi nhào bột
đồ chín lần đầu, đổ ra cho nguội, lại cho chút nước nhào đều và đồ tiếp lần
nữa. Bột chín được đổ vào rá rồi dùng thìa xúc ăn với nước canh, rau, thịt và

các thức ăn khác.

-

Mèn mén: Là ngô bột được say nhỏ bằng cối đá, sau đó người Mông sàng xẩy
thật sạch rồi cho nước vừa phải để nhào trộn thật tơi, xốp cho vào chõ để đồ,
khi hơi toả đều trên mặt chõ, lại đổ ra nia nhào nước và cho vào chõ đồ lần
thứ hai đun cho tới khi chín. Vì bận công việc nương rẫy, hơn nữa làm mèn
mén mất nhiều thời gian nên người Mông thường đồ một chõ đầy, đủ ăn cả
ngày.

-

Bánh ngô được làm bằng ngô nếp hoặc ngô tẻ non, nếu là ngô non bà con
chọn quả ngô bánh tẻ, bấm ra sữa, chưa tẽ được, lấy dao mỏng lát lấy hạt ngô,
sau đó cho vào cối say được thứ nước quánh đặc như sữa. Gói bột ngô đó vào
lá cho vào chõ đồ thành bánh. Đối với ngô nếp bà con say bột rồi ủ nước, sau
đó được thứ bột giống bột gạo người Việt làm bánh phở, tiếp đó gói lại cho
lên bếp đồ. Ngoài ra bà con còn dùng bột ngô nếp để làm bánh trôi.

-

Có lẽ món hấp dẫn nhất với đàn ông Mông lại chính là rượu ngô. Hầu hết các
vùng người Mông sử dụng ngô là nguyên liệu chính để nấu rượu. Trước đây,
người Mông thường dùng các giống ngô địa phương, chủ yếu là ngô tẻ để nấu
rượu. Chính nhờ hương vị đặc trưng của giống ngô địa phương, kết hợp loại
men được làm từ hạt hồng mi, cùng với kỹ thuật ủ cái rượu, trưng cất rượu
được đúc kết qua nhiều thế hệ mà người Mông đã cho ra một loại rượu có
7



hương vị thơm ngon, đậm đà riêng của mình. Rượu là thức uống được người
Mông sử dụng hàng ngày và không thể thiếu trong các dịp lễ Tết để cúng tổ
tiên, mời anh em, con cháu, bạn bè đến chơi nhà cùng nhâm nhi hàn huyên
tâm sự.
Ngày nay, khi kinh tế đã phát triển, cuộc sống của đồng bào Mông cũng
khấm khá hơn bởi vậy các món ăn chế biến từ ngô cũng đã giảm dần, đặc biệt
là món mèn mèn không còn được đồng bào chế biến thường xuyên như trước
đây nữa, tuy nhiên đối với đồng bào Mông nó vẫn là món ăn truyền thống,
hấp dẫn và không thể thiếu được trong các dịp lễ Tết hay vào các buổi chợ
phiên.
-

Thức ăn hàng ngày của người Mông gồm rau cải, đậu, bí đỏ. Ngày mùa, ngày
tết, ngày lễ có thêm thịt gà, thịt dê, thịt lợn hoặc thịt bò. Thịt lợn có thể là thịt
lạp treo trên bếp làm thức ăn dần; thịt bò có thể là thịt khô treo gác bếp, người
Mông làm thức ăn thường ninh nhừ, ít có món xào, gia vị thường có ớt, gừng.
Bình thường không có khách cả nhà người Mông ngồi ăn chung, nếu có
khách thì đàn ông và khách ăn trước, phụ nữ, trẻ em ăn sau.

-

Nói đến Thắng cố, ai cũng biết đó là đặc sản của đồng bào dân tộc Mông ở
miền núi phía Bắc. Nhưng bây giờ, thắng cố đã trở thành món ăn ngon và
quen thuộc của nhiều tộc người vùng cao. Nếu người miền xuôi tự hào vì có
phở, thì người miền núi tự hào vì có thắng cố. Trời càng lạnh, thắng cố càng
ngon, thêm bát rượu ngô ấm nồng với người miền núi thực không có gì sánh
bằng.

-


Thắng cố xưa chủ yếu là xương bò, xương trâu ninh nhừ cùng với lục phủ ngũ
tạng của gia súc ăn cỏ. Nồi thắng cố to, sôi lục bục nổi lên những tảng thịt,
tảng mỡ to lên màu vàng nhạt trông mới hấp dẫn làm sao. Món ăn nhiều đạm
8


như thế mới đủ ấm lòng những người đi chợ xa, lâu lâu mới có dịp thưởng
thức món ăn đặc sản này.

-

Thắng cố ngay nay, nhất là thắng cố ở trong các nhà hàng mang thương hiệu
“dân tộc”, hương vị đã bay đi ít nhiều. Bởi nồi thắng cố ấy đã bị các gia vị
tẩm ướp “tung hỏa mù” khiến thực khách bị mụ mị bởi mùi thơm, bởi vị ngọt
của bột nêm, mỳ chính.

-

Các quán thắng cố vùng cao bây giờ nhiều nơi chế biến rất cẩn thận, sạch sẽ
vì đồng bào đã hiểu ý nghĩa của khẩu hiệu “giữ vệ sinh an toàn thực phẩm” và
cũng là một bí quyết để thu hút khách. Những hình ảnh mà Thiếu nhi dân tộc
giới thiệu với bạn là các bước chuẩn bị chế biến món thắng cố ngựa của người
Mông ở Đồng Văn, Hà Giang. Các loại xương, thịt, ngũ tạng đều được đồng
bào làm sạch sẽ và để riêng từng loại. Nồi nước dùng được đầu bếp người
Mông “chăm sóc” rất chu đáo, múc từng muỗng bọt ra để nước xương thêm
ngọt, thêm trong. Xương nhừ thì cho thịt vào nồi, thịt vừa chín tới thì cho
lòng, dạ dày, tim gan vào tiếp .

-


Từng bát thắng cố nhỏ điểm những lát hành hoa được múc ra, nhà bếp không
quên bên cạnh những đĩa gia vị xinh xắn chế biến cầu kỳ theo đúng hương vị
vùng cao. Vị ngon của thắng cố hòa với hương vị đặc biệt của đồ chấm làm
cho thực khách cứ hít hà, tấm tắc khen ngon. Anh Giàng Dũng Sài, một người
Mông tài hoa, nổi tiếng vì chơi được nhiều loại nhạc cụ dân độc, đồng thời
cũng là một “đầu bếp trẻ không đến nổi tồi” nói vui: “Đây là người Mông chế
biến thắng cố theo tiêu chuẩn của người miền xuôi. Thực ra, thắng cố nguyên
gốc của người ngày xưa đơn giản rất nhiều mà ngon cũng không kém. Chỉ có
điều ngày xưa ở vùng cao hiếm lắm nên chế biến chưa được sạch sẽ như bây

9


giờ thôi. Thắng cố ngày xưa được múc bằng muôi gỗ, đựng trong bát gỗ nên
trông giản dị hơn.
-

Người Mông còn dùng ngô non thái hạt, xay nhuyễn hoặc dùng bột ngô nếp
làm bánh rợm, bánh trôi. Món ăn phổ thông được đồng bào ưa dùng là đỗ
tương xay thành bột đun sôi, cho ít nước chua và rau vào nấu chín làm canh.
Món ăn khô là lạc, vừng rang.Thịt để dành lâu ngày được ướp muối, phơi
hoặc sấy khô trên gác bếp. Do điều kiện sống trên núi nên ngoài thịt thú rừng,
thịt gia súc, gia cầm, trứng gà, vịt, hiếm khi đồng bào được ăn ốc, cá. Các loại
rau rừng như bồ khai, rau ngót rừng, các loại nấm, măng, hoa chuối, lõi non
thân chuối, các loại quả bứa, vả, dâu da thường được xào nấu hoặc ăn sống
như các loại quả cây.

-


Ngoài ra người Mông còn có một món ăn trong các phiên chợ, ngày hội, đó là
món thắng cố, là món thịt thái to, cả xương, lòng gia súc gồm: thịt dê hoặc
thịt bò hầm nhừ trong chảo, dùng ăn nóng. Ngoài ra, còn có thể ăn với bún,
phở hoặc mỳ tôm .

-

Đồ uống hàng ngày là nước đun sôi để nguội, hoặc nướng quả ngô cháy vàng
cho vào nồi nước sôi để dùng như nước chè nhưng có chút mùi khét, vị ngọt;
hoặc uống chè dây là cây dây leo bò, mọc hoang ở rừng núi. Do du canh du
cư không trồng được chè, đồng bào thường mua chè để uống, tiếp khách.
Nhiều khi đi rừng, làm nương rẫy họ còn phải uống nước khe suối.

-

Rượu được rất nhiều người ưa dùng, thậm chí nam giới thường dùng hàng
ngày. Các dịp cưới xin, cúng ma, tiếp khách và các ngày tết không thể thiếu
rượu. Do cây lương thực chính là ngô nên rượu của người Mông thường được
cất từ ngô. Tuy nhiên cũng có người cất rượu từ mì, mạch, sắn, chuối và các
cây có bột trong rừng.

10


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ VĂN HÓA
ẨM THỰC CỦA NGƯỜI MÔNG TẠI HÀ GIANG
-

2.1. Vấn đề về văn hóa ẩm thực :
Văn hóa ẩm thực của người Mông của thị trấn Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang vô

cùng đặc sắc và phong phú . Lương thực chính của họ là ngô nên rất nhiều
những món ăn từ ngô được người dân tại đây sáng tạo ra với mục đích thay
đổi phong cách ăn uống , hay nói cách khác là họ luôn tìm ra những món ăn
mới mẻ để dần hợp khẩu vị và tránh nhàm chán . Dần dần, những món ăn đó
đã trở nên thân thuộc với họ, và dần dần không thể thiếu được trong những
dịp lễ Tết hay những dịp phong tục quan trọng .

-

Những du khách thập phương, tứ xứ du lịch tại khu thị trấn Mèo Vạc này
cũng vô cùng thích thú với hệ thống văn hóa ẩm thực tại nơi đây . Họ được
trải nghiệm những món ăn mới lạ mà chỉ ở dân tộc vùng cao này mới có . Họ
cảm nhận hết hương vị đặc trưng của các món ăn nơi đây . Họ có thẻ đem về
làm quà hay sử dụng như là một món ăn nhẹ, một bữa ăn nhẹ trong những
ngày du lịch ở trên đây .

-

Hệ thống văn hóa ẩm thực được tổ chức quy mô hơn, được hình thành như
một dịch vụ du lịch, khác với loại hình du lịch ngắm cảnh, tham quan, thì đây
là một loại hình dịch vụ ăn uống, hay còn gọi là dịch vụ về văn hóa ẩm thực .

2.2. Thực trạng về văn hóa ẩm thực :
11


-

Thế nhưng, những vấn đề trên lại vô hình chung biến văn hóa ẩm thực của
người Mông ở Hà Giang trở thành một thực trạng về văn hóa trong ẩm thực ,

là một vấn đề nhức nhối trong công tác xã hội và hệ thống các giá trị văn
hóacủa dân tộc Mông nói riêng và toàn dân tại thị trấn Mèo Vạc, thị xã Đồng
Văn , tỉnh Hà Giang nói chung .

-

Đồ ăn xưa nay đã không còn xuất hiện, hương vị của những món ăn truyền
thống dần đã mất . Ngày nay, trình độ dân trí ngày càng phát triển, đòi hỏi
cuộc sống phải được cải thiện, đi lên, trong đó, văn hóa ẩm thực cũng dần
phải được xây dựng lại . Những món ăn đã dần được chế biến sao cho hợp
khẩu vị không chỉ với người dân ở trên vùng cao, mà còn phải hợp khẩu vị
với khách du lịch .

-

Không gian bài trí hay bày bán các món ăn đã thay đổi rất nhiều, giờ đây ,
“chợ” đã không mang đúng nghĩa của nhưng phiên chợ này xưa nữa, mà
thay vào đó là những nhà cao tầng, những quán ăn mọc lên, làm nâng cao giá
trị của những món ăn đã từ rất lâu .

-

Phong cách chế biến món ăn đã dần chuyên nghiệp và hiện đại hơn . Nhưng
chính vì suy nghĩ làm lợi , đặt tiêu chí lãi lên hàng đầu nên đã nảy sinh ra
nhiều vấn đề về cách chế biến . Những món ăn giờ đã sử dụng nhiều chất tẩy
rửa, chất khử mùi và chất tạo vị , ngoài ra, cách chế biến mất vệ sinh và thiếu
tâm huyết với những món ăn truyền thống của mình .Xuất hiện những hiện
tượng làm cẩu thả trong mỗi món ăn của mình, thiếu đi tính bắt mắt và tinh tế
trong từng món ăn, làm hạ thấp giá trị văn hóa ẩm thực .
2.3. Giải pháp quản lí :


-

Đối với những loại hình du lịch khác, ăn uống cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc tác động tới cảm nhận của du khách về toàn bộ chuyến đi du lịch
nhưng không được xem như là một nhân tố để du khách quyết định thực hiện
12


chuyến đi du lịch. Vì vậy, đôi khi chỉ cần xây dựng thực đơn phù hợp với
khẩu vị của du khách. Điểm đến cần có nền văn hóa ẩm thực phong phú, độc
đáo bao nhiêu thì càng hấp dẫn khách du lịch bấy nhiêu . Mức độ phong phú
của một nền ẩm thực có thể là do sự hội tụ của nhiều tộc người khác nhau trên
cùng một vùng, miền hoặc cũng có thể đó là nơi tập trung của nhiều làng nghề
ẩm thực …Sự phong phú của nền văn hóa ẩm thực sẽ mang đến cho du khách
nhiều cơ hội khám phá, học hỏi. Còn tính độc đáo được tạo nên bởi những
đặc trưng của một nền ẩm thực, nó tạo ra sự khác biệt với các nền văn hóa ẩm
thực khác. Sự độc đáo có thể biểu hiện ở cách thức chế biến món ăn , mùi vị
đặc trưng, lợi ích của món ăn hay ở kiến trúc nhà hàng, quán ăn… Vì vậy
luôn tìm tòi, sáng tạo nhưng không làm mất đi bản sắc riêng là yêu cầu không
thể thiếu trong việc phát triển du lịch nói chung, du lịch ẩm thực nói riêng .
-

Đối với loại hình du lịch ẩm thực, sự phát triển của hệ thống cơ sở vật chất
trong lĩnh vực kinh doanh ăn uống , sản xuất chế biến biến thực phẩm là điều
kiện hết sức cần thiết. Tại đây, du khách không chỉ được thưởng thức các món
ăn , đồ uống mà còn được ngắm nhìn khung cảnh, bài trí của nhà hàng, quán
ăn. Những nhà hàng, quán ăn mang đậm phong cách truyền thống của địa
phương, dân tộc thì càng có sức hút cao đối với du khách. Từ việc thiết kế,
trang trí nhà hàng hay đến các thiết bị phục vụ như bàn ghế, bát , đĩa, chén,

nậm rượu hay ấm tích đựng nước chè, các tranh ảnh , các dụng cụ sản xuất
như cối xay giã gạo, dần, sang, nia, nong đến các dụng cụ săn bắt thú và thủy
hải sản như nơm, vó, lưới…Bên cạnh đó, các bản nhạc dân tộc và các dụng cụ
chiếu sáng được sử dụng như đèn dầu, nến cũng góp phần tác động mạnh mẽ
đến các giác quan của du khách, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ và hấp dẫn du
khách để du khách có thể nhớ mãi rồi kể lại cho bạn bè, người thân. Đây là
hình thức tuyên truyền, quảng cáo rất hữu hiệu. Không những thế , du khách
còn có thể tham quan các quy trình sản xuất, chế biến phẩm tại các làng nghề

13


ẩm thực hay xưởng sản xuất như làm bún, bánh tráng, giò chả…Du khách
cũng có thể tự học cách nấu ăn tại nhà hàng hay lớp dạy nấu ăn. Tuy nhiên,
việc thiết kế, xây dựng các nhà hàng, quán ăn đặc biệt chú ý đến các điều kiện
vệ sinh và sự hài hòa với môi trường xung quanh .
-

Nhân tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển văn
hóa ẩm thực. Đối với loại hình văn hóa ẩm thực, lao động trong bộ phận sản
xuất , chế biến thực phẩm và bộ phận dịch vụ thức ăn, đồ uống cần được chú
trọng đặc biệt. Phải làm sao để chế biến ra những món ăn, đồ uống ngon, bổ,
trình diễn những kỹ thuật chế biến mới lạ, hấp dẫn và tạo dựng được phong
cách phục vụ chuyên nghiệp. Để làm được điều đó, không những đòi hỏi bản
thân người lao động có long nhiệt huyết, đam mê, tự trau dồi kiến thức mà
còn có sự đào tạo bài bản từ phía các trường lớp. Có vậy mới tạo ra đội ngũ
người lao động đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng .

-


Sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương là cần thiết đối với sự phát
triển của văn hóa ẩm thực. Đối với loại hình văn hóa ẩm thực, cái mà du
khách tìm đến không chỉ là vị ngon của thức ăn, đồ uống mà còn là những giá
trị về mặt tinh thần. Đó là sự hiểu biết về một nền văn hóa khác thông qua
những phong tục truyền thống , lối sống của người dân bản địa . Hơn ai hết,
chính người dân bản địa lại là những người am hiểu nhất về nền văn hóa địa
phương. Và cũng chính họ sẽ là người quyết định sự thịnh suy của một nền
văn hóa đó. Chính vì thế, để có thể lưu giữ và phát huy văn hóa ẩm thực, thì
phải dựa vào chính người dân địa phương.

-

Vấn đề an toàn tính mạng luôn là vấn đề du khách quan tâm khi quyết định
điểm đến cho chuyến du lịch của mình . Theo lý thuyết Maslow về nhu cầu
của con người, nhu cầu an toàn cho tính mạng được xếp ở vị trí thứ hai trong

14


bậc thang các nhu cầu, chỉ sau nhu cầu sinh lí . Với loạihình du lịch ẩmthực,
du khách dường như luôn tiếp xúc với thức ăn, đồ uống của điểm đến . Nếu
không được đảm bảo về vệ sinh thì đó chính là nguồn khiến mầm bệnh xâm
nhập trực tiếp và nhanh nhất vào cơ thể con người . Do đó, cần chú trọng đặc
biệt đến vấn đề vệ sinh, cả ở khu vực bên trong các nhà hàng, quán ăn, các
làng nghề và môi trường xung quanh . Đối với bên trong, phải đảm bảo sự
sạch sẽ ở mức cao nhất các trang thiết bị , dụng cụ nấu nướng, ăn uống .
Nguồn nguyên liệu phải ro rang xuất xứ, đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh…
Đối với bên ngoài, cần thực hiện tốt các điều kiện vệ sinh môi trường và biện
pháp xử lý chất thải .
-


Nên có hệ thống chính sách quản lí và nguyên tắc đảm bảo sự phát triển lâu
dài hoạt động kinh doanh văn hóa ẩm thực của các chủ thể quản lí nhà nước,
các đơn vị kinh doanh du lịch cùng các bộ, ban ngành liên quan , để định
hướng cho sự phát triển của du lịch nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng
trên địa bàn. Giữa các cá nhân tổ chức như chính quyền địa phương, cơ quan
quản lí, nhà kinh doanh, dân cư địa phương cần thiết lập một hệ thống nguyên
tắc trên cơ sở trao đổi, bàn bạc thống nhất cách thực hiện, kiểm soát. Hệ
thống này là cơ sở đánh giá chất lượng, mức độ phù hợp của những tổ chức,
cá nhân tham gia kinh doanh du lịch ẩm thực với đặc trưng của ẩm thực địa
phương.

15


KẾT LUẬN
-

Rượu ngô ấm nồng, thịt trâu gác bếp, chè San Tuyết, rau cải mèo, măng nứa,
cháo ấu tẩu hay thắng cố... là những món đầu tiên mà du khách phải nếm thử.
Đặc biệt, du khách nhất định phải ăn món gà Mèo - giống gà đen chỉ có trên
cao nguyên đá. Thịt gà béo, dù luộc, rang hay nấu canh gừng đều rất ngon.
Buổi tối, để xua đi cái lạnh, du khách hãy ăn chè nóng, ngô nướng, mía

-

nướng…
Có những du khách nước ngoài sau nhiều chuyến khám phá các vùng núi
châu Á, lại bị mê hoặc bởi những cung đường hun hút gió và nét đẹp ngây thơ
của em bé miền sơn cước… Và có ai đó đã mòn gót chân du lịch thế giới, một

ngày đặt chân trên đất Đông Bắc, chợt nhận ra không nơi đâu đẹp bằng quê
hương mình.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-

“Dân tộc Mông ở Hà Giang”, Cư Hòa Vần-Hoàng Nam, 1994, Nxb Văn hóa

-

Dân tộc, Hà Nội.
“Văn hóa dân tộc Mông Hà Giang”,Trường Lưu-Hùng Đình Quý, Sở văn hóa-

-

Thông tin-Thể Thao, Hà Giang,1996.
“Văn hóa H’Mông”, Trần Hữu Sơn, Nxb Văn hóa Dân Tộc, Hà Nội.
“Các dân tộc Hà Giang”, Lê Đại Nghĩa-Triệu Đức Thanh,Nxb thế giới, 2004.
“Văn hóa tâm linh người Mông ở Việt Nam truyền thống và hiện đại”, Nxb
Văn hóa thông tin và viện văn học, Hà Nội,2005.

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

17


Thắng cố- Món ăn truyền thống của người dân tộc Mông.


Rượu ngô Mèo Vạc

18


Bánh mèn mén

19


20


21


22


23


24


25



×