Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

kinh kịch - nét văn hóa truyền thống của dân tộc Trung Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.14 KB, 21 trang )

đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa Đông phơng học
------
báo cáo khoa học
Kinh kịch - nét văn hoá truyền thống
của dân tộc trung hoa

Lời nói đầu
Trung Quốc là nớc có nền văn minh cổ xa phơng Đông. Dân tộc
Trung Hoa trải qua mấy nghìn năm tôi luyện và hoà hợp, kết tụ và phát triển
đã thu hút đợc muôn phơng mà lại có phong thái độc đáo, hình thành nên
nền văn hoá Trung Hoa rực rỡ muôn màu, đa nguyên nhất thể, rộng lớn sâu
lắng mà lại mộc mạc tơi đẹp. Nghiên cứu về văn hoá Trung Quốc mà không
lật lại tìm hiểu các loại hình hí khúc, đặc biệt là Kinh kịch thì quả là một thiếu
sót lớn. Bởi lẽ Kinh kịch là một loại hình đẹp trội, rất độc đáo của Trung
Hoa. Tuy có lịch sử ra đời và phát triển cha dài (khoảng 200 năm) nhng
Kinh kịch đã đi vào đời sống tâm hồn của ngời Trung Quốc nói chung, ngời
Bắc Kinh nói riêng nh một phần không thể thiếu. Kinh kịch là một loại hình
kịch chủng tiêu biểu nhất trong nghệ thuật hí khúc Trung Quốc nên thu hút
đợc rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các học giả Trung
Quốc có tiếng nghiên cứu về Kinh kịch có thể kể đến nh: Lý Hiểu, Chơng Di
Hoà, Hồ Hồng Khánh ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Kinh kịch
không nhiều. Các nhà nghiên cứu Việt Nam hầu nh đặt Kinh kịch vào trong
hệ thống nghiên cứu về văn hoá Trung Hoa nên những dòng viết về Kinh
kịch chỉ là những nét phác thảo lớt qua, các thông tin đợc đa ra nhỏ lẻ và bị
phân tán. Do vậy trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo các tài liệu, các tác
phẩm điện ảnh có liên quan, tập hợp bổ sung thông tin và đi sâu nghiên cứu
hơn một chút là việc làm hết sức cần thiết. Trong khuôn khổ của một báo
cáo khoa học, bài viết sẽ cố gắng cung cấp những khái niệm cơ bản, những
thông tin đầy đủ, chi tiết nhất, từ đó tạo nên cái nhìn đúng đắn, toàn diện,


sâu sắc hơn về nghệ thuật Kinh kịch của đất nớc có nền văn hoá - văn minh
lớn bậc nhất thế giới.
2
Chơng I
Lịch sử hình thành ra đời và phát triển của Kinh kịch
1.Kinh kịch buổi đầu trong cái nôi hí khúc.
Kinh kịch trầm mình trong hí khúc Trung Quốc một thời gian rất dài. Hí
khúc Trung Quốc manh nha từ rất lâu đời, vợt qua hai giai đoạn phát triển
của lịch sử, chín muồi ở đời Tống, Kim, Nguyên và nở rộ vào thời hậu kì của
chế độ phong kiến Trung Quốc.
Hí khúc Trung Quốc có khởi nguồn xa xa từ ca múa cổ đại, thầy mo
có vị trí đặc biệt. Đến thời kì Xuân Thu (722 481 trớc Công Nguyên) một
loạt nhân vật mang tên linh u đợc tách ra từ thầy mo, đợc phục vụ bên
cạnh vua chúa. Nghệ thuật pha trò, khôi hài thời kì này đã ảnh hởng sâu
sắc đến hí khúc về sau. Đến thời Hán, bách hí đợc coi là hình hài ban đầu
của hí khúc Trung Quốc. Thời Đờng, có hát tham quân đợc phát triển trên
cơ sở hát u. Trong hát tham quân có một hình thức biểu diễn cố định: có
hai vai diễn tách biệt hẳn. Đây chính là cơ sở hình thành hình thức phân
vai sau này của hí khúc. Đến thời Tống thế kỉ XII, Tạp kịch Tống ra đời, hội
nhập nhiều thành phần nghệ thuật, hình thức đa dạng, linh hoạt tạo nên
hình thái tơng đối hoàn chỉnh của hí khúc. Những năm tháng vàng son của
hí khúc Trung Quốc bắt đầu từ đời Nguyên (1279 1368). Trải qua đời Minh
(1368 - 1644) đến đời Thanh (1644 - 1911), hí khúc Trung Quốc ngày càng
phát triển rực rỡ với sự hội tụ nhiều loại hình hí khúc đa dạng, phong phú.
Hát hoa bộ ra đời vào lúc mà thể loại Côn khúc đang phát triển mạnh
mẽ. Côn khúc là thể loại nhã nghĩa là chính thống, còn hoa nghĩa là tạp,
gồm các điệu thông tục, dân dã, bị coi là phong trào phản nghịch chống lại
khuynh hớng nh hoáã của Côn khúc. Từ đó ngời ta mong chờ một loại hình
3
hí khúc có thể dung hoà đợc cả hai yếu tố hoa và nhã. Trên cơ sở đó,

Kinh kịch đã gạn lọc, kế thừa tất cả những nét tinh hoa của các loại hình hí
khúc khác, đã hoà trộn giữa phong tục tập quán dân gian và yếu tố cung
đình để bứt phá trở thành một loại hình riêng của hí khúc Trung Quốc.
2. Một loại hình hí khúc đợc mến mộ: Kinh kịch ra đời.
Từ trong cái nôi hí khúc đang nở rộ, Kinh kịch bớc ra một cách thuận
lợi nhng lại mang một dáng vẻ mới, đẹp trội hơn hẳn vì nó kế thừa một cách
tập trung truyền thống lịch sử lâu đời của hí khúc, tích luỹ đầy đặn các ngón
nghề cao siêu. Kinh kịch nổi tiếng trong làng nghệ thuật thế giới là ca kịch
của Bắc Kinh. Nh vậy, có thể thấy đợc cái nôi ra đời và phát triển của Kinh
kịch là thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc. Kinh kịch có tên gọi cũ là Bì hoàng
hí, đầu thế kỉ XX, ngời Thợng Hải gọi là Kinh hí, ngời Bắc Kinh gọi là Bình
kịch. Kinh kịch đợc hình thành qua diễn biến dần dần trực tiếp trên cơ sở
Huy ban tiến kinh. Năm Càn Long thứ 55 (1790), Huy ban - đoàn kịch An
Huy Tam Khánh của Dơng Châu đợc triệu vào kinh diễn xuất mừng lễ bát
tuần đại điển của Càn Long, đã nhanh chóng độc chiếm sân khấu kinh đô.
Chẳng bao lâu, ba đoàn kịch An Huy khác là Tứ hỉ, Xuân đài và Hoà
xuân lần lợt vào kinh. Đó chính là sự kiện lừng danh trong lịch sử hí khúc
Trung Quốc cuối thế kỉ XVIII, gọi là Tứ đại Huy ban tiến kinh. Sau khi vào
kinh, Huy ban đã hấp thu hai làn kinh, tần, đặc biệt là điệu Tần xoang (điệu
hát theo nhịp mõ). Từ đó đa đến sự ra đời của Bì hoàng hí mà sau này ngời
Bắc Kinh gọi là Kinh kịch. Đến năm Quang Đạo thứ tám (1828), các nghệ sĩ
nổi danh ở Hồ Bắc nh Vơng Hồng Quý, D Tam Thắng vào kinh, mang
theo Hán điệu. Hán điệu vào kinh bắt vào diễn xuất của Huy ban, đa đến sự
kết hợp của hai làn điệu Huy Hán. Từ đó, Huy ban trở thành gánh hát
chuyên biểu diễn kịch Bì Hoàng, cắm rễ nơi kinh đô.
4
Trình độ nghệ thuật kịch Bì Hoàng đợc nâng cao nhanh chóng bởi sự
thúc đẩy của các nghệ nhân giỏi, gây đợc sự thích thú trong hoàng thất triều
đình nhà Thanh. Cuối thời Hàm Phong (1851 1861) các gánh hát đợc đa
vào biểu diễn trong cung. Một cơ quan có tên là Thanh bình nha chuyên

quản lý việc các gánh hát ra vào biểu diễn trong cung. Lúc đầu mới chỉ là
biểu diễn nơi hội quán trà lầu, nay đợc vời vào cung phục vụ vua chúa và
trăm quan trong triều, trong bối cảnh đặc thù đó, Kinh kịch đã đem cái
chân quê trong dân gian hoà nhập vào thú vui trong cung đình, đồng thời
làm cho cái tình phơng Nam hoà quyện với cái thần phơng Bắc. Chính sự
hoà nhập đó đã đa Kinh kịch phát triển lên một không gian hoàn chỉnh và
thống nhất hơn.
3. Kinh kịch lên ngôi và hội tụ nhân tài.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Trung Quốc bớc vào tiến trình hiện đại
trong bão táp và khói lửa chiến tranh. Đó là thời đại biến động dữ dội, quan
niệm hiện đại đã va chạm, thâm nhập vào văn hoá truyền thống, khiến Kinh
kịch bắt đầu phải có sự lựa chọn mới. Kinh kịch chịu ảnh hởng trực tiếp và
gián tiếp của kịch nói, điện ảnh nớc ngoài, các nghệ thuật âm nhạc, mĩ
thuật và vũ đạo phơng Tây khá rõ nét. Cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) đã
chấm dứt sự thống trị của vơng triều phong kiến tồn tại hơn 2000 năm.
Quan niệm dân chủ hiện đại làm thay đổi cái nhìn coi khinh con hát lâu
nay. Chính phủ Quốc dân có những biện pháp tuyên truyền về hí khúc, từ
đó tạo đà cho nghệ thuật Kinh kịch phát triển, lan toả ra cả nớc và trở thành
Quốc kịch. Do sự khác nhau của môi trờng văn hóa khu vực và sự biến đổi
của bối cảnh nhân văn, Kinh kịch đã hình thành hai trờng phái lớn: Kinh
phái và Hải phái. Kinh phái, trung tâm là Bắc Kinh, đã kính cẩn giữ vững
những chuẩm mực lịch sử của nghệ thuật Kinh kịch, nhấn mạnh kế thừa
5
nhiều hơn phát triển, sáng tạo cái mới. Còn Kinh kịch Hải phái mà đất phát
tích là Thợng Hải thì chú trọng cách tân nghệ thuật, táo bạo hấp thu và học
hỏi các hình thức biểu diễn nghệ thuật, đã dày công tìm kiếm cách phản
ánh gơng mặt thời đại và theo đuổi hiệu quả kinh tế thơng nghiệp.
Thợng Hải là nơi gặp gỡ văn hoá Đông Tây sớm nhất Trung Quốc và
là một thành phố buôn bán mới nổi lên, nhân tố t bản chủ nghĩa tơng đối
phát đạt, thị dân dễ tiếp thu ảnh hởng của văn hoá phơng Tây. Khán giả

không còn thoả mãn với kiểu nghe hát theo đúng qui củ mà mong đợc th-
ởng thức những trò rôm rả, tân kì thời thợng. Để thích ứng với dòng chảy
thời đại và tâm lý dân đô thị, Kinh kịch Hải phái đã phá vỡ khuôn mẫu cũ,
mạnh dạn cách tân, thu nạp cái mới, nhấn mạnh đến sự thẩm mĩ đô thị hoá.
Về đề tài, họ sáng tạo ra các vở thời trang hí (hí kịch hiện đại) phản ánh
cuộc sống hiện thực trong và ngoài nớc. Về hình thức thể hiện, Hải phái đã
học tập tham khảo nhiều thủ pháp tat thực chủ nghĩa của kịch nói và điện
ảnh, làm giàu thêm lối biểu diễn sinh hoạt hoá. Sự chung sống và phát triển
của hai phái Kinh Hải đã dẫn đến một thời kì phồn vinh của Kinh kịch.
Sự phồn vinh ấy còn thể hiện tập trung ở việc xuất hiện hàng loạt các
nghệ sĩ tên tuổi. Từ đầu thời kì Dân Quốc đến những năm 30, 40, trong Kinh
kịch đã xuất hiện hàng loạt nhân tài. Trong đó tiêu biểu là bốn diễn viên
Kinh kịch có bề dày kinh nghiệm, biết thể hiện phong cách trờng phái trong
nghệ thuật hát, gọi là bốn danh kép lớn, đó là: Mai Lan Phơng (1894 -
1961), Thợng Tiểu Vân (1900 - 1976), Trình Nghiên Thu, Tuần Huệ Sinh
(1900 - 1968). Mai, Thợng, Trình, Tuần, mỗi ngời hùng cứ một sân khấu,
giọng hát đạt trình độ điêu luyện với phong cách biểu diễn độc đáo, hình
thành các trờng phái khác nhau.
6
Với Kinh kịch trờng phái Thợng Hải, nhân vật tiêu biểu lên sân khấu
biểu diễn hát kịch từ lúc mới bảy tuổi, với nghệ danh thất linh đồng nổi
tiếng khắp vùng nam bắc Trờng Giang, đó là Chu Tín Phơng (1895 - 1975).
Ông có phong cách biểu diễn nghệ thuật tự nhiên, chân thực, tuỳ hứng ứng
tác. Hình tợng nghệ thuật mà ông tạo dựng có xơng, có thịt khiến ngời xem
khó quên.
4. Kinh kịch những thập kỉ 50, 60, 70
Bớc vào những năm 50, cùng với chế độ xã hội mới đợc xác lập toàn
diện, Kinh kịch cũng nh các loại hình hí khúc khác, các đoàn biểu diễn, các
gánh hát, các nghệ nhân đợc quy tụ trong ngành quản lý văn hoá của chính
phủ. Các tiết mục, vở diễn đợc chấp nhận theo sự chỉ đạo một cách có tổ

chức và kế hoạch. Nhà nớc nêu cao phơng châm sáng tác văn nghệ là
đồng loạt thực hiện chỉnh lý cải biên kịch truyền thống, sáng tác mới kịch
lịch sử và kịch hiện đại
1
. Đứng trớc tình hình hàng ngàn, hàng vạn vở kịch
truyền thống có khả năng bị thất truyền, một số nhà soạn kịch có trình độ
văn hoá cao kết hợp với nghệ nhân đã kiên trì việc khai thác và chỉnh lý đối
với một số tiết mục truyền thống và đã đa tới một kết quả to lớn, đó là sự nở
rộ của các vở Kinh kịch theo xu hớng này.
Bớc vào nửa cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, đất nớc Trung Quốc sục
sôi trong cuộc đại cách mạng văn hoá kéo dài mời năm (1966 - 1976). Chủ
trơng của cuộc cách mạng văn hóa này là xoá bỏ bốn cái cũ: t tởng cũ,
văn hoá cũ, phong tục cũ, tập quán cũ. Kinh kịch cũng cùng chung số phận
với các loại hình văn hoá t tởng cũ, nằm trong chủ trơng xoá bỏ ấy. Các
gánh hát bị giải tán, trang phục, dụng cụ đồ nghề biểu diễn bị đốt phá, diễn
viên Kinh kịch, nhà soạn Kinh kịch bị phê đấu. Bối cảnh đặc biệt lúc ấy đa
Kinh kịch vào giấc ngủ dài suốt mời năm.
1
Chơng Di Hoà. Hí khúc Trung Quốc
7
5. Kinh kịch từ thập kỉ 80 đến nay.
Cuộc cải cách mở cửa của Đặng Tiểu Bình đã mở ra cho Trung Quốc
một chân trời phát triển mới. Kinh kịch sống trong một giai đoạn lịch sử mới
cũng nhờ đó mà hồi sinh với gơng mặt và dáng vẻ mới. Trên sân khấu Kinh
kịch thời kì này, những vở kịch lấy đề tài lịch sử mới chiếm một tỉ lệ rất lớn.
Nhng từ tôn chỉ văn học đến hình thức tả thuật đã khác xa với cách nói xa
của tiền bối. Vở diễn không còn bó hẹp trong cách tờng thuật tẻ nhạt,
không nhằm mục đích thoả mãn quan điểm lịch sử đơn thuần đi tìm dấu
vết của một dân tộc, đi tìm sự hng vong của một vơng triền
2

mà đem sự
biến thiên của xã hội, cái bí mật của đời ngời hoà quyện cùng trời đất để rồi
xem xét giải thích cái đẹp của bản thân loài ngời bằng cái đầu triết lý và con
mắt nhà thơ.
Sau những năm 80, kết hợp tính triết lý trong lịch sử với sự rung động
mạnh mẽ trong chủ đề sáng tác, thuật lại sự kiện lịch sử mà mọi ngời đều
biết, xây dựng lại những nhân vật lịch sử mà mọi ngời quen thuộc là khuynh
hớng sáng tác mới của Kinh kịch thời kì này.
Ngày nay, xã hội Trung Quốc đang phát triển mạnh nh vũ bão, các
phơng tiện thông tin và hình thức giải trí bùng nổ, Kinh kịch cũng nh các loại
hình văn hóa truyền thống dờng nh bị lãng quên. Ngời Trung Quốc, đặc biệt
là giới trẻ không còn thú vui xem hát nh xa. Kinh kịch - một loại hình hí
khúc phát triển rực rỡ, ngời sáng một thời - lùi vào hàng ngũ nghệ thuật
truyền thống cần đợc bảo tồn của văn hoá dân tộc. Chính phủ Trung Quốc
có nhiều biện pháp để bảo lu loại hình nghệ thuật này, nh tổ chức các buổi
lu diễn Kinh kịch ở Trung Quốc đại lục, ở Đài Loan, ở Hồng Kông.Tuy
không thờng xuyên nhng cũng đủ để xác lập vị trí tồn tại của Kinh kịch trong
2
Nguyễn Huy Quý - Nớc CHND Trung Hoa (1949-1999)
8
xã hội hiện đại Trung Quốc và góp phần lay động tâm thức giới trẻ về nền
văn hoá truyền thống đa dạng, đặc sắc.
Chơng II
Vai diễn trong Kinh kịch.
1. Phân vai trên sân khấu Kinh kịch.
Các nhân vật xuất hiện trên sân khấu Kinh kịch, căn cứ vào thuộc tính
tự nhiên (tuổi tác, giới tính), thuộc tính xã hội (nghề nghiệp, tính cách, khí
chất), năng khiếu kỹ thuật, phong cách biểu diễn, dựa vào trang phục, hoá
trang và sự biểu diễn đợc cờng điệu về nghệ thuật rồi tổng hợp phân loại
chia thành các vai diễn khác nhau gọi là phân vai. Kinh kịch ngay từ buổi

đầu hình thành đã đi vào cung đình, nên sự phát triển nghệ thuật không
giống nh các hí khúc địa phơng. Lĩnh vực đời sống đòi hỏi nó phải biểu hiện
rộng hơn, loại hình nhân vật xây dựng phải nhiều hơn, hoàn chỉnh và toàn
diện hơn. Đặc trng này cũng phản ánh trong việc phân công các nhân vật
thành những nhóm nghề diễn. Chế độ nhóm nghề của Kinh kịch xa kia có
ngời nói là 10 nhóm hay 7 nhóm nhng hiện nay thờng có 4 loại hình cơ bản:
Sinh, Đán, Tịnh, Sửu. Mỗi loại hình này lại chia nhiều phân chi, dới phân chi
lại có các mục nhỏ, mỗi loại có nhân vật diễn và đặc sắc biểu diễn cơ bản
của nó.
1.1. Vai sinh:
Vai sinh là kép chính trong vở diễn. Ngời đảm nhiện vai này là nam
giới. Dựa theo tuổi tác, nhân thân của các nhân vật trong vở diễn lại chia
phân vai này theo nhiều phân chi nh: l o sinh, tiểu sinh, võ sinhã đều mang
đặc điểm riêng trong biểu diễn.
9
L o sinhã là một chi trong vai sinh. L o sinhã thờng mang râu giả nên
còn gọi là kép râu, đóng nhân vật nam giới ở tuổi trung niên hoặc tuổi già.
L o sinhã thờng là nhân vật chính diện, tính cách ngay thẳng cơng nghị. Vai
diễn này nặng về hát bằng giọng thật, động tác trong tạo hình thờng trang
trọng, đàng hoàng.
Tiểu sinh là một chi trong vai sinh. Trái với l o sinhã , tiểu sinh đóng vai
nam giới trẻ, không mang râu giả. Tiểu sinh hát bằng giọng giả là chính đôi
khi kết hợp giữa giọng giả và giọng thật.
Võ sinh chuyên đóng vai nam giới ở tuổi thanh niên, trung niên giỏi
võ. Võ sinh lại chia làm hai loại: Võ sinh tớng và võ sinh sỹ tốt. Võ sinh tớng
nai nịt gọn gàng, đầu đội mũ giáp, chân đi hia đế dày, sử dụng binh khí cán
dài, khi biểu diễn phải thể hiện đợc cái đẹp của ngón võ, thể hiện sự trầm
tĩnh, chắc chắn, phong độ của vị đại tớng và khí phách của ngời anh hùng.
Võ sinh sỹ tốt thờng sử dụng binh khí gọn nhẹ, khi biểu diễn thiên về động
tác nhào lộn nhanh nhẹn, dũng cảm.

Tựu chung lại, vai sinh là kép chính đóng các vai ông cụ già, các
chàng th sinh, quan văn, quan võ, chuyên thể hiện tính cách tốt, mạnh mẽ.
1.2. Vai đán
Vai đán là tên gọi chung cho các vai nữ. Các diễn viên thủ vai các quý
bà đáng kính hay những tố nữ yểu điệu dễ thơng. Vai đán cũng đợc dựa
trên tuổi tác, tính cách, nhân thân của nhân vật mà chia thành các vai:
thanh y, hoa đán, l o đán, đao m đán.ã ã
Thanh y là tên gọi chung cho các vai chính trong loại hình vai đán.
Thờng là các vai phụ nữ nhàn nhã, phụ nữ trung niên quý phái. Khi biểu
diễn thiên về kỹ thuật hát, thoại lời theo vần điệu. Vai này khi diễn thờng
khoác áo choàng xanh nên gọi là thanh y.
10

×