Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Kết quả hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP17, COP 18) và Hội nghị các bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP7)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.3 KB, 16 trang )

Kết quả hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về
biến đổi khí hậu (COP17) và Hội nghị các bên tham gia Nghị định thư
Kyoto (CMP7) - một số nhận định và kiến nghị

Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) lần thứ 17 (COP17) và Hội nghị các bên
tham gia Nghị định thư Kyoto lần thứ 7 (CMP7) được tổ chức từ ngày 28 tháng
11 đến ngày 11 tháng 12 năm 2011 tại thành phố biển Durban, Cộng hòa Nam
Phi. Với sự tham gia của 194 quốc gia và các tổ chức liên chính phủ, phi chính
phủ… COP17/CMP7 được kỳ vọng đạt được thỏa thuận quốc tế mới có tính
ràng buộc pháp lý ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu trong khn khổ Cơng
ước Khung về biến đổi khí hậu sau năm 2012 và quyết định tương lai của Nghị
định thư Kyoto khi mà thời kỳ cam kết thứ nhất sẽ kết thúc vào cuối năm 2012.
Tuy nhiên, giống với COP 15 tại Copenhagen, COP 16 tại Cancun, COP 17 đã
khép lại nhưng bài tốn chống biến đổi khí hậu vẫn chưa có lời giải và thế giới
thêm một lần nữa phải chờ đợi. Kết quả COP 17 tại Durban được đánh giá là
khá khiêm tốn và không như kỳ vọng ban đầu nhưng là những thỏa thuận tất
yếu trong bối cảnh cịn nhiều bất đồng và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc
gia. Dù vậy, COP 17 cũng đã đạt được những thỏa thuận cần thiết và quan
trọng, tiền đề cho các cam kết và hành động trong tương lai. Trong khn khổ
bài viết này, xin giới thiệu tóm tắt một số kết quả chính của COP 17/CMP7:
I. KẾT QUẢ CMP7


1. Nghị định thư Kyoto
Tại CMP7, các bên đã đạt được thỏa thuận cho giai đoạn cam kết thứ hai của
Nghị định thư Kyoto. Giai đoạn cam kết thứ hai sẽ bắt đầu từ ngày 01/01/2013
đến năm 2017 hoặc 2020. Các vấn đề khác như mục tiêu giảm và hạn chế
lượng chất thải theo định lượng (QELROs), các thay đổi đối với Nghị định thư
Kyoto và các Phụ lục cũng sẽ được thống nhất và thông qua tại COP 18 vào
cuối năm 2012 tại Doha, Quatar.


Một đề xuất đáng chú ý cho giai đoạn cam kết thứ hai của Nghị định thư Kyoto
là cho phép các quốc gia thuộc Phụ lục I sử dụng các công cụ của cơ chế thị
trường được quy định bởi UNFCCC hoặc các văn kiện có liên quan, REDD+ và
NAMAs là những ví dụ cụ thể.

2. Cơ chế phát triển sạch (CDM)
Đối với CDM, CMP7 đã thống nhất phân phối công bằng hơn cho các hoạt động
dự án CDM thông qua tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường thể chế và đào
tạo cho thực hiện đường cơ sở chuẩn và các hướng dẫn khác về CDM. Yêu cầu


Ban Chấp hành (EB) đơn giản hóa các thủ tục, quy trình cho các dự án CDM.
CMP7 cũng đưa ra các khuyến nghị về quản trị quốc tế, theo đó, các quốc gia
yêu cầu EB tăng cường tính minh bạch, hiệu quả của các quyết định đưa ra,
đồng thời số hóa, minh bạch hóa các quy trình thẩm định, đăng ký và cấp
chứng chỉ giảm phát thải…. Tuy nhiên, cơ chế khiếu nại đối với các quyết định
của EB đã không được thống nhất tại CMP 7.
II. KẾT QUẢ COP17
1. Diễn đàn Durban về hành động tăng cường (DPEA)
Thành lập Diễn đàn Durban về hành động tăng cường (DPEA) là một trong
những kết quả quan trọng của COP17. DPEA được hi vọng sẽ “nâng cao mức
độ tham vọng với quan điểm đảm bảo nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu cao
nhất có thể bởi các quốc gia”. COP17 cũng thành lập một Nhóm cơng tác đặc
biệt của DPEA (AWG-DP) để thực hiện nhiệm vụ xây dựng một “nghị định thư,
một công cụ pháp lý khác hoặc một kết quả được đồng thuận với hiệu lực pháp
lý như Công ước áp dụng cho tất cả các bên tham gia,”, dự kiến sẽ được thông
qua tại COP 21 vào năm 2015, có hiệu lực và được thực hiện từ năm 2020.


Nhiệm vụ của AWG-DP là xây dựng “một nghị định thư, một công cụ pháp lý

khác hoặc một kết quả được đồng thuận thuận với hiệu lực pháp lý” - là kết quả
của những thỏa hiệp vào phút cuối giữa các bên đàm phán. Trong khi EU, các
nước kém phát triển nhất (LDC) và các quốc gia là đảo nhỏ đang phát triển
muốn có một cam kết có tính ràng buộc pháp lý, thì một số quốc gia khác (đặc
biệt là Ấn Độ) kêu gọi sử dụng ngôn từ nhẹ nhàng hơn, do lo ngại đến sự công
bằng khi ràng buộc các nước đang phát triển với các nghĩa vụ pháp lý về giảm
phát thải trong khi các nước công nghiệp phát triển lại là các quốc gia chịu trách
nhiệm lịch sử đối với biến đổi khí hậu. Một số quốc gia khác, ví dụ Hoa Kỳ, cũng
khơng thể đảm bảo Nghị viện sẽ chấp thuận ký kết một thỏa thuận mới. Vì vậy, ý
nghĩa của “một kết quả được đồng thuận với hiệu lực pháp lý” còn khá mơ hồ.
Ngồi hình thức, nội dung của các nghị định thư hay thỏa thuận pháp lý trong
tương lai cũng không rõ ràng. Yêu cầu của AWG-DP không đề cập đến đặc tính
pháp lý của các nội dung, mà chỉ nhắc đến các ngơn từ nhẹ nhàng, “trung tính”
chứ đề cập đến “các cam kết” cụ thể về mặt pháp lý.


Một điều đáng lưu ý là quyết định thành lập DPEA khơng có sự phân biệt giữa
các quốc gia phát triển và đang phát triển (Các bên tham gia thuộc Phụ lục I và
không thuộc Phụ lục I) và cũng khơng “trách nhiệm chung nhưng có phân biệt”.
Điều này hạn chế khả năng cho phép một sự phân biệt rõ ràng giữa trình độ
phát triển và trách nhiệm của các quốc gia. Trong khi đó, đối với các quốc gia
đang phát triển chắc chắn sẽ có những thuận lợi và khó khăn riêng khi tham gia
các cam kết đối với các quốc gia phát triển.
2. Quỹ Khí hậu Xanh (GCF)
COP 15 tại Copenhagen, các quốc gia phát triển đã cam kết hình thành GCF,
đến năm 2020, ít nhất 100 tỷ USD của GCF sẽ được giải ngân mỗi năm để giúp
các quốc gia đang phát triển chống và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tại COP17,
các quốc gia đã thông qua cơ cấu quản trị của GCF và kêu gọi sớm đưa Quỹ
này đi vào hoạt động. GCF đã được chỉ định là “tổ chức của Công ước”, hoạt
động theo hướng dẫn của COP và được quản lý bởi một Ban gồm đại diện của

24 quốc gia (trong đó có 12 quốc gia đang phát triển và 12 quốc gia phát triển).
GCF được kỳ vọng sẽ trở thành quỹ đa phương chính về biến đổi khí hậu,
nhưng trên thực tế tài khoản GCF vẫn cịn là con số khơng. Một đề xuất thuế gọi
là “đổ nhiên liệu” từ ngành cơng nghiệp vận tải tồn cầu đã đạt được một số
bước tiến trong suốt cuộc đàm phán 14 ngày nhưng cuối cùng lại không được
thông qua. Tuy nhiên, một số các nhà tài trợ, bao gồm Úc, Đan Mạch, Đức, và
Hàn Quốc, đã cam kết đóng góp tài chính để khởi động Quỹ, mặc dù các chính
sách, thủ tục để đóng góp thêm cho Quỹ chưa được xác định. Một vấn đề khác
cũng chưa được rõ ràng là phần đóng góp từ nguồn tài chính cơng và từ lĩnh
vực tư nhân như thế nào, trong khi đó, các nước đang phát triển thường
nghiêng về lựa chọn các nguồn tài chính cơng.
GCF là tổ chức tài chính khá linh hoạt, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn tài chính


được đơn giản hóa và cải tiến bao gồm việc tiếp cận trực tiếp, cũng như tạo
điều kiện cho lĩnh vực tư nhân tiếp cận tài chính cho các hoạt động thích ứng và
giảm nhẹ.
3. Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+)
Các bên đã đạt được một số thỏa thuận tích cực về REDD+ trong quá trình diễn
ra COP17, mặc dù vẫn cịn đó một số vấn đề chưa được đề cập rõ ràng như tài
chính và các biện pháp bảo đảm cho thực hiện REDD+.
Về vấn đề tài chính, các quốc gia đã thống nhất cơ chế tài chính “dựa trên kết
quả” của các hoạt động REDD+ và tài chính có thể đến từ nhiều nguồn: công
cộng, tư nhân, song phương, đa phương, kể cả các nguồn thay thế, đồng thời
công nhận “hoạt động dựa vào thị trường” có thể được phát triển cho thực hiện
REDD+. Tuy nhiên, phạm vi, khái niệm các nguồn kinh phí hoạt động dựa vào
thị trường vẫn khơng được xác định. Tương tự, khơng có sự liên kết rõ ràng
giữa cơ chế dựa trên thị trường cho REDD+ và các đề xuất sửa đổi Nghị định
thư Kyoto.
Các bên tham gia cũng nhất trí các nước đang phát triển tham gia vào REDD+

cần có báo cáo thực hiện các biện pháp bảo đảm về môi trường và xã hội (được
nêu trong Thỏa thuận Cancun). Tuy nhiên, các bên lại không đưa ra hướng dẫn
cụ thể về nội dung của báo cáo và phương thức giám sát độc lập với các báo
cáo này.
4. Hành động giảm thiểu phù hợp ở cấp quốc gia (NAMAs)
Các quốc gia đã thống nhất hoàn thiện cơ chế đăng ký thí điểm cho NAMAs, cơ
chế này dự kiến sẽ được hồn thiện và thơng qua tại COP18. Cơ chế đăng ký
sẽ cho phép các nước đang phát triển tìm kiếm sự hỗ trợ quốc tế cho NAMAs,
cũng như cho các nước phát triển và các nhà tài trợ khác gửi thơng tin về “hỗ
trợ tài chính, cơng nghệ và xây dựng năng lực” cho chuẩn bị hoặc thực hiện


NAMAs. Tuy nhiên, định nghĩa thế nào là một “hành động giảm thiểu phù hợp
với quốc gia” vẫn còn chưa được xác định bởi các bên. Dự kiến các bên sẽ có
những diễn dàn thảo luận riêng về nội dung này và sẽ đi đến một định nghĩa
thống nhất trong năm 2012.
5. Nơng nghiệp và biến đổi khí hậu
Tại COP 17, các nước đã nhất trí chính thức đưa nơng nghiệp vào chương trình
nghị sự SBSTA. Nơng nghiệp là một trong những nội dung đàm phán nhằm tìm
giải pháp phù hợp giữa hoạt động giảm nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu vừa
đảm bảo vấn đề an ninh lương thực toàn cầu hiện nay. Đây là một điểm mới và
nội dung đàm phán mới so với các kỳ đàm phán trước đây trong khn khổ các
COP.
6. Thích ứng với biến đổi khí hậu
Ngồi Quỹ Khí hậu Xanh, các bên cũng đã thỏa thuận về một nguồn tài chính
quan trọng cho thích ứng với biến đổi khí hậu trong tương lai. Tại COP17, Ủy
ban Thích ứng đã được thành lập đi vào hoạt động, bao gồm 16 thành viên, có
trách nhiệm báo cáo COP về việc tăng cường điều phối các hoạt động thích
ứng với biến đối khí hậu ở quy mơ tồn cầu. Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là
khơng có sự đề cập rõ ràng về vai trị phối hợp của Ủy ban này với Quỹ thích

ứng với biến đổi khí hậu của Nghị định thư Kyoto.
Bên cạnh, các quốc gia cũng thống nhất củng cố và tăng cường năng lực thích
ứng với biến đổi khí hậu cho các nước nghèo và dễ bị tổn thương nhất. Kế
hoạch thích ứng quốc gia (NAP) sẽ cho phép các nước đang phát triển đánh giá
và giảm thiểu khả năng bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu. Thỏa thuận của COP
về NAP cho rằng quá trình thực hiện NAP không nhất thiết phải tuân theo hoặc
sao chép các luật lệ mà nên tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của quốc
gia, do quốc gia thực hiện và phù hợp với các ưu tiên quốc gia. COP 17 cũng


đưa ra các hướng dẫn cho NAP, chẳng hạn các bước chuẩn bị ban đầu, cách
thức thực hiện, báo cáo, giám sát và rà sốt. Tuy nhiên, tài chính cho thích ứng
với biến đổi khí hậu vẫn cịn là mối băn khoăn của các quốc gia, đặc biệt là
trong bối cảnh cơ chế tài chính tồn cầu cho biến đổi khí hậu hiện nay.
7. Cơ chế Cơng nghệ cho biến đổi khí hậu
Các quốc gia đã thống nhất về Cơ chế Cơng nghệ cho biến đổi khí hậu, dự kiến
sẽ chính thức đi vào hoạt động đầy đủ vào năm 2012. Cơ sở và điều khoản
tham chiếu cho hoạt động của cơ chế này là Trung tâm và mạng lưới Cơng nghệ
khí hậu. Các quốc gia cũng đã thống nhất với các thủ tục rõ ràng cho việc lựa
chọn quốc gia đăng cai. Ban thư ký của UNFCCC đã chính thức thông báo để
các quốc gia nộp đơn đăng cai đối với Trung tâm và mạng lưới cơng nghệ khí
hậu.
III. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ KIẾN NGHỊ

Các thỏa thuận của COP17 tại Durban tác động đến các quốc gia đang phát


triển trong việc xây dựng pháp luật, chính sách, thể chế quốc gia để tìm ra các
cơ hội và giải quyết thách thức đặt ra do biến đổi khí hậu đem lại. Để giúp Việt
Nam có thể chủ động tham gia đàm phán và thực hiện các điều ước quốc tế

trong khuôn khổ COP, xin đưa ra một số nhận định, kiến nghị sau đây:
1. Cam kết cho thời kỳ hậu Nghị định thư Kyoto trong thời gian sắp tới, cùng với
các chính sách nhằm đảm bảo sự phân phối công bằng hơn của các dự án
CDM, tạo ra các cơ hội cho Việt Nam và các nước đang phát triển khác trong
việc tiếp cận các nguồn tài chính mới để triển khai các dự án phát triển các-bon
thấp.
2. Các nội dung cụ thể của COP17 về REDD+ và NAP là những khuyến khích
đối với các nước đang phát triển trong việc nỗ lực đưa ra các kế hoạch cụ thể
cũng như nâng cao năng lực về REDD+ và NAP. Theo các thỏa thuận của
COP17, các quốc gia đang phát triển cần thiết lập quy trình để giám sát việc
thực hiện các biện pháp bảo đảm cho REDD+, đồng thời xây dựng NAP theo
hướng dẫn đã được đồng thuận tại COP17.
3. Việc lập kế hoạch xây dựng NAMAs nên sớm được bắt đầu, đồng thời đảm
bảo có sự linh hoạt và tính dự báo đối với một số nội dung dự kiến sẽ được đưa
ra và thỏa thuận tại COP18. Đặc biệt là việc đưa vấn đề nông nghiệp vào
SBSTA nên được xem như một tín hiệu đầu tiên cho thấy trong những năm tới
sẽ cần có các hành động hoặc chính sách quốc gia để thúc đẩy các cam kết
hoặc hướng dẫn quốc tế liên quan tới lĩnh vực này. Điều này sẽ có ý nghĩa và
liên quan trực tiếp đến quốc gia nông nghiệp như Việt Nam.
4. COP17 tại Durban cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các mối
quan hệ song phương giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển và
các cơ quan khác để đạt được những tiến bộ trong những lĩnh vực thích ứng với
khí hậu tồn cầu. Các vấn đề liên quan đến REDD+, tài trợ cho thích ứng với


biến đổi khí hậu và chuyển giao cơng nghệ ngày càng được UNFCCC hướng
dẫn theo hướng đa phương, nhưng không có tài trợ hoặc các cơ chế hợp tác đa
phương, mà là tăng cường hợp tác khí hậu song phương. Đây cũng là điều cần
lưu ý đối với việc xây dựng các mối quan hệ hợp tác song phương và đa
phương về biến đổi khí hậu của Việt Nam với các quốc gia khác.

5. Trong khi chưa có bất kỳ thỏa thuận nào trong khn khổ Diễn đàn Durban có
hiệu lực cho đến năm 2020, nên điều quan trọng hiện nay là các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam có cơ hội và thời gian để bắt đầu việc cải cách
thể chế và pháp luật, đồng thời tăng cường năng lực thích ứng và chống biến
đổi khí hậu.
Như vậy, COP 17 sẽ không được nhớ đến như một bước đột phá lịch sử trong
cuộc chiến chống biến đổi khí hậu của nhân loại, nó cho thấy hạn chế của các
hiệp ước quốc tế và hối thúc các quốc gia thực hiện các hành động và chính
sách độc lập để thích ứng, chống biến đổi khí hậu. Tất cả các quốc gia phải
chấp nhận một chiến lược toàn diện để thích ứng hoặc chống lại các tác động
khơng thể tránh khỏi của biến đổi khí hậu và Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Trên cơ sở các thỏa thuận đạt được tại COP 17, cùng với những thiện chí và
trách nhiệm với mái nhà chung, hi vọng bài toán chống biến đổi khí hậu sẽ có lời
giải tại COP18/CMP8 - thành phố Doha, vương quốc Quatar.


Hội nghị COP 18: Hy vọng mới về chống biến đổi khí hậu
Hội nghị lần thứ 18 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về biến đổi khí hậu (COP 18) đã khai mạc chiều 26/11/2012 tại
Thủ đô Doha của Qatar, với sự tham dự của đại diện gần 200 quốc
gia. Hội nghị (COP 18) diễn ra trong bối cảnh thảm họa thiên nhiên
xuất hiện ngày càng nhiều, gây thiệt hại nặng nề về người và của do
sự ấm lên của trái đất.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Quan hệ Quốc tế của Nam Phi
Maite NKoana -Mashabane kêu gọi các đại biểu tham dự nỗ lực để đưa ra
được một kế hoạch hành động cho 3 năm tới, hướng đến mục tiêu là một
thỏa thuận khí hậu tồn cầu được triển khai từ năm 2020. Trước ngày khai
mạc Hội nghị COP-18, Thư ký Ban điều hành UNFCCC, bà Christiana
Figueres cũng kêu gọi hội nghị thúc đẩy một hành động cấp tồn cầu về
giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Một trong những ưu tiên của hội nghị

là đảm bảo sự tiếp nối của Nghị định thư Kyoto và lập kế hoạch hành động
theo tinh thần Tuyên bố Durban - một cơ chế đàm phán mới về khí thải nhà
kính. Các nước cũng sẽ đề cập đến việc huy động nhiều tỷ USD hỗ trợ các
nước đang phát triển đối phó với biến đổi khí hậu..
Nghị định thư Kyoto là thỏa thuận quốc tế duy nhất mang tính ràng buộc
đối với các nước phát triển về giảm lượng khí thải nhà kính - nguyên nhân
chính làm Trái Đất nóng lên. Nghị định thư này được công bố năm 1997 tại
một hội nghị quốc tế về chống biến đổi khí hậu, họp tại cố đơ Kyoto của
Nhật Bản. Nghị định thư chính thức có hiệu lực ngày 16/2/2005, quy định
đến năm 2012 các nước công nghiệp phải giảm lượng khí thải nhà kính
trung bình đi 7-8% so với lượng khí thải năm 1990. Mặc dù về ý nghĩa là
rất tích cực, nhưng cho đến nay Nghị định thư Kyoto trên thực tế vẫn được


xem là không khả thi. Và trong khi thời hạn 2012 sắp kết thúc, thế giới tiếp
tục chạy đua với thời gian với hy vọng cho ra đời một thỏa thuận quốc tế
mới về chống biến đổi khí hậu.
Trong những năm qua, cộng đồng quốc tế đã trải qua hàng trăm cuộc đàm
phán chính thức và khơng chính thức giữa các nước, các nhóm nước, các
nhóm cơng tác nhằm thảo luận và xây dựng thỏa thuận, khung pháp lý mới
ứng phó với biến đổi khí hậu cho các thời kỳ sau năm 2012. Quá trình đàm
phán quốc tế về biến đổi khí hậu tồn cầu được tiến hành theo 02 hướng:
hướng Nghị định thư Kyoto để xây dựng văn bản tồn cầu mang tính ràng
buộc pháp lý đối với các nước phát triển nhằm cắt giảm phát thải khí nhà
kính định lượng với tỷ lệ kỳ vọng cao hơn cho các thời kỳ sau năm 2012 và
hướng hợp tác dài hạn nhằm thực hiện Cơng ước khí hậu nêu trong Lộ
trình Bali được thơng qua vào năm 2007 với các nội dung chính ghi trong
Kế hoạch hành động Bali bao gồm quan điểm chính hợp tác dài hạn, thích
ứng, giảm nhẹ, cơ chế tài chính, chuyển giao cơng nghệ và tăng cường
năng lực.

Hội nghị (COP 18) tại Doha đã tập trung thảo luận, xem xét nhằm đưa ra
quyết định về các điểm chủ yếu như: (1) Thống nhất xây dựng Thỏa thuận
quốc tế mới mang tính ràng buộc pháp lý ứng phó với biến đổi khí hậu
tồn cầu để hồn thành muộn nhất vào năm 2015 và có hiệu lực thi hành
vào năm 2020; (2) Xác định rõ nội dung, thời gian của thời kỳ cam kết lần
thứ hai của Nghị định thư Kyoto, không để khoảng trống giữa thời kỳ cam
kết lần thứ nhất và thời kỳ cam kết lần thứ hai, xác định một số bổ sung,
sửa đổi Nghị định thư Kyoto trong hoàn cảnh mới; (3) Các nước phát triển
chuyển đổi các cam kết giảm phát thải khí nhà kính định lượng (QELROs)
thành các mục tiêu hạn chế và giảm phát thải khí nhà kính định lượng


(QELRCs) với tỷ lệ cắt giảm phát thải khí nhà kính định lượng kỳ vọng cao
hơn trong các thời kỳ cam kết sau năm 2012 để thực hiện mục tiêu giữ
nhiệt độ trung bình tồn cầu tăng dưới 2 oC vào cuối thế kỷ này cũng như
thể hiện trách nhiệm rõ ràng trong việc cung cấp tài chính mới, bổ sung và
chuyển giao công nghệ mới, tăng cường năng lực cho các nước đang phát
triển trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu; (4) Xem xét trách nhiệm cắt
giảm phát thải khí nhà kính định lượng của các nước phát triển, không
tham gia thời kỳ cam kết lần thứ hai của Nghị định thư Kyoto; (5) Thống
nhất các biện pháp và hành động ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu đã
được đưa ra tại Lộ trình Bali năm 2007; (6) Xem xét và quyết định nguồn
tài chính dài hạn cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn
2013-2020 và (7) Xây dựng, thực hiện các hành động giảm nhẹ khí nhà
kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMAs) của các nước đang phát
triển. Hội nghị COP18 và CMP8 có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu sự kết
thúc của thời kỳ cam kết lần thứ nhất (2008-2012), đồng thời chuẩn bị bắt
đầu thời kỳ cam kết lần thứ hai (bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2013),
các thời kỳ kế tiếp của Nghị định thư Kyoto và chuyển tiếp Kế hoạch hành
động Bali từ giai đoạn hình thành sang giai đoạn thực hiện một cách đầy

đủ hơn.


Quan điểm của Việt Nam về biến đổi khí hậu tại Hội Nghị COP 18
Tại Hội nghị lần thứ 18 của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP)18,
đại diện Việt Nam đã có bài phát biểu quan trọng thể hiện quan điểm của
Việt Nam trong cuộc chiến ứng phó với biến đổi khí hậu đang ngày một
căng thẳng. Qua đó nêu rõ những tác động và hậu quả của biến đổi khí
hậu và con người phải chịu những tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu.Vì vậy, ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay là u cầu rất cấp bách.
Mọi quốc gia đều có trách nhiệm và cần cùng nhau hành động.
Việt Nam nhấn mạnh bốn điểm dựa trên thời kỳ cam kết lần thứ hai của
Nghị định thư Kyoto phải được thông qua và phê chuẩn, đảm bảo quá trình
chuyển đổi hiệu quả giữa thời kỳ cam kết lần thứ nhất và lần thứ hai. Tất
cả các Bên cần đẩy mạnh các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính
ngay từ bây giờ và tăng cường tham vọng giảm nhẹ để đạt được mục tiêu


giữ cho mức tăng nhiệt độ tồn dầu khơng tăng quá 2oC vào cuối thế kỷ
này. Các nguồn tài chính mới, bao gồm các cơ chế, tổ chức và hoạt động
điều phối các nguồn tài chính, phải được cam kết và thực hiện ở giai đoạn
sau năm 2012; trong đó Quỹ Thích ứng và Quỹ khí hậu xanh cần có đầy
đủ các nguồn tài chính và đi vào hoạt động nhằm đảm bảo đáp ứng nhu
cầu cho các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ một cách cân bằng.
Các nước phát triển cần phải thực hiện các cơ chế và biện pháp chuyển
giao công nghệ và tăng cường năng lực trong giai đoạn sau năm 2012
theo các phương thức hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu của các nước
đang phát triển trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu theo Điều 4 của
Công ước. Các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với
quốc gia (NAMA) của các nước đang phát triển cần phải là những hành

động tự nguyện và được thực hiện trong bối cảnh phát triển bền vững và
thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Những hành động này cần được hỗ trợ tài
chính, kỹ thuật và xây dựng năng lực từ các nước phát triển.
Đặc biệt, là một nước đang phát triển đặc biệt dễ bị tổn thương trước
những tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam coi ứng phó với biến đổi
khí hậu cần phải phù hợp với quá trình phát triển bền vững và hướng tới
nền kinh tế các - bon thấp. Mặc dù trong giai đoạn hiện nay, thích ứng
đang là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, Việt Nam đã và đang tích cực
tăng cường các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong phát triển
kinh tế - xã hội với các nguồn lực trong nước và quốc tế.
Việt Nam đã đặt ra các mục tiêu cụ thể nhằm giảm nhẹ phát thải khí nhà
kính trong chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiệm vụ trọng tâm
của Chiến lược tăng trưởng xanh là giảm cường độ phát thải khí nhà kính
và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Trong giai
đoạn 2012 đến 2020, với sự hỗ trợ của quốc tế, Việt Nam sẽ giảm cường


độ phát thải khí nhà kính 8 đến 10% so với năm 2010, giảm tiêu thụ năng
lượng trên một đơn vị GDP từ 1 đến 1,5% mỗi năm; giảm lượng phát thải
khí nhà kính trong ngành năng lượng 10% đến 20% so với các kịch bản
phát triển thông thường (BAU). Để đạt được những mục tiêu này, các diễn
đàn đối thoại chính sách và cơ chế hợp tác giữa các nhà hoạch định chính
sách trong nước và các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế đã được thành lập
để hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng và thực hiện các chính
sách và chiến lược về biến đổi khí hậu.



×