Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỔNG CÔNG TY TRUYỀN THÔNG ĐA PHƯƠNG TIỆN VTC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 104 trang )

Header Page 1 of 16.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Hå h-¬ng lam

HỒ HƯƠNG LAM

*
luËn v¨n th¹c sü kinh tÕ

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
TỔNG CÔNG TY TRUYỀN THÔNG ĐA PHƯƠNG TIỆN VTC
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

*
Hµ néi - 2008

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội - 2008
Footer Page 1 of 16.


Header Page 2 of 16.

-1-

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:


Dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới, bước sang thế kỷ 21
Việt nam đang có cơ hội phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Nhu cầu về
học tập nâng cao dân trí, nhu cầu hưởng thụ văn hóa, văn nghệ làm phong
phú thêm cuộc sống tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng cao.
Cùng với mạng lưới giao thông, các hệ thống mạng phát sóng, phát thanh,
truyền hình, mạng viễn thông đã và đang được xây dựng tạo nên hệ thống
giao thông thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đã mở ra cho các doanh nghiệp
Việt nam rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển, nhưng nó cũng đem lại
không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp cần phải có những thay
đổi trong chính sách kinh doanh nhằm thích ứng một cách linh hoạt với
những tiến bộ của khoa học công nghệ trên thế giới.
Tổng công ty Truyền thông Đa phƣơng tiện VTC là một doanh
nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, phát triển theo
hướng đa dịch vụ trên cơ sở hội tụ công nghệ truyền hình, công nghệ viễn
thông và công nghệ thông tin. Trong đó chú trọng tạo ra những dòng sản
phẩm dịch vụ viễn thông mới theo hướng hội tụ công nghệ, có hàm lượng
chất xám và lợi nhuận cao, tạo lợi thế cạnh tranh áp đảo, đảm bảo sự tồn tại
và phát triển trong thời kỳ đổi. Đây là hướng đi đúng đắn, thể hiện sự “Đi tắt
đón đầu” công nghệ tiến tiến trên thế giới nhằm phát triển trong điều kiện
cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Xuất phát từ thực tiễn trên, với tư cách là một cán bộ Ban Hợp tác Quốc
tế và Phát triển thị trường của Tổng công ty Truyền thông Đa phương tiện
VTC, tôi xin chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
Truyền thông Đa phƣơng tiện VTC trong bối cảnh hội nhập kinh tế

Footer Page 2 of 16.


Header Page 3 of 16.


-2-

quốc tế” làm luận văn thạc sỹ. Đề tài xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp phát triển theo hướng đa dịch
vụ mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu thực trạng kinh doanh của Tổng công ty Truyền
thông Đa phương tiện VTC và đưa ra những giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của Tổng công ty. Đồng thời đề tài cũng tham vọng chứng tỏ rằng
Việt nam tuy là nước đang phát triển nhưng đã cung cấp được dịch vụ sử dụng
công nghệ mới, tiên tiến không thua kém các nước phát triển trên thế giới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động kinh doanh tại Tổng
công ty VTC.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu mảng kinh doanh
dịch vụ viễn thông, truyền hình và Internet trong giai đoạn từ năm 2003 đến
năm 2007 (thời kỳ chuyển đổi từ kinh doanh thiết bị phát thanh truyền hình
mở rộng sang các dịch vụ viễn thông và Internet).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
logic, thống kê, phân tích so sánh, mô tả và tổng hợp kèm theo bảng, biểu.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia
làm 3 chương:
Chƣơng 1: Những lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Truyền
thông Đa phương tiện VTC


Footer Page 3 of 16.


Header Page 4 of 16.

-3-

Chƣơng 3: Phương hướng và Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng công ty VTC trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
CHƢƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. CẠNH TRANH, BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CẠNH TRANH

1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một hiện
tượng kinh tế xã hội phức tạp nên có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh
tranh, có thể thấy qua các định nghĩa sau đây:
Theo Từ điển Bách Khoa của Việt nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi
quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường
có lợi nhất’’ [12, trang 14].
Còn theo C.Marx định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch’’
[12, trang 13].
Cuốn Từ điển rút gọn về kinh doanh đã định nghĩa: “Cạnh tranh là sự
ganh đua, sự kình địch giữ các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành

cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình’’ [12, trang 14].
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh

Footer Page 4 of 16.


Header Page 5 of 16.

-4-

nghiệp, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế’’ [12, trang 14].
Theo cuốn Kinh tế học của P.Samuelson thì: “Cạnh tranh là sự kình
địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị
trường’’ [12, trang 14].
Theo các tác giả cuốn Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu
là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản
xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt
được mục tiêu kinh doanh cụ thể’’ [12, trang 14].
Ngoài ra có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh tranh,
song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào
đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, một dự
án...). Một loạt điều kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng...). Mục
đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao.

Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng
buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị
trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh...
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có
thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng
sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp; chính
sách định giá cao; chính sách ổn định giá; định giá theo thị trường; chính
sách giá phân biệt; bán phá giá); cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản

Footer Page 5 of 16.


Header Page 6 of 16.

-5-

phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh
tranh thông qua hình thức thanh toán...
Với cách tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh
tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình,
thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ
thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người
sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng
và sự tiện lợi [12, trang 16].
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi
cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn
là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực
cho sự phát triển.

Tuy nhiên bên cạnh hoạt động cạnh tranh lành mạnh còn có những hoạt
động cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh là những
hành vi cạnh tranh không hợp pháp hoặc không phù hợp với đạo lý, truyền
thống của một dân tộc. Cạnh tranh không lành mạnh được định nghĩa rất
khác nhau giữa các quốc gia. Những quy định pháp lý chống cạnh tranh
không lành mạnh là nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh 2004 do Quốc hội
nước CHXHCN Việt nam ban hành.
1.1.2. Bản chất và vai trò của cạnh tranh
* Bản chất của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật khách quan của
nền sản xuất hàng hóa, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị trường.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng
người cung cấp càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ

Footer Page 6 of 16.


Header Page 7 of 16.

-6-

là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi
một số doanh nghiệp khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ
sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo xu
hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội - yếu tố đảm bảo cho
sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Trong nền kinh tế
thị trường, cạnh tranh diễn ra ở mội lúc, mọi nơi không phụ thuộc vào ý
muốn của riêng ai nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng thúc đẩy
sự phát triển. Mọi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải
tự mình vận động để đứng vững trong cơ chế này. Doanh nghiệp nào không

thích nghi được cơ chế mới sẽ bị gạt ra khỏi thị trường. Thay vào đó thị
trường lại mở đường cho doanh nghiệp nào biết nắm thời cơ, biết phát huy
tối đa những thế mạnh của mình và hạn chế được tối thiểu những bất lợi để
giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể tham gia thị trường. Đối với người mua, họ muốn mua được hàng
hóa có chất lượng cao, với một mức giá thấp. Còn ngược lại, các nhà doanh
nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình. Vì mục tiêu lợi
nhuận, doanh nghiệp phải giảm chi phí, tìm cách giành giật khách hàng và
thị trường về phía mình, như vậy cạnh tranh sẽ xẩy ra. Cạnh tranh có thể coi
là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp không thể lẩn tránh và phải
tìm mọi cách để vươn lên chiếm ưu thế.
Ở Việt nam, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cạnh tranh được thừa
nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một nguyên tắc
ứng xử cơ bản trong tổ chức điều hành kinh doanh trong từng doanh nghiệp.
* Vai trò của cạnh tranh
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khái niệm cạnh tranh hầu như
không tồn tại, song từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi, vận động theo cơ

Footer Page 7 of 16.


Header Page 8 of 16.

-7-

chế thị trường thì cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thừa nhận và vai
trò của cạnh tranh ngày càng thể hiện rõ nét hơn, cụ thể:
- Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu.
- Cạnh tranh khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.

- Cạnh tranh thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế.
- Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Các doanh nghiệp, các nhà sản xuất khi tham gia thị trường buộc phải
chấp nhận sự cạnh tranh mà doanh nghiệp phải tìm mọi cách để vươn lên và
chiếm ưu thế. Mục tiêu trước hết của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận.
Lợi nhuận chỉ có được khi mà bán được sản phẩm hàng hóa của mình với giá
bán lớn hơn giá vốn của sản phẩm. Lượng bán càng nhiều thì lợi nhuận càng
lớn. Điều này phụ thuộc vào người tiêu dùng. Người tiêu dùng có quyền lựa
chọn những gì mà mình thích, những sản phẩm mà họ cho là tốt nhất, phù
hợp nhất. Như vậy cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải luôn tìm cách nâng
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng,
của thị trường. Mặt khác, cạnh tranh có khả năng tạo một áp lực liên tục đối
với giá cả. Để thu hút khách hàng, bao giờ các đối thủ cạnh tranh cũng tìm
cách đưa ra những mức giá thấp nhất có thể, chính điều này đã bắt buộc các
nhà sản xuất phải lựa chọn phương án sản xuất tối ưu với mức chi phí nhỏ
nhất, công nghệ hiện đại nhất.
Hiện nay, xu thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm ngày càng tăng vì
thế các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến việc áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, cải tiến quản lý và phương thức sản xuất kinh doanh. Như vậy
cạnh tranh đã khuyến khích áp dụng công nghệ mới, hiện đại, tạo sức ép
buộc doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong phạm vi

Footer Page 8 of 16.


Header Page 9 of 16.

-8-


doanh nghiệp để giảm giá thành, giảm giá bán, nâng cao chất lượng sản
phẩm, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, giành được ưu thế trên thị trường.
- Đối với nền kinh tế và xã hội
Đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội, cạnh tranh là động lực phát triển
kinh tế nâng cao năng suất lao động xã hội.
Khi cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt thì
người được lợi nhiều nhất là khách hàng. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn
sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất, giá cả thấp nhất với dịch vụ tốt. Do vậy,
cạnh tranh thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất, điều
này buộc các nhà sản xuất phải lựa chọn phương án sản xuất có chi phí thấp
nhất. Vì vậy, cạnh tranh tạo ra sự đổi mới, mang lại sự tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra cạnh tranh còn là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách
hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích
xã hội. Như vậy, cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên cạnh tranh ngoài những mặt tích cực còn có cả mặt tiêu cực
mang tính đặc trưng của cơ chế thị trường. Trong quá trình cạnh tranh, các
doanh nghiệp có thể vì lợi ích của bản thân mà không chú ý đến giải quyết
các vấn đề xã hội, từ đó xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa các doanh nghiệp
và kéo theo các vấn đề xã hội như thất nghiệp, tiền công rẻ mạt, môi trường
sinh thái bị hủy hoại... Hơn nữa, cạnh tranh dẫn tới tình trạng phân hóa
mạnh, kẻ thắng người thua, dễ dàng đưa tới tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh hay tình trạng độc quyền trên thị trường. Chính điều này đòi hỏi cần
có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể tự do
cạnh tranh một cách lành mạnh, có hiệu quả và giảm bớt các tiêu cực
không có lợi cho xã hội.

Footer Page 9 of 16.



Header Page 10 of 16.

-9-

1.2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.2.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp có
thể tự duy trì vị trí của mình một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh
tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận để tồn tại và phát triển.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được gắn với ưu thế của sản
phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn với vị trí của doanh
nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ
chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm
duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của
doanh nghiệp. Theo các nhà kinh tế, môi trường cạnh tranh có tác dụng tạo
sức mạnh hướng hành vi của các chủ thể kinh tế tới năng suất, chất lượng và
hiệu quả từ mục tiêu thắng trong cạnh tranh sẽ thu lợi nhuận. Trong môi
trường cạnh tranh, sức mạnh của các tổ chức kinh tế không chỉ được đo bằng
chính năng lực nội tại của từng chủ thể mà điều quan trọng hơn là trong sự
so sánh tương quan giữa các chủ thể với nhau. Do đó, đạt được vị thế cạnh
tranh trên thị trường là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp.
Như đã biết, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường
phổ biến trong thực tế. Các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh
đều có một vị trí nhất định của nó. Vì thế, nếu một doanh nghiệp tham gia
vào thị trường mà không có năng lực cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh yếu
thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh
nghiệp phải là một quá trình lâu dài, nếu không muốn nói vĩnh viễn như quá

trình duy trì sự sống.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện
cạnh tranh cũng phải nhận thức được hiện tại mình có khả năng cạnh tranh
trên thị trường hay không. Nghĩa là hàng hoá của mình có thể bán được

Footer Page 10 of 16.


Header Page 11 of 16.

- 10 -

không và rằng về lâu dài việc bán hàng có mang lại nhiều lợi nhuận cho
mình hay không. Doanh nghiệp phải thường xuyên xem xét đánh giá những
mặt mà doanh nghiệp có thể làm được tốt hơn so với các đối thủ. Rõ ràng là
để doanh nghiệp có khả năng tích luỹ về sức cạnh tranh trên thị trường, cần
phải có ý chí lâu dài để duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh, nhằm
nâng cao năng suất và đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao, một mục tiêu phát
triển của bất kỳ doanh nghiệp nào đã tham gia kinh doanh trên thương
trường. Một mặt, doanh nghiệp phải đảm bảo tính lâu dài, mặt khác phải lấy
chỉ số tổng hợp về thị phần chiếm được làm tiêu biểu. Từ đó doanh nghiệp
có thể đạt được lợi nhuận cao và có thể lấy đó làm mục tiêu cần đạt được.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ
Việc xác định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là công tác rất
quan trọng nhưng cũng đầy khó khăn bởi rất khó định lượng năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp để so sánh. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá sức cạnh
tranh của doanh nghiệp, điển hình là những chỉ tiêu chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là mục tiêu tối cao cần đạt được của bất kỳ doanh nghiệp

nào. Lợi nhuận của doanh nghiệp được tính bằng Tổng doanh thu của doanh
nghiệp trừ đi Tổng chi phí của doanh nghiệp.
Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu định lượng tổng quát đánh giá sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận được tính bằng ba cách như sau:
Cách 1: Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu cho thấy doanh nghiệp có
được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên mỗi đồng doanh thu.
M1 = (P/DT) * 100
Trong đó: M là tỷ suất lợi nhuận

Footer Page 11 of 16.


Header Page 12 of 16.

- 11 -

P là tổng lợi nhuận của doanh nghiệp
DT là tổng doanh thu của doanh nghiệp
Cách 2: Tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn kinh doanh cho thấy cứ mỗi
đồng vốn doanh nghiệp bỏ ra thì đem lại được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
P1 = (P/V)*100
V là tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp
Cách 3: Tỷ suất lợi nhuận tính trên chi phí kinh doanh cho thấy doanh
nghiệp cứ bỏ ra một đồng chi phí thì có được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
P1 = (P/CF)*100
CF là tổng chi phí của doanh nghiệp
Sự tăng giảm của tỷ suất lợi nhuận hàng năm thể hiện hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
1.2.2.2. Thị phần doanh nghiệp

Đây là chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của
sản phẩm của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thị phần sau:
Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đây là tỷ lệ phần
trăm doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành hay lượng bán của
doanh nghiệp so với lượng tiêu thụ trên thị trường.
Trên thị trường có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một mặt hàng.
Những hãng lớn thường có thị phần lớn hơn và ngược lại. Thị phần cho ta
biết khả năng chấp nhận của thị trường với sản phẩm của doanh nghiệp như
thế nào. Thị phần lớn hơn chứng tỏ sản phẩm được khách hàng ưa chuộng và
đánh giá cao hơn, điều này có nghĩa là sản phẩm có khả năng đáp ứng những
nhu cầu của khách hàng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
1.2.2.3. Chăm sóc khách hàng:
Công tác chăm sóc khách hàng là dịch vụ sau bán hàng, chỉ tiêu này
mang tính định tính vì nó được đánh giá qua cảm nhận của khách hàng.

Footer Page 12 of 16.


Header Page 13 of 16.

- 12 -

Mỗi khách hàng có cảm nhận riêng biệt về doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ, song bản thân doanh nghiệp phải có những đầu tư thích đáng cho công
tác chăm sóc khách hàng. Sự đầu tư này làm ảnh hưởng rất lớn đến cảm nhận
của khách hàng về dịch vụ.
1.2.2.4. Trình độ nhân viên:
Có thể đánh giá trình độ của nhân viên qua trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên chỉ tiêu này không thể hiện một cách đầy
đủ mà còn thể hiện qua công tác đào tạo của doanh nghiệp.

Hơn nữa, trình độ nhân viên còn thể hiện ở nhận thức được giáo dục về
thái độ sẵn sàng phục vụ khách hàng của mỗi người.
1.2.2.5. Tâm lý tiêu dùng của khách hàng:
Tâm lý tiêu dùng của khách hàng là nhân tố vô cùng quan trọng, nó ảnh
hưởng tới một loạt khách hàng (hay nhóm khách hàng) khác.
Tâm lý tiêu dùng của khách hàng bị ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu liên
quan như: chất lượng dịch vụ, phạm vi dịch vụ và các dịch vụ giá trị gia
tăng...
1.2.2.6. Hình ảnh của doanh nghiệp:
Hình ảnh của doanh nghiệp được dựa trên uy tín của doanh nghiệp đối
với khách hàng. Đây chính là việc xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp.
Hình ảnh của doanh nghiệp rất quan trọng, nó giúp doanh nghiệp duy trì và
giữ vững thị trường, chống sự lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
1.3 TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Trước đây, trong cơ chế hoạch hoá tập trung, không một ai nói đến nâng
cao năng lực cạnh tranh là cần thiết cho các doanh nghiệp bởi thực tế là các
doanh nghiệp không phải cạnh tranh với nhau mà chỉ cần thực hiện các chỉ
tiêu kế hoạch do Nhà nước giao. Nhà nước sẽ đảm bảo mọi khâu, mọi mặt

Footer Page 13 of 16.


Header Page 14 of 16.

- 13 -

của quá trình sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp, tất cả đều thuộc sở hữu
của Nhà nước và sở hữu tập thể.

Hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cho dù nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường thì nó cũng hoạt động theo các quy luật khách quan vốn có của
kinh tế thị trường đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh... Quy luật cạnh tranh thể hiện các bề nổi rõ của nền kinh tế thị trường, vì vậy cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Có
kinh tế thị trường tất yếu sẽ có cạnh tranh. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế có nhiều thành phần với
sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là một tất yếu khách quan.
Thêm vào đó, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày một nhanh,
với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, ngày càng có
nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam nên tình hình cạnh tranh càng trở nên quyết liệt hơn. Đồng
thời trong tiến trình thực hiện cam kết AFTA, gia nhập WTO thì nâng cao
năng lực cạnh tranh lại là vấn đề sống còn. Khi hàng rào thuế quan dần xoá
bỏ và mở rộng hợp tác kinh tế sẽ là khó khăn hơn đối với mỗi doanh nghiệp
khi giành giật thị trường và khách hàng từ tay các công ty xuyên quốc gia
hùng mạnh dày kinh nghiệm, các doanh nghiệp bản địa nhạy bén, năng động
cùng sự gia nhập ồ ạt của hàng ngàn doanh nghiệp mới.
Một tồn tại lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là năng
lực cạnh tranh rất yếu. Rất nhiều doanh nghiệp đã không đứng vững đuợc
trước sự chuyển đổi của nền kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra yếu

Footer Page 14 of 16.


Header Page 15 of 16.

- 14 -


thế hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài. Hàng hoá sản xuất trong
nước bị hàng hoá nước ngoài cạnh tranh gay gắt và chèn ép điêu đứng.
Hơn thế nữa, các hình thức kinh doanh, cách làm ăn của các doanh nghiệp
trong nước thường mang tính chụp giật, đánh quả, cạnh tranh không lành
mạnh. Một thực tế là ít có doanh nghiệp Việt Nam có chiến lược kinh
doanh riêng cho mình.
Trước một thực tế khách quan của cạnh tranh trong cơ chế thị trường và
thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thì việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cần thiết khách quan. Thực chất
tăng năng lực cạnh tranh là tạo ra một hay nhiều hơn các ưu thế về các mặt như:
Giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, các dịch vụ, uy tín.
Cụ thể là các doanh nghiệp sẽ phải áp dụng các biện pháp làm giảm chi phí sản
xuất, từ đó giảm giá thành đơn vị sản phẩm và có thể giảm giá bán, áp dụng các
công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến, sử dụng các yếu tố đầu vào có chất lượng
và áp dụng các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm và hoàn
thiện mạng lới tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải áp dụng một
số biện pháp khác thông qua các công cụ cạnh tranh khác. Vì vậy, có thể nói
tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là làm thay đổi mối tương quan về
thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất
kinh doanh.
1.4 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.4.1 Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp
+ Yếu tố sản phẩm:
Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh là phải trả lời được câu hỏi cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho
ai? Sản xuất như thế nào? Và như vậy doanh nghiệp đã xây dựng cho mình


Footer Page 15 of 16.


Header Page 16 of 16.

- 15 -

một chính sách sản phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị
trường mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù là vô hình hay hữu
hình. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm sao cho sản phẩm của
mình thích ứng được với thị trường một cách nhanh nhất thì mới có thể tiêu
thụ trên thị trường, mở rộng thị trường, làm tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải
thực hiện đa dạng hóa sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn được
hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu của thị trường bằng cách
cải tiến các thông số chất lượng đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm
đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần phải
nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường. Đa
dạng hóa sản phẩm không chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị
trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán rủi ro trong
kinh doanh khi mà cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt.
Đi đôi với việc thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, để đảm bảo đứng vững
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể sử dụng trọng tâm
hóa sản phẩm vào một số loại sản phẩm nhằm cung cấp cho một nhóm người
tiêu dùng hoặc một vùng thị trường nhất định của mình. Trong phạm vi này,
doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn
các đối thủ cạnh tranh và như vậy doanh nghiệp đã tạo dựng được một bức
rào chắn, đảm bảo giữ vững được thị phần của mình.
Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần thực hiện chiến lược khác biệt hóa sản

phẩm, tạo nét độc đáo riêng để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng và các
sản phẩm của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp.

Footer Page 16 of 16.


Header Page 17 of 16.

- 16 -

Như vậy, sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong
những vũ khí quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường.
Nếu như trước kia, giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh
tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm.
Với cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt đáp ứng yêu cầu
thì người tiêu dùng sẵn sàng mua với mức giá cao hơn, nhất là trong thời đại
ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão và đời sống người dân
được nâng cao rất nhiều so với trước.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định
bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thỏa mãn những điều
kiện kỹ thuật là những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội.
Chất lượng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam khi mà họ đang phải
đương đầu với các đối thủ cạnh tranh từ ngoài vào Việt nam. Một khi chất
lượng sản phẩm không được đảm bảo thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp bị
mất khách hàng, mất thị trường, nhanh chóng đi tới chỗ bị suy yếu và phá
sản. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp,
kích thích khách hàng và mở rộng thị trường.
+ Yếu tố giá cả:

Giá cả của một sản phẩm trên thị trường đã được hình thành thông qua
quan hệ cung cầu. Giá cả đóng vai trò quan trọng quyết định mua hay không
mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh, khách
hàng có quyền lựa chọn sản phẩm mà họ cho là tốt nhất và với cùng loại sản
phẩm có chất lượng tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm
có mức giá thấp hơn.

Footer Page 17 of 16.


Header Page 18 of 16.

- 17 -

Giá cả được thể hiện như một vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá
của sản phẩm: định giá thấp, định giá ngang thị trường hay chính sách giá cao.
Với một mức giá ngang thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách
hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra những giải pháp giảm giá thành thì lợi nhuận
thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao. Ngược lại, với một mức giá
thấp hơn giá thị trường thì sẽ thu hút được khách hàng và tăng sản lượng tiêu
thụ, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm nhập thị trường, chiếm lĩnh thị trường
mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá thị trường chỉ sử dụng được
với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp doanh nghiệp thu
được nhiều lợi nhuận (lợi nhuận siêu ngạch).
Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải
có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng
giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng
thị trường.
+ Tổ chức hoạt động bán hàng:
Đưa sản phẩm đến khách hàng tiêu dùng là khâu cuối cùng trong quá

trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sản phẩm được
khách hàng tiêu dùng thì doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, bù đắp được
chi phí và thu lợi nhuận.
Để sản phẩm của doanh nghiệp đến được với khách hàng, doanh nghiệp
cần tổ chức hoạt động bán hàng có hiệu quả, nhằm đáp ứng một cách tốt nhất
các yêu cầu của khách hàng. Xây dựng được hệ thống bán hàng tốt cũng có
nghĩa là xây dựng một nền móng vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ
thị phần có được của doanh nghiệp.
Bên cạnh tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp phải đẩy mạnh các
hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mại, các dịch vụ sau bán hàng,

Footer Page 18 of 16.


Header Page 19 of 16.

- 18 -

tổ chức hội nghị khách hàng, các chương trình chăm sóc khách hàng... Đây là
một hình thức cạnh tranh phi giá cả, gây sự chú ý và thu hút khách hàng.
+ Dịch vụ khách hàng:
Dịch vụ khách hàng là khâu tối quan trọng trong các doanh nghiệp dịch
vụ. Đây chính là biện pháp thu hút khách hàng, giành thị phần và lợi nhuận
cao. Các doanh nghiệp trước đây thường ít quan tâm đến khâu dịch vụ khách
hàng, nguyên nhân chủ yếu là do môi trường kinh doanh chưa thực sự có yếu
tố cạnh tranh.
Để thu hút được nhiều khách hàng, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan
tâm đến khâu dịch vụ khách hàng bằng các hoạt động dịch vụ linh hoạt, các
thủ tục hành chính đơn giản, nhanh chóng, cần phải cải tiến và không ngừng
chú ý đến công tác phục vụ để thu hút và tạo ra sự trung thành của khách

hàng đối với nhà cung cấp.
+ Các nguồn lực:
Nhân lực:
Đứng trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức, vấn đề nhân lực càng
trở nên quan trọng vì đó là nguồn sáng tạo tích cực nhất, năng động nhất.
Nhân lực chính là yếu tố quan trọng quyết định nhất đối với hoạt động của
doanh nghiệp. Yếu tố nhân lực bao trùm lên toàn bộ mọi hoạt động của
doanh nghiệp thể hiện qua khả năng, trình độ, ý thức của đội ngũ quản lý và
người lao động. Cùng với máy móc, thiết bị và công nghệ, con người là
những người trực tiếp quyết định đến chất lượng của sản phẩm thông qua
việc sử dụng, điều hành, làm chủ các thiết bị, công nghệ. Đặc biệt đối với
các ngành dịch vụ có số lượng lao động trong doanh nghiệp lớn. Vì vậy, yếu
tố nhân lực được đặt lên trên hết và ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia cạnh
tranh và đứng vững trên thị trường.

Footer Page 19 of 16.


Header Page 20 of 16.

- 19 -

Vốn
Vốn là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng như là
chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt
động đầu tư mua sắm trang thiết bị, nguyên vật liệu hay phân phối, quảng
cáo... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có đủ khả năng để trang
bị các dây chuyền công nghệ hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giá thành, giá

bán sản phẩm và tổ chức các hoạt động quảng cáo, khuyến mại mạnh mẽ để
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khách hàng luôn đánh giá các doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt vì
trong cạnh tranh, doanh nghiệp có tiềm lực tài chính hùng hậu sẽ trụ vững
trước sự tấn công bằng giá của đối thủ cạnh tranh. Bởi vì chiến tranh về giá
sẽ kéo theo doanh thu và lợi nhuận giảm ít nhất là trong giai đoạn đầu. Đây
là một lý do chính mà hiện nay các doanh nghiệp, tập đoàn có xu hướng sát
nhập vào nhau để tạo tiềm lực tài chính mạnh mẽ, nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trường.
Công nghệ:
Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng sâu
sắc tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đó là yếu tố vật chất quan trọng
thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất
lượng, năng suất sản xuất. Với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng
với một công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp
sẽ đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm hạ, nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Footer Page 20 of 16.


Header Page 21 of 16.

- 20 -

1.4.2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Tình hình phát triển kinh tế và khoa học công nghệ của đất nƣớc và
trên thế giới:
Đây là nhân tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế có tác động

trực tiếp đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tính ổn
định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn
định tiền tệ, khống chế lạm phát. Nền kinh tế được ổn định sẽ là điều kiện tốt
để tăng trưởng. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo theo sự
tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân tăng lên. Mặt
khác nền kinh tế phát triển mạnh có ý nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung
tư bản lớn, như vậy tốc độ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên.
Đây chính là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp phát triển.
Tuy nhiên do sự tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên một cách
nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường và như vậy mức
độ cạnh tranh sẽ trở lên gay gắt. Doanh nghiệp nào đi trước trong cuộc cạnh
tranh này sẽ thắng và ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái, tỷ
lệ lạm phát tăng làm cho giá cả tăng, sức mua giảm sút làm cho các doanh
nghiệp phải tìm mọi cách giữ khách hàng, do cao đó sự cạnh tranh trên thị
trường sẽ khốc liệt hơn.
Nhân tố về khoa học công nghệ ngày càng quan trọng và có ý nghĩa
quyết định đến năng lực cạnh tranh. Nó tác động một cách quyết định đến
hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi
phí cá biệt của các doanh nghiệp, qua đó tạo nên sức cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá nói riêng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói
chung. Đối với các nước chậm và đang phát triển, giá cả và chất lượng có ý

Footer Page 21 of 16.


Header Page 22 of 16.

- 21 -


nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, công
cụ cạnh tranh đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất luợng,
cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm luợng khoa học và công
nghệ cao.
Môi trƣờng chính trị - luật pháp:
Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng như là cơ
sở pháp lý để các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường. Luật
pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng
cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có hiệu quả, đem lại lành mạnh
hóa xã hội, ổn định kinh tế.
Trong thị trường cạnh tranh, môi trường chính trị - pháp luật đầy đủ,
đồng bộ và ổn định sẽ đảm bảo các quyết định quản trị đạt tỷ lệ thành công
cao. Trong cạnh tranh, việc thiếu môi trường pháp lý đầy đủ sẽ dẫn tới cạnh
tranh không lành mạnh, phi lý; nẩy sinh các tiêu cực trong hoạt động sản
xuất và kinh doanh.
Số lƣợng các doanh nghiệp cùng ngành và cƣờng độ cạnh tranh của ngành.
Số lượng các doanh nghiệp trong ngành và các đối thủ ngang sức tác
động rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một vấn đề cần xem
xét là số lượng doanh nghiệp cạnh tranh ngang nhau và các doanh nghiệp đó
có quy mô, thế lực thế nào. Các ngành mà có một hoặc vài doanh nghiệp
thống lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn bởi các doanh nghiệp thống lĩnh
đóng vai trò là người chỉ đạo giá. Nếu ngành mà chỉ bao gồm một số doanh
nghiệp có quy mô mà thế lực tương đương nhau thì cường độ cạnh tranh sẽ
cao vì các doanh nghiệp đều muốn giành vị trí thống lĩnh. Khi đó cạnh tranh
của doanh nghiệp sẽ cao hơn nếu doanh nghiệp có lợi về giá cả, chất lượng,
sản phẩm.... hoặc sẽ thấp đi nếu doanh nghiệp kém các đối thủ về các mặt
trên. Cạnh tranh cũng sẽ trở nên căng thẳng trong các ngành có một số
lớn doanh nghiệp, vì khi đó một số doanh nghiệp có thể tăng cường cạnh

Footer Page 22 of 16.



Header Page 23 of 16.

- 22 -

tranh mà các doanh nghiệp khác không nhận thấy ngay được. Do đó việc
nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh là một việc hết sức cần thiết để giữ
vững và tăng cường năng lực cạnh tranh.
Khả năng thâm nhập thị trƣờng của các doanh nghiệp tiềm ẩn:
Đó là sự xuất hiện của công ty mới tham gia thị trường nhưng có
khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị phần của công ty khác. Để
hạn chế mối đe dọa này các nhà quản lý doanh nghiệp thường dùng các
biện pháp như:
- Mở rộng dịch vụ bổ sung (gia tăng).
- Khác biệt hóa sản phẩm
- Mở rộng khả năng cung cấp vốn
- Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối…
Nhân tố khách hàng:
Khách hàng là nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong
kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thu hút được nhiều khách
hàng mới mong có được kết quả kinh doanh cao.
Khách hàng lựa chọn sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp không chỉ
bởi chất lượng, giá cả của sản phẩm mà đôi khi còn bởi các dịch vụ chăm sóc
khách hàng của doanh nghiệp.
Một nhóm khách hàng có liên quan đến nhau sử dụng sản phẩm của
doanh nghiệp cũng là mối quan tâm của những khách hàng khác… Vì
vậy, doanh nghiệp cũng cần tập trung chú ý đến các nhóm khách hàng
tiềm năng để duy trì và phát triển thêm nhiều khách hàng mới.
Tóm lại, khi xem xét năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đều

phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động, từ đó tìm ra các biện pháp
hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Footer Page 23 of 16.


Header Page 24 of 16.

- 23 -

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
TỔNG CÔNG TY TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN VTC
2.1 KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG
TIỆN VTC

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện (VTC) là một tổng công ty
nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trực thuộc Bộ
Thông tin và Truyền thông.
Tiền thân của Tổng công ty VTC là Xí nghiệp Dịch vụ bảo hành thiết bị
phát thanh truyền hình thuộc Bộ Văn hóa Thông tin được thành lập tháng
2/1988 theo Quyết định số 33/QĐ-BTT.
Trong điều kiện “hai không một có”: “Không nhà xưởng”, “Không vốn
liếng” và có quyền tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của
mình, tháng 9/1992 Xí nghiệp được chuyển thành Công ty Đầu tư và Phát
triển kỹ thuật thông tin (Intedico) thuộc Bộ Văn hoá Thông tin. Tháng
11/1993 Công ty Intedico chuyển về trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam
theo Quyết định số 1540/QĐ-TC ngày 3/11/1993 của Bộ VHTT.
Tháng 12/1996, Công ty Intedico được chuyển thành Công ty Đầu tư và

Phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam thuộc Đài Truyền hình Việt Nam
trên cơ sở sát nhập hai công ty nữa của Đài theo Quyết định số 918 QĐ/TCTHVN, với chiến lược kết hợp chặt chẽ nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, sản xuất và kinh doanh thể hiện tập trung trên 3 lĩnh vực: (1)
Nghiên cứu ứng dụng, sản xuất và lắp đặt các trạm thu phát thanh truyền
Footer Page 24 of 16.


Header Page 25 of 16.

- 24 -

hình. (2) Nghiên cứu ứng dụng công nghệ truyền hình số mặt đất phù hợp
với điều kiện thực tế của Việt Nam để từng bước thay thế công nghệ truyền
hình analog hiện tại. (3) Nghiên cứu tích hợp truyền hình với viễn thông, ứng
dụng công nghệ truyền hình trực tuyến trên mạng Internet toàn cầu phục vụ
công tác tuyên truyền đối ngoại.
Tháng 7/2003 Công ty VTC chuyển từ Đài Truyền hình Việt Nam về
trực thuộc Bộ Bưu chính, Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông)
theo Quyết định số 129/2003/QĐ-TTg ngày 26/6/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Tháng 7/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án chuyển
Công ty Đầu tư và Phát triển công nghệ truyền hình Việt nam thành Tổng
công ty truyền thông đa phương tiện VTC, hoạt động theo mô hình công ty
mẹ - công ty con, trong đó công ty mẹ là doanh nghiệp nhà nước hạch toán
độc lập. Ngày 4/1/2006 Công ty Đầu tư và Phát triển công nghệ truyền hình
Việt Nam được chuyển thành Tổng công ty truyền đa phương tiện VTC theo
Quyết định số 01/2006/QĐ-BBCVT của Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn
thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông).
Sự chuyển đổi trên của Tổng công ty VTC là điều kiện vô cùng thuận
lợi để phát triển năng lực sẵn có trong lĩnh vực truyền thông, làm nền tảng
chuyển hướng sang thời kỳ chiến lược mới của giai đoạn 2006 - 2010 như

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tổng công ty VTC lần thứ 3 nêu rõ “Chuyển
dịch mạnh mẽ từ chiến lược tập trung kinh doanh chủ yếu thiết bị trong
lĩnh vực phát thanh, truyền hình sang chiến lược kinh doanh đa dịch vụ
theo hướng hội tụ công nghệ truyền hình, công nghệ viễn thông và công
nghệ thông tin”. Theo định hướng này, VTC sẽ phát triển thành một Tổng
công ty mạnh trong lĩnh vực đa truyền thông, cung cấp đa dịch vụ trên mạng
truyền hình, mạng viễn thông và mạng Internet, phát triển thương hiệu VTC

Footer Page 25 of 16.


×