LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
1. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của thầy PGS.TS Lê Văn Sơn.
2. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian
trá, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Anh Quốc
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng đã truyền đạt những kinh nghiệm quý báu cho em trong những năm học vừa
qua.
Đặc biệt xin em xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS Lê Văn Sơn đã trực tiếp
hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ tận tình em trong suốt thời gian thực hiện khóa luận này.
Để có được kết quả như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám
Hiệu, các thầy (cô) và các em học sinh trường Trung học phổ thông Phạm Phú Thứ,
nơi em thực tập đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành
đề tài của mình. Đặc biệt là cô Nguyễn Thị Anh Thư đã tận tình giúp đỡ, đóng góp
những ý kiến trong suốt quá trình em đi thực tập và điều tra thực tế tại trường.
Bên cạnh đó cũng không thể không kể đến sự giúp đỡ, động viên về vật chất
cũng như tinh thần gia đình, người thân và bạn bè. Chính những sự quan tâm này đã
tiếp thêm cho em nghị lực, giúp em hoàn thành tốt khóa luận của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thành đề tài không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Em mong nhận được nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá của quý thầy (cô) trong
hội đồng phản biện để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Đà Nẵng, tháng 05/2013
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Anh Quốc
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.......................................................................3
3.1. Khách thể nghiên cứu.....................................................................................3
3.2. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................3
4. Giả thuyết khoa học...............................................................................................3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................3
6.1. Nghiên cứu lý thuyết.......................................................................................3
6.2. Nghiên cứu thực nghiệm.................................................................................3
7. Những đóng góp mới của đề tài............................................................................4
8. Cấu trúc của khóa luận..........................................................................................4
9. Lịch trình làm việc................................................................................................4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC TIN HỌC Ở TRƯỜNG THPT.....................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng thực hành.........................................
1.1.1. Khái niệm kỹ năng thực hành.................................................................
1.1.2. Vai trò của kỹ năng thực hành trong dạy học tin học.............................
1.1.3. Kỹ xảo....................................................................................................
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng thực hành....................................
1.2.1. Mục tiêu dạy học môn tin học.............................................................
1.2.1.1. Mục tiêu giáo dục....................................................................
1.2.1.2. Đặc điểm của môn tin học......................................................
1.2.1.3. Vị trí của môn tin học............................................................
1.2.2. Đặc điểm năng lực nhận thức và năng lực thực hành của học sinh trong
trường THPT.........................................................................................................16
1.2.3. Thực trạng của việc rèn luyện kỹ năng thực hành Tin học trong trường
THPT.....................................................................................................................18
1.3. Các kỹ năng thực hành cần rèn luyện..............................................................
1.3.1. Kỹ năng vận dụng tri thức tin học vào hoạt động lập trình...................
1.3.1.1. Phương diện ngôn ngữ............................................................
1.3.1.2. Phương diện giải thuật............................................................
1.3.1.3. Phương diện dữ liệu................................................................
1.3.1.4. Phương diện quá trình.............................................................
1.3.1.5. Phương diện kết quả................................................................
1.3.1.6. Phương diện máy tính điện tử..................................................
1.3.1.7. Phương diện giải quyết vấn đề................................................
1.3.2. Kỹ năng tin học hóa các bài toán thực tiễn...........................................
1.3.3. Vận dụng tri thức tin học vào hoạt động thực tiễn khác.......................
1.4. Vai trò của hoạt động lập trình trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành cho học
sinh..........................................................................................................................33
KẾT LUẬN CHƯƠNG I.........................................................................................
CHƯƠNG II: TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC BÀI THỰC HÀNH CHO HỌC
SINH LỚP 11 THPT.............................................................................................36
2.1. Nội dung chương trình các bài thực hành tin học 11.......................................
2.1.1. Nội dung...............................................................................................
2.1.2. Yêu cầu................................................................................................
2.2. Quy trình rèn luyện kỹ năng............................................................................
2.2.1. Tìm hiểu nội dung bài toán...................................................................
2.2.2. Xây dựng giải thuật..............................................................................
2.2.3. Thực hiện xây dựng chương trình........................................................
2.2.4. Thực hiện chương trình (chạy chương trình)........................................
2.3. Các bước của bài thực hành............................................................................
2.4. Yêu cầu đối với bài thực hành.........................................................................
2.5. Phân tích đặc điểm các bài tập và thực hành để rèn luyện kỹ năng thực hành
cho học sinh.............................................................................................................43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM.........................................................
3.1. Mục đích thực nghiệm....................................................................................
3.2. Đối tượng thực nghiệm...................................................................................
3.3. Nội dung thực nghiệm.....................................................................................
3.4. Điều tra thực tế................................................................................................
3.4.1. Phiếu khảo sát học sinh........................................................................
3.4.2. Thống kê..............................................................................................
3.4.3. Nhận xét về kết quả điều tra.................................................................
3.4.4. Những khó khăn của giáo viên và học sinh khi dạy và học các bài tập
và thực hành....................................................................................................60
3.5. Giáo án đã soạn...............................................................................................
3.5.1. Giáo án 1..............................................................................................
3.5.2. Giáo án 2..............................................................................................
3.6. Phương pháp thực nghiệm..............................................................................
3.7. Xử lý và phân tích kết quả thực nghiệm..........................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3........................................................................................
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................
PHỤ LỤC...............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
1
Từ viết tắt
MTĐT
Từ viết đầy đủ
Máy tính điện tử
2
THPT
Trung học phổ thông
3
HĐH
Hệ điều hành
4
CNTT
Công nghệ thông tin
5
SGK
Sách giáo khoa
6
ĐC
Đối chứng
7
TN
Thực nghiệm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
3.1
Tên bảng
Bảng tần số học sinh đạt điểm Xi (lần 1)
Trang
69
3.2
Bảng tần suất % học sinh đạt điểm Xi (lần 1)
69
3.3
Các tham số thống kê (lần 1)
70
3.4
Bảng tần số học sinh đạt điểm Xi (lần 2)
71
3.5
Bảng tần suất % học sinh đạt điểm Xi (lần 2)
71
3.6
Các tham số thống kê (lần 2)
72
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số
3.1
Tên hình vẽ
Biểu đồ điểm số học sinh đạt điểm Xi (lần 1)
Trang
69
3.2
Đồ thị tần suất số % học sinh đạt điểm Xi (lần 1)
70
3.3
Biểu đồ điểm số học sinh đạt điểm Xi (lần 2)
71
3.4
Đồ thị tần suất số % học sinh đạt điểm Xi (lần 2)
72
[1]
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khoa học và kỹ thuật phát triển với tốc độ rất nhanh. Người ta ước
tính rằng cứ sau 8 năm thì tri thức của nhân loại được tăng lên gấp đôi. Từ khi chiếc
MTĐT đầu tiên ra đời đã mở ra một kỉ nguyên phát triển rực rỡ của CNTT.
Những thành tựu to lớn của CNTT đang thâm nhập sâu rộng vào hầu hết các
ngành kinh tế quốc dân, vào mọi lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, văn hoá và nghệ thuật,
khoa học và giáo dục, vào mọi cơ quan quản lý các cấp và mọi gia đình. Điện tử và
Tin học làm biến đổi sâu sắc đến lối sống và phong cách tư duy của con người. Xã
hội thông tin đang đặt ra các yêu cầu rất cao đối với các hoạt động trí tuệ của toàn
xã hội.
Mọi tiến bộ khoa học kỹ thuật cuối cùng cũng đi vào giáo dục và đặt ra cho
giáo dục những nhiệm vụ mới. Sự bùng nổ của khoa học công nghệ, sự bùng nổ của
thông tin đòi hỏi nhà trường phải tạo nên những con người thông minh, sáng tạo.
Ở Việt Nam, những thành công của sự nghiệp đổi mới trong hơn hai thập niên
qua đã tạo tiền đề cho việc ứng dụng các thành tựu của CNTT vào trong nhà trường.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm đưa nước ta
theo kịp nhịp độ phát triển của thế giới trong xu hướng hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu đòi hỏi thế hệ trẻ phải sử dụng thành thạo các ứng dụng của CNTT vào
lĩnh vực công tác của mình trong tương lai. Nhiều quan niệm cho rằng “Không biết
Tin học coi như bị mù chữ lần thứ hai. Việc dạy Tin học cũng quan trọng như việc
xoá mù chữ”.
Tin học là một môn khoa học công cụ, tri thức và kỹ năng Tin học được áp
dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực cho rất nhiều ngành khoa học khác nhau trong hầu hết
lĩnh vực của đời sống, và là một thành phần không thể thiếu của trình độ văn hoá
phổ thông của con người trong thời đại mới. Bởi vậy, dạy Tin học cho học sinh
không chỉ truyền thụ nội dung đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận
thức, những hiểu biết ngang tầm thời đại, phải luyện cho học sinh luôn tự tìm tòi,
khám phá những lĩnh vực mới của nhân loại, góp phần phát triển tư duy nhận thức
của học sinh; rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức Tin học vào thực
tiễn. Từ đó, giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[2]
Hiện nay, môn Tin học đã trở thành môn học bắt buộc trong nhà trường phổ
thông và có tăng thêm thời lượng. Đây là một thuận lợi rất lớn cho việc tiến hành
giảng dạy. Học sinh sẽ nghiêm túc và có trách nhiệm hơn khi học môn học. Nhà
trường có cơ sở pháp lí để đầu tư về trang thiết bị, phòng máy, triển khai các hoạt
động ngoại khoá liên quan. Tuy nhiên, đa số trang thiết bị dạy học ở phòng máy ở
hầu hết các cơ sở đào tạo hiện tại chưa đáp ứng được nhu cầu triển khai chương
trình dạy Tin học. Do vậy việc giảng dạy thực hành, đổi mới phương pháp dạy học
còn nhiều khó khăn. Mặt khác có tiến hành các buổi thực hành trên phòng máy thì
chất lượng cũng chưa cao. Giáo viên còn chưa quan tâm đến học sinh đạt được
những kỹ năng gì qua các buổi thực hành. Vì vậy đa số học sinh lớp 11 THPT còn
non kém về kỹ năng lập trình.
Quá trình dạy học không chỉ trang bị cho học sinh vốn kiến thức để hình thành
thế giới quan mà còn rèn luyện cho các em năng lực nhận thức và năng lực hành
động. Bởi vì chúng ta cần đào tạo nên những con người lao động mới vừa nắm
vững lý thuyết vừa có năng lực thực hành với kỹ năng vững vàng. Do vậy nhất thiết
phải rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản, đặc biệt là kỹ năng thực hành.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy Tin học trong việc giáo dưỡng và
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, qua đó thấy được thực trạng dạy và học Tin
học ở trường phổ thông. Mong muốn đóng góp một phần rất nhỏ về phương pháp
dạy học một môn học còn rất mới mẻ trong nhà trường THPT. Đó chính là lý do tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học
sinh lớp 11 trên cơ sở các bài tập Tin học”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tổ chức dạy học các bài thực hành Tin học nhằm rèn luyện kỹ
năng thực hành cho học sinh lớp 11 THPT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 11 trường THPT Phạm Phú Thứ - thôn An Ngãi Đông - xã Hòa
Sơn - huyện Hòa Vang - Thành phố Đà Nẵng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tổ chức dạy học các bài dạy thực hành Tin học 11 để rèn luyện kỹ
năng thực hành cho học sinh.
4. Giả thuyết khoa học
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[3]
Nếu tổ chức dạy học các bài thực hành Tin học theo hướng đổi mới bảo đảm
các yêu cầu về sư phạm thì sẽ hình thành, rèn luyện và phát triển được kỹ năng thực
hành lập trình cho học sinh, từ đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp cơ sở lý luận về hình thành và phát triển kỹ năng trong
giảng dạy thực hành Tin học ở trường THPT.
Xác định cơ sở và hệ thống các kỹ năng thực hành cơ bản cần rèn luyện cho
học sinh.
Nghiên cứu cách tổ chức dạy học các bài thực hành Tin học để rèn luyện và
phát triển kỹ năng thực hành cho học sinh.
Thiết kế mẫu giáo án giảng dạy bài thực hành Tin học 11 (Bài tập và thực
hành 5).
Thực nghiệm sư phạm.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu, bài giảng về phương pháp dạy học Tin học.
Nghiên cứu các tài liệu giáo dục học, tâm lý học, các tài liệu về phương pháp
dạy học môn Toán, Vật lý, ... để từ đó áp dụng vào giảng dạy Tin học.
Nghiên cứu các tài liệu về ngôn ngữ lập trình Turbo Pascal.
Nghiên cứu khối lượng kiến thức được học về lập trình bằng ngôn ngữ Pascal
và thực trạng dạy học thực hành Tin học ở trường THPT.
6.2. Nghiên cứu thực nghiệm
Tiếp xúc với giáo viên và học sinh THPT để trao đổi các vấn đề liên quan đến
việc dạy học, truyền thụ tri thức Tin học, nhất là dạy học lập trình cho học sinh
THPT.
Thực nghiệm sư phạm.
Xử lý số liệu thu được bằng phương pháp thống kê toán học.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Khóa luận là công trình nghiên cứu việc tổ chức dạy học các bài thực hành Tin
học để rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh. Sau đây là những đóng góp
mới của đề tài:
Xác định được hệ thống kỹ năng thực hành cần rèn luyện cho học sinh
lớp 11 THPT.
Bước đầu xác định được quy trình rèn luyện kỹ năng thực hành.
Xác định cách tổ chức dạy học các bài thực hành để rèn luyện kỹ năng
thực hành cho học sinh.
Xây dựng mẫu giáo án của bài thực hành 5 trong SGK Tin học 11.
8. Cấu trúc của khóa luận
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[4]
• Mở đầu: Giới thiệu sơ lược về đề tài, hướng nghiên cứu và những đóng góp
của đề tài.
• Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành và phát triển kỹ
năng thực hành cho học sinh trong dạy học Tin học ở trường THPT.
• Chương 2: Tổ chức dạy học các bài thực hành cho học sinh lớp 11 THPT.
• Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
• Phần kết luận: Nêu ra những nhận xét về kết quả đạt được, những hạn chế
của đề tài và từ đó đưa ra hướng phát triển cho đề tài.
9. Lịch trình làm việc
STT
Thời gian
1
Tháng 01/2013
2
Tháng 02/2013
3
- Gặp giáo viên hướng dẫn.
- Xây dựng đề cương.
- Nộp đề cương cho giáo viên.
- Viết lời mở đầu.
- Viết chương I.
Kết quả dự kiến
- Đề cương được
thông qua.
- Lời mở
chương I
thông qua.
đầu,
được
- Chương II và
chương III được
thông qua.
Tháng 03/2013
- Viết chương II và chương III.
Tháng 04/2013
- Hoàn thiện đề tài.
- Kết luận.
- Hoàn thiện đề tài.
Tháng 05/2013
- Rà soát và chỉnh sửa toàn bộ đề
tài
- Đề tài được thông
qua.
4
5
Nội dung thực hiện
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[5]
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC TIN HỌC Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng thực hành
1.1.1. Khái niệm kỹ năng thực hành
Kỹ năng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học quan tâm.
Xung quanh khái niệm kỹ năng đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Trong Tâm lý học có hai quan niệm về kỹ năng:
Quan niệm thứ nhất chú trọng khía cạnh cách thức hành động, coi việc
nắm được cách thức hành động là có kỹ năng. Đại diện cho quan niệm này là các
tác giả: Ph.N Cônôbôlin, V.A. Crutetxki, V.X Cudin, A.G Covaliop cho rằng kỹ
năng là phương thức thực hiện hoạt động đã được con người nắm vững [1]
Quan niệm thứ hai coi kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của
hành động mà còn là một biểu hiện năng lực của con người. Đại diện cho quan niệm
này có N.Đ.Lêvitốp, K.K. Platônốp, A.V. Pêtrôpxki, F.K. Kharlamốp. Kỹ năng theo
quan niệm này vừa có tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính
mục đích. Chẳng hạn, A.V. Pêtrôpxki xem kỹ năng là năng lực sử dụng các tri thức,
các dữ kiện hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những
thuộc tính bản chất của sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận hay
thực hành xác định [1]
Trong Lý luận dạy học, kỹ năng thường được quan niệm là khả năng của con
người thực hiện có hiệu quả hành động tương ứng với các mục đích và điều kiện
trong đó hành động xảy ra. Kỹ năng bao giờ cũng có tính khái quát và được sử dụng
trong những tình huống khác nhau.
Theo từ điển Việt Nam thì “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
thu nhận được vào thực tế” [2]
Về bản chất thì các quan niệm trên về kỹ năng không mâu thuẫn nhau lắm. Sự
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[6]
khác nhau là ở chỗ mở rộng hay thu hẹp phạm vi triển khai của một kỹ năng hành
động trong các tình huống, công việc khác nhau.
Kỹ năng có thể được định nghĩa như sau: Kỹ năng là khả năng của con người
thực hiện một cách có hiệu quả một công việc nào đó để đạt được mục đích đã xác
định bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức hành động phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh và phương tiện nhất định.
Theo từ điển Việt Nam thì “Thực hành là làm để áp dụng lý thuyết vào thực
tế” [3]
Khái niệm thực hành có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng đều thống nhất
hiểu thực hành là một động từ mà ở đó có hai điểm chính cần chú ý:
Một là, thực hành gắn liền với những hành động, hoạt động của con
người được biểu hiện bằng các thao tác cụ thể, tác động lên đối tượng lao động nào
đó nhằm biến đổi chúng theo mục đích đã định. Ở đây, hoạt động được hiểu ở nghĩa
rộng hơn so với hành động, trong hoạt động gồm có nhiều hành động.
Hai là, thực hành là một biểu hiện của việc vận dụng lý thuyết vào thực
tiễn. Đây không phải là một hoạt động mang tính thuần túy của cơ bắp mà nó đòi
hỏi phải có sự tham gia của những hoạt động trí tuệ. Hoạt động trong thực hành
mang tính mục đích rõ rệt, kiểm nghiệm và nắm vững lý thuyết hơn là mục đích chủ
yếu.
Từ hai khái niệm “Kỹ năng” và “Thực hành” có thể hiểu: Kỹ năng thực hành
trong dạy học (đối với học sinh) là khả năng học sinh thực hiện có kết quả các thao
tác hành động trong việc áp dụng tri thức đã học vào thực tế.
Dựa vào định nghĩa trên ta thấy kỹ năng thực hành có đặc điểm là:
Có kiến thức vững chắc về lý thuyết.
Khả năng thực hiện các thao tác hành động theo một quy định.
Khả năng vận dụng khám phá biến đổi về các quy trình, các vấn đề về
lý luận vào thực tiễn.
Kết quả thực hiện phải đạt được mục tiêu đề ra.
Như vậy kỹ năng thực hành không phải là phạm trù trừu tượng mà nó là
những
thao tác, hành động cụ thể của chủ thể hành động, trường hợp này chủ thể là học
sinh, nhằm đạt được kết quả đã đề ra theo mục tiêu dạy học, đó là việc áp dụng
những kiến thức đã học vào tình huống mới có ý nghĩa.
1.1.2. Vai trò của kỹ năng thực hành trong dạy học Tin học
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[7]
Mục đích của nền giáo dục Việt Nam hiện nay là: Thực hiện giáo dục toàn
diện nhằm nâng cao năng lực sản xuất cho nền sản xuất hiện đại, đó là những con
người có kiến thức ngang tầm thời đại, có phẩm chất đạo đức, tư duy sáng tạo và
năng lực thực hành giỏi, có ý thức vươn lên trong học tập, rèn luyện lập thân, lập
nghiệp. Là một người lao động thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì không chỉ
có kiến thức mà còn phải có ý thức kỷ luật, kỹ năng thực hành giỏi, lòng say mê
nghề nghiệp. Những phẩm chất năng lực này đã được trang bị từ khi ngồi trên ghế
nhà trường. Do đó việc hình thành kỹ năng cho học sinh trong quá trình dạy học là
quá trình từng bước hoàn thành mục tiêu của nền giáo dục.
Mục tiêu dạy học ở THPT được xác định căn cứ vào mục tiêu giáo dục THPT.
Mục tiêu giáo dục nhằm vào việc giáo dục toàn diện nhân cách học sinh: giáo dục
đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo dục kỹ năng.
Để đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện, quá trình dạy học cần tác động lên cả ba
mặt đời sống tâm lý học sinh: mặt nhận thức, mặt xúc cảm, tình cảm (hay thái độ)
và mặt hành động. Chính vì thế, mục tiêu dạy học được xác định thường bao gồm
ba nhóm yêu cầu bồi dưỡng nhân cách toàn diện: yêu cầu về nhận thức (tri thức),
yêu cầu về xúc cảm, tình cảm (thái độ) và yêu cầu về hành động (kỹ năng) [7]
Trong nhà trường, ba nhóm yêu cầu này thường được xác định và sắp xếp theo
thứ tự như sau:
1. Hệ thống những tri thức cần nắm.
2. Hệ thống những kỹ năng học tập và sinh hoạt cần rèn luyện.
3. Hệ thống những giá trị (thái độ) thích hợp cần bồi dưỡng.
Ba nhiệm vụ này có mối quan hệ biện chứng, thúc đẩy lẫn nhau, được thể
hiện:
Nhiệm vụ thứ nhất là cơ sở của nhiệm vụ thứ hai, nhiệm vụ thứ ba; bởi
lẽ, học sinh chỉ thực hiện các thao tác trí tuệ khi các em tiến hành lĩnh hội và vận
dụng hệ thống các tri thức. Thế giới quan, những phẩm chất nhân cách được hình
thành ở các em có đúng đắn hay không lại tùy thuộc vào những tri thức mà các em
lĩnh hội có chính xác, khoa học hay không.
Nhiệm vụ thứ hai là điều kiện của nhiệm vụ thứ nhất và nhiệm vụ thứ
ba; điều đó thể hiện ở chỗ một khi trí tuệ của các em phát triển, các em biết phương
pháp học thì chính sự phát triển trí tuệ đó giúp các em có thể lĩnh hội tri thức, hình
thành kỹ năng, kỹ xảo và những phẩm chất nhân cách tốt hơn.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[8]
Nhiệm vụ thứ ba vừa là mục đích, kết quả của nhiệm vụ thứ nhất và
nhiệm vụ thứ hai, lại vừa trở thành động lực thúc đẩy nhiệm vụ thứ nhất và nhiệm
vụ thứ hai phát triển. Mục đích cuối cùng của quá trình học sinh lĩnh hội tri thức là
để nhằm hình thành quan điểm, tư tưởng đúng về thế giới xung quanh từ đó có thái
độ và hành động đúng đắn đối với thế giới, tức mục đích của việc học chữ là để học
làm người, học sinh chỉ thực hiện các thao tác trí tuệ để lĩnh hội tri thức, rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo tốt một khi các em có ý thức, thái độ học tập đúng đắn [7]
Trong dạy học, giáo viên phải đồng thời thực hiện tốt cả 3 nhiệm vụ nói trên;
trong đó nhiệm vụ hình thành và phát triển kỹ năng là rất cần thiết. Đây là nhiệm vụ
khó khăn vì năng lực ở đây là sự tổng hợp, việc xây dựng đòi hỏi cả một quá trình.
Tin học là một môn học liên quan đến máy tính, tuy nhiên không đồng nhất
việc học kỹ năng ở đây với kỹ năng học nghề sử dụng máy tính. Học kỹ năng ở đây
trước hết là để biết và hiểu các vấn đề trong chuẩn kiến thức được tốt hơn, sau đó
mới có thể vận dụng được kỹ năng để làm được một số công việc nhưng cũng chỉ
với những công việc đơn giản phục vụ học tập. Bên cạnh trang bị cho học sinh một
lượng lớn kiến thức lý thuyết chúng ta còn phải rèn luyện cho các em kỹ năng thực
hành tương ứng. Vì kỹ năng thực hành là công cụ để học sinh tự lực nghiên cứu Tin
học và áp dụng các thành tựu của Tin học vào đời sống thực tiễn...
1.1.3. Kỹ xảo
Theo giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm thì: kỹ xảo là hành
động đã được củng cố và tự động hóa nhờ luyện tập [6]
Theo wiktionary thì: kỹ xảo là kỹ năng đạt đến mức độ thành thạo, rất khéo
léo. [4]
Mọi hành động của con người là hành động có ý thức. Cho nên mục đích và
các hành động được ý thức ngay từ đầu. Nhưng không phải mọi lúc và mọi khâu
của hành động, ý thức bao giờ cũng có mặt. Cho nên trong một chuỗi hành động, có
những khâu, những thành phần không có hoặc có ít sự tham gia của ý thức. Thành
phần tự động hoá đó là kỹ xảo. Vậy, kỹ xảo là hành động đã được củng cố và tự
động hoá.
Kỹ xảo có các đặc điểm như sau:
Kỹ xảo không bao giờ thực hiện đơn độc, tách rời khỏi hành động có ý
thức phức tạp. Một hành động có ý thức có nhiều kỹ xảo và kỹ xảo ở nhiều lĩnh vực
khác nhau thì hành động có ý thức đó càng có nhiều thuận lợi về mặt biện pháp.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[9]
Cho nên, trong hành động có ý thức, kỹ xảo quan hệ nhiều đến biện pháp hoàn
thành hành động mà không quan hệ đến mục đích và cách thức hành động.
Mức độ tham gia của ý thức ít, thậm chí có khi cảm thấy không có sự
tham gia của ý thức. Nhưng không tuyệt đối, mà ý thức luôn luôn thường trực, lúc
có vấn đề ý thức xuất hiện ngay. Nhờ đó, ý thức được tập trung vào mặt phức tạp và
sáng tạo của hành động, phạm vi bao quát rộng hơn.
Không nhất thiết phải theo dõi bằng mắt, mà kiểm tra bằng cảm giác
vận động. Do đó, tầm tri giác được mở rộng, tăng tính chính xác và độ nhạy của tri
giác.
Động tác thừa bị loại trừ, những động tác cần thiết ngày càng chính
xác, nhanh và tiết kiệm. Do đó làm cho hành động tốn ít năng lượng, tăng tốc độ
hoàn thành công việc, có năng suất cao, kết quả đều, chất lượng cao.
Thống nhất giữa tính ổn định và tính linh hoạt nghĩa là kỹ xảo không
nhất thiết phải gắn liền với một đối tượng và tình huống nhất định. Kỹ xảo có thể di
chuyển dễ dàng tuỳ theo mục đích và tính chất chung của hành động [6]
Để hình thành kỹ xảo cần đảm bảo các bước cơ bản sau:
Một là phải làm cho học sinh hiểu biện pháp hành động.
Hiểu được biện pháp hành động có thể thông qua các cách như: cho học sinh
quan sát hành động mẫu, kết quả mẫu, hướng dẫn, chỉ vẽ, hoặc kết hợp các cách nói
trên. Khi hướng dẫn, cần lưu ý giúp học sinh nắm được cách thức, lề lối, quy tắc,
phương tiện để đạt kết quả. Trong quá trình đó, điều quan trọng là giúp học sinh ý
thức được các thủ thuật then chốt từng khâu, từng lúc và từng hoàn cảnh.
Hai là luyện tập. Trong khi luyện tập cần đảm bảo các điều kiện sau:
• Cần làm cho học sinh biết chính xác mục đích của việc luyện tập.
• Theo dõi tính chính xác của việc thực hiện, để không củng cố
những sai sót, lệch lạc, biết đối chiếu, kiểm tra so với mô hình của hành động mẫu.
• Phải đủ số lần luyện tập: nếu chưa đủ thì kỹ xảo chưa đủ ở mức
củng cố. Điều này sẽ dẫn đến dễ bị phá vỡ, nhiều hơn nữa sẽ gây nên thái độ tiêu
cực, làm giảm sự chú ý.
• Bài tập phải là một hệ thống xác định, theo một sự kế tục hợp lý, có
kế hoạch rõ ràng và phức tạp hóa dần.
• Quá trình luyện tập không được ngắt quãng trong một thời gian dài.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[10]
Ba là tự động hóa. Tức là hành động được mô hình hóa và loại bỏ đi
những động tác thừa và ngày càng trở nên chính xác hơn. Khi đó cấu trúc hành
động sẽ thay đổi về chất [6]
Trong các buổi thực hành, khi đã định hướng vào hành động, học sinh sẽ cố
gắng làm thử để hoàn thành hành động và kiểm tra kết quả của hành động. Nếu
hành động có kết quả, chứng tỏ sự định hướng đúng và phương pháp hành động
chính xác. Phương pháp này được củng cố bằng cách làm đi làm lại nhiều lần. Nếu
hành động không có một kết quả thì sự định hướng và phương pháp hành động sẽ
được điều chỉnh hay loại bỏ. Quá trình đó không phải diễn ra một lần. Mỗi lần làm
lại rút ra được kinh nghiệm, lựa chọn phương pháp tốt hơn, loại bỏ những phương
pháp và tác động xấu, không cần thiết. Từ đó sẽ hình thành kỹ xảo cho học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng thực hành
1.1.
Mục tiêu dạy học môn Tin học
Bộ môn Tin học phải cùng với các bộ môn khác tham gia thực hiện mục tiêu
của nhà trường phổ thông là đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động có học
vấn vững chắc, có nhân cách hoàn thiện và có năng lực bảo vệ, xây dựng đất nước
phồn vinh. Là một trong những môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, bộ môn Tin
học phải cung cấp những tri thức cơ bản, làm nền tảng để học sinh có thể tiếp tục đi
sâu vào tìm hiểu và xây dựng khoa học Tin học hoặc tiếp thu những tri thức của các
lĩnh vực kỹ thuật công nghệ tiên tiến, nhất là các lĩnh vực của CNTT. Vì vậy việc
xác định mục tiêu dạy học môn Tin học phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục Việt
Nam, từ đặc điểm và vị trí môn Tin học trong nhà trường [5]
1.1.1. Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục Việt Nam được Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai của
Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII khẳng định: “Mục tiêu và nhiệm vụ của
giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ gắn bó với tư tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng
và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa và văn hoá nhân loại; phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[11]
tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư
duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức
kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng,
vừa chuyên như lời căn dặn của Bác Hồ”.
Luật giáo dục nước ta cũng đã cụ thể hoá tại chương II, mục 2 điều 23 là:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”.
Môn Tin học, cũng như mọi môn học khác, căn cứ vào mục tiêu trên để xác
định ra những nhiệm vụ cụ thể của môn học, tổ chức hoạt động đào tạo góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng và nhà nước đã đề ra [5]
1.1.2. Đặc điểm của môn Tin học
Việc xác định mục tiêu dạy học môn Tin phải căn cứ đặc điểm môn Tin học,
bao gồm:
Đặc điểm thứ nhất là tính trừu tượng cao độ và tính thực tiễn phổ dụng:
Tính trừu tượng của Tin học là ở chỗ nó nghiên cứu các phương pháp
công nghệ và kỹ thuật xử lý thông tin một cách tự động. Bản thân khái niệm thông
tin đã là trừu tượng, quá trình xử lý thông tin (thu nhập, lưu trữ, biến đổi và truyền
nhận) dựa trên những thành tựu của những ngành khoa học mang tính trừu tượng
cao như Vật lý, Toán học, Lý thuyết thông tin,... vì thế Tin học mang đặc điểm trừu
tượng hoá cao độ.
Sự trừu tượng hóa trong Tin học diễn ra trên những bình diện khác
nhau. Có những khái niệm Tin học là kết quả của sự trừu trượng hóa những đối
tượng vật chất cụ thể, chẳng hạn khái niệm biến, khái niệm về mảng, bản ghi…
Nhưng cũng có nhiều khái niệm là kết quả của sự trừu tượng hóa những cái trừu
tượng đã đạt được trước đó, chẳng hạn những khái niệm tham biến hình thức, mảng
có phần tử là mảng, bản ghi…
Tính trừu tượng cao độ chỉ che lấp chứ không hề làm mất tính thực tiễn
của Tin học. Tin học có nguồn gốc thực tiễn. Mảng ra đời trước hết do nhu cầu xử
lý thông tin trên những danh sách. Bản ghi ra đời do nhu cầu quản lý hồ sơ nhân sự,
vật tư...
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[12]
Tin học có tính thực tiễn phổ dụng: là một tiến bộ khoa học mũi nhọn
của thời đại, Tin học nhanh chóng được ứng dụng rỗng rãi trên mọi lĩnh vực của
đời sống, xã hội. Nó cung cấp những phương pháp và công cụ hiệu quả giúp con
người khai thác và xử lý thông tin, là công cụ phục vụ tất cả các ngành khoa học kỹ
thuật, các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa, dịch vụ và đặc biệt quan
trọng trong công tác quản lý.
Ngày nay Tin học, nói rộng hơn là CNTT được coi là một trong những ngành
mũi nhọn chiếm vị trí hàng đầu trong chính sách kinh tế, khoa học và công nghệ ở
những nước phát triển. Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật truyền thông đã đưa
đến những chuyển biến to lớn và cơ bản trong công nghệ thiết lập các mạng Tin học
về việc hình thành trong thực tế các siêu xa lộ cao tốc thông tin như Intranet,
Internet.
Đặc điểm thứ hai là tính logic và tính thực nghiệm của Tin học: Khi xây dựng
những phần mềm, hay ngôn ngữ lập trình, người ta dùng suy diễn logic, xuất phát từ
những dữ liệu chuẩn người ta xây dựng lên các các dữ liệu có cấu trúc.
Khi trình bày môn Tin học trong nhà trường phổ thông, do đặc điểm lứa tuổi
và yêu cầu của từng cấp học, bậc học, nói chung là vì lý do sư phạm, người ta có thể
châm chước, nhân nhượng về tính logic: mô tả (không định nghĩa) một số khái niệm
không phải là nguyên thuỷ, thừa nhận (không chứng minh) sự đúng đắn của chương
trình sau một số phép thử với một số tập dữ liệu. Tuy nhiên giáo trình Tin học phổ
thông cũng vẫn mang tính logic, hệ thống: trí thức trước chuẩn bị cho tri thức sau,
tri thức sau dựa vào tri thức trước. [5]
1.1.3. Vị trí của môn Tin học
Môn Tin học là môn học công cụ. Do tính trừu tượng cao độ, Tin học có tính
thực tiễn phổ dụng. Những tri thức và kỹ năng Tin học cùng với những phương
pháp làm việc trong Tin học đã trở thành công cụ để học tập những môn học khác
trong nhà trường, là công cụ của nhiều ngành khoa học khác, là công cụ để hoạt
động trong đời sống thực tế và vì vậy là một thành phần không thể thiếu của trình
độ văn hóa phổ thông của con người mới. Về mặt tri thức và kỹ năng môn Tin học
trong nhà trường cần làm cho tất cả mọi học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học
đều nắm được những yếu tố cơ bản của Tin học, có khả năng ứng dụng CNTT như
công cụ học tập và hoạt động, có thể nhanh chóng bước vào những ngành nghề đòi
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[13]
hỏi sử dụng công nghệ này. Cụ thể là học sinh có những hiểu biết vể Tin học và
MTĐT, có khái niệm về thuật giải và làm quen với tư duy thuật giải. Học sinh biết
lập trình để giải những bài toán đơn giản, trước hết là những bài toán trong SGK
Toán, Lý, Hóa,.. từ đó chuẩn bị những tri thức kỹ năng và phong cách làm việc cần
thiết để sau này có thể đi sâu hơn về lĩnh vực lập trình. Học sinh biết làm việc với
một số HĐH, một số phần mềm như soạn thảo văn bản, bảng tính điện tử…..
Ngoài việc tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh những tri thức và kỹ năng
Tin học cần thiết, môn Tin học còn có tác dụng góp phần phát triển năng lực trí tuệ
chung như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá,... rèn luyện những
đức tính, phẩm chất của người lao động mới như tính cẩn thận, chính xác, tính kỷ
luật, tính phê phán, tính sáng tạo. Học sinh thấy rõ hiệu lực mạnh mẽ của CNTT và
nhận thức được cần có những phẩm chất nào của người lao động trong thời đại mới.
Với những lý do trên, trong trường phổ thông Tin học giữ một vị trí hết sức
quan trọng. Việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ của môn Tin học không thể không
dính tới vị trí của môn học này trong nhà trường phổ thông.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục chung, căn cứ vào đặc điểm và vị trí môn
Tin học, bộ môn Tin học ở trường phổ thông cần đạt được những mục tiêu cụ thể
(hay những nhiệm vụ cụ thể) sau đây:
Vũ trang cho học sinh những tri thức, kỹ năng cơ bản, cơ sở của Tin
học, từ đại cương về Tin học đến phương pháp lập trình giải các bài toán trên một
ngôn ngữ lập trình nào đó. Từ đó làm cho họ có khả năng, có kỹ năng khai thác
những thành tựu mới của khoa học Tin học và vận dụng Tin học vào thực tiễn. Tiến
thêm một bước nữa, bộ môn Tin học phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ
bản về những ứng dụng của Tin học vào trong các quá trình công nghệ, trong thông
tin liên lạc, trong các quá trình sản xuất, trong quản lý kinh tế, xã hội,... Đó chính là
nhiệm vụ giáo dưỡng của bộ môn Tin học.
Trên cơ sở cung cấp những tri thức cơ bản, có hệ thống, bộ môn Tin
học còn phải rèn luyện cho học sinh những năng lực trí tuệ chung như kỹ năng tư
duy trừu tượng, kỹ năng thực hành cần thiết. Về tư duy, cần hình thành và phát triển
các thao tác chủ yếu: tư duy logic, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá, trừu
tượng hoá. Về thực hành cần chú trọng đến kỹ năng sử dụng máy tính, kỹ năng vận
dụng Tin học vào thực tiễn. Cũng cần chú ý luyện tập cho học sinh thói quen gắn
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[14]
liền các thao tác tư duy với các kỹ năng thực hành như là một thể thống nhất trong
hoạt động nhận thức. Nếu làm tốt nhiệm vụ này, học sinh có thể tiếp tục tự lập học
tập một cách thường xuyên, học tập suốt đời một cách có hiệu quả.
Tin học là khoa học nghiên cứu về thông tin và những quá trình xử lý
thông tin một cách tự động, các quy luật biến đổi thông tin tuân theo những quy luật
tự nhiên. Vì vậy thông qua việc dạy Tin học mà hình thành cho học sinh những
quan niệm, những phương thức tư duy và hoạt động đúng đắn, phù hợp với những
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời phải làm cho học sinh biết
sử dụng các tri thức Tin học để làm bằng chứng kiểm nghiệm những quan điểm đó.
Từ đó có được nhân sinh quan khoa học trong lối sống, trong sự xây dựng nhân
cách của người lao động, đạo đức phẩm chất của người chiến sĩ đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng con người khỏi sự mù quáng, lạc hậu. Đây chính là nhiệm vụ
giáo dục của bộ môn Tin học.
Cuối cùng bộ môn Tin học phải đảm bảo chất lượng phổ cập, đồng thời
phải có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi Tin học, cung cấp cho đất
nước những nhân tài trong lĩnh vực CNTT.
1.2. Đặc điểm năng lực nhận thức và năng lực thực hành của học sinh
trong trường THPT
Tuổi đầu thanh niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực, nhưng
sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người lớn. Tuổi thanh
niên bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý.
Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên
trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của tế bào bán
cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào não của người lớn. Số
lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại.
Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp...
của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập.
Nội dung và tính chất của hoạt động học lập ở thanh niên học sinh khác rất
nhiều so với hoạt động học tập của thiếu niên. Sự khác nhau cơ bản không phải ở
chỗ nội dung học tập ngày một sâu hơn, mà là ở chỗ hoạt động học tập của thanh
niên học sinh đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều; đồng
thời cũng đòi hỏi, muốn nắm được chương trình một cách sâu sắc thì cần phát triển
tư duy lý luận.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[15]
Thái độ của thanh niên học sinh đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn.
Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề
nghiệp. Cuối bậc THPT các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định
đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú này
thường liên quan với việc chọn một nghề nhất định của học sinh. Hơn nữa, hứng thú
nhận thức của thanh niên học sinh mang tính chất rộng rãi, sâu và bền vững hơn
thiếu niên.
Lứa tuổi học sinh THPT có tính chủ định phát triển mạnh ở tất cả các quá trình
nhận thức:
Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát trở nên có mục
đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự điều khiển của hệ
thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy vậy,
quan sát của thanh niên học sinh cũng khó có hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo
viên. Giáo viên cần quan tâm để hướng quan sát của các em vào một nhiệm vụ nhất
định, không vội vàng kết luận khi chưa tích luỹ đầy đủ các sự kiện.
Ở tuổi thanh niên học sinh, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo
trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý
nghĩa ngày một tăng rõ rệt (các em biết sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi nhớ:
tóm tắt ý chính, so sánh đối chiếu...). Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hoá
trong ghi nhớ. Các em biết tài liệu nào cần nhớ từng câu từng chữ, cái gì cần hiểu
mà không cần nhớ... Nhưng một số em còn ghi nhớ đại khái, chung chung, cũng có
khi các em đánh giá thấp việc ôn tập tài liệu.
Do cấu trúc của não phức tạp, chức năng của não phát triển; do sự phát
triển của các quá trình nhận thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập
mà hoạt động tư duy của thanh niên học sinh có thay đổi quan trọng. Các em có khả
năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo trong những đối
tượng quen biết đã được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ
và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển... Những đặc
điểm đó tạo điều kiện cho học sinh lớn thực hiện các thao tác tư duy toán học phức
tạp, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ
nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[16]
Nắm được quy trình thao tác thực hành nhằm đạt được mục đích, điều cơ bản
học sinh nắm chắc kỹ năng, ghi nhớ và áp dụng lý thuyết, thực hiện các thao tác
hành động gần như hoàn thiện. Do đó năng lực thực hành của học sinh THPT cao
so
với học sinh trung học cơ sở.
Tuy nhiên ở lứa tuổi học sinh THPT chưa phát huy hết năng lực độc lập suy
nghĩ của bản thân, nhiều lúc còn kết luận vội vàng. Vì vậy, việc giúp các em phát
triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên khi thực hiện
các nội dung thực hành.
Tóm lại, ở tuổi thanh niên mới lớn những đặc điểm chung của con người về
mặt trí tuệ thông thường đã được hình thành và chúng vẫn còn được tiếp tục hoàn
thiện [6]
1.3.
Thực trạng của việc rèn luyện kỹ năng thực hành Tin học trong
trường THPT
Môn Tin học đã trở thành môn học bắt buộc trong nhà trường THPT và có
tăng thêm thời lượng. Qua đợt thực tập sư phạm ở trường THPT Phạm Phú Thứ, tôi
được tìm hiểu về thực trạng dạy học thực hành Tin học của lớp 11 THPT và rút ra
nhận xét như sau: việc rèn luyện các kỹ năng thực hành cho học sinh đang còn
nhiều hạn chế vì một số lýdo sau đây:
Thứ nhất, do phòng máy chưa đáp ứng được nhu cầu của việc thực
hành (số lượng máy ít, có nhiều máy hư hỏng chưa kịp sửa chữa…) nên việc tổ
chức và thực hiện các buổi thực hành còn gặp nhiều khó khăn. Mỗi tiết thực hành
được tiến hành trong vòng 45 phút, nếu tổ chức không tốt sẽ có rất nhiều học sinh
sẽ không làm được việc gì trong giờ thực hành.
Thứ hai, mục đích lớn nhất của học sinh hiện nay là thi đậu vào đại học,
nên việc đầu tư vào nghiên cứu môn Tin học hầu như ít được quan tâm. Mặt khác,
không phải mọi gia đình đều có máy vi tính riêng cho con em. Nhiều học sinh có
máy hoặc tiếp xúc với máy chỉ sử dụng nhiều vào mục đích chơi các trò chơi chứ
không phải là để học tập.
1.3. Các kỹ năng thực hành cần rèn luyện
Từ đặc điểm và vị trí môn của học trong nhà trường THPT, từ thực tế của
môn Tin học trong trường THPT nước ta hiện nay, để đạt được nhiệm vụ dạy học
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[17]
Tin học trong trường THPT, thì người giáo viên cần lưu ý quan tâm rèn luyện cho
các em kỹ năng học tập Tin học bao gồm các nhóm kỹ năng sau:
Kỹ năng nhận thức.
Kỹ năng thực hành.
Kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức.
Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá.
Tuy nhiên trong phạm vi đề tài tôi chỉ đề cập đến việc rèn luyện cho học sinh
các kỹ năng thực hành, đây là kỹ năng cơ bản giúp các em trong học tập môn Tin
học cũng như phục vụ cuộc sống sau này.
Kết quả của việc tiếp thu những tri thức Tin học phải được thể hiện trong các
chương trình lập trình giải các bài toán bằng máy tính, trong các khả năng ứng dụng
Tin học của học sinh vào trong thực tiễn. Bởi vậy, trong dạy học người thầy giáo
cần quan tâm rèn luyện cho học sinh những kỹ năng thực hành trong Tin học bao
gồm các nhóm kỹ năng sau:
Kỹ năng vận dụng tri thức Tin học vào hoạt động lập trình.
Kỹ năng vận dụng tri thức Tin học vào giải các bài toán thực tiễn.
Kỹ năng vận dụng tri thức vào khai thác các thành tựu về Tin học.
1.3.1. Kỹ năng vận dụng tri thức Tin học vào hoạt động lập trình
Ngôn ngữ lập trình Pascal chiếm một vị trí quan trọng trong bộ môn Tin học ở
trường THPT. Hoạt động lập trình có thể xem là hình thức chủ yếu của hoạt động
Tin học đối với mỗi học sinh. Nó chính là điều kiện để thực hiện tốt các mục đích
của việc dạy học Tin học trong nhà trường THPT.
Kỹ năng vận dụng tri thức có hiệu quả vào hoạt động lập trình của học sinh
được huấn luyện trong quá trình họ tìm thuật giải. Quá trình này thường được tiến
hành theo 4 bước: Tìm hiểu nội dung bài toán, xây dựng thuật giải, thực hiện xây
dựng chương trình và thực hiện chạy thử trên máy để nghiên cứu thuật giải tìm
được. Ở giai đoạn này, học sinh luôn được yêu cầu lựa chọn và phân tách hoạt
động, vận dụng những hoạt động trí tuệ, những kiến thức, phương pháp, sử dụng
một số tổ hợp các phương tiện, vận dụng những kỹ thuật xây dựng chương trình để
kiến thiết thuật giải. Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vào hoạt
động lập trình, người giáo viên cần chú ý dạy Tin học cho học sinh qua các phương
diện:
Phương diện ngôn ngữ.
Phương diện thuật giải.
Phương diện dữ liệu.
Phương diện kết quả.
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[18]
Phương diện máy tính điện tử.
Phương diện quá trình.
Phương diện giải quyết vấn đề.
1.3.1.1. Phương diện ngôn ngữ
Ở phương diện ngôn ngữ, ta cần dạy cho học sinh theo quan điểm giao tiếp
giữa người và máy bằng cách tạo ra những tình huống công việc mà giải quyết nó
đòi hỏi phải biết được từ khoá nào, cấu trúc ngữ pháp của câu lệnh, cấu trúc dữ liệu
và cấu trúc chương trình...Những tình huống như vậy là những dịp để giáo viên gợi
động cơ học tập cho học sinh.
Chẳng hạn, muốn tìm số lớn nhất trong ba số nguyên, ta viết chương trình để
khi nhập vào ba số nguyên bất kỳ thì màn hình sẽ thông báo số lớn nhất trong ba số
vừa nhập.
Ví dụ 1:
Program
max3so;
Uses
Crt;
Var
a,b,c,max: Integer;
Begin
Clrscr;
Write ('Nhap vao so nguyen thu 1: '); Readln(a);
Write ('Nhap vao so nguyen thu 2: '); Readln(b);
Write ('Nhap vao so nguyen thu 3: '); Readln(c);
If a < b then
max:=b;
If b < c then
max:=c;
If c < a then
max:=a;
Writeln('So lon nhat la: ', max);
Readln;
End.
Thông qua chương trình này, ta dạy cho học sinh cách dùng lệnh xoá màn
hình Clrscr, cấu trúc hoạt động của câu lệnh If…then.
1.3.1.2. Phương diện thuật giải
Ở phương diện thuật giải, ta yêu cầu học sinh viết thuật giải bằng sơ đồ khối
hoặc bằng ngôn ngữ phỏng trình. Tức là xây dựng dãy các tác động để cho máy tính
có thể thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đạt được một kết quả
xác định gọi là điều kiện ra xuất phát từ một tình huống gọi là điều kiện vào. Nếu có
thể thì cho học sinh biết nhiều thuật giải có thể giải quyết cùng một nhiệm vụ, sau
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]
[19]
đó chọn xem trong số các thuật giải đó thuật giải nào tốt nhất về một yêu cầu nào
đó.
1.3.1.3. Phương diện dữ liệu
Thông tin cho máy tính bao gồm một tập hợp được chọn của các dữ liệu về bài
toán được đặt ra, các kết quả mong muốn sẽ được đưa ra từ đó. Trong lập trình cần
phải tuân theo quy tắc hằng, biến, biểu thức phải tuân theo một kiểu dữ liệu nào đó.
Kiểu nào xác định tập các giá trị mà hằng phải phụ thuộc vào; một biến, một hằng,
một biểu thức có thể cho trong giá trị đó. Khi ta khai báo kiểu dữ liệu thì máy tính
xác định tập các giá trị của nó và các phép toán được dùng trong đó. Khi xây dựng
thuật giải, ta đã xác định tập các thao tác trên các đại lượng nào đó. Quán triệt
phương diện dữ liệu người thầy giáo cần rèn luyện cho học sinh những kỹ năng sau
trong hoạt động lập trình:
Kiểm tra dữ liệu khi nhập vào.
Sử dụng những thao tác thích hợp với từng kiểu dữ kiệu đó.
Xây dựng cấu trúc dữ liệu thích hợp với từng bài toán.
Ở mức cao hơn chương trình phải biết phân tích sai sót báo cho người sử dụng
biết các sai sót khi họ đưa dữ liệu vào không đúng theo yêu cầu bài toán, nếu có thể
thông báo cho họ biết bản chất của sai sót là gì. Nếu chương trình không có khả
năng kiểm tra dữ liệu khi vào thì có thể dẫn đến sai sót khi thực hiện.
Nếu dữ liệu nhập vào mất nhiều công gõ bàn phím mỗi khi chạy thử thì ta nên
dùng các hằng để ghi nhớ chúng ngay từ khi soạn thảo và đến khi chạy thật thì ta bỏ
chúng đi mà thay thế vào đó là các biến nhận giá trị thực tế, còn khi khai báo biến ta
cần lưu ý đến miền giá trị để xác định kiểu dữ liệu cho chúng. Chẳng hạn, đối với
biến dùng để chứa tuổi của một người nên khai báo thuộc kiểu miền con từ 1..100
thì ta nên khai báo kiểu Byte mà không nên khai báo là kiểu nguyên (Integer) bởi
khai báo như vậy máy sẽ dành nhiều ô nhớ để chứa biến nhớ đó, rất tốn bộ nhớ và
làm cho chương trình xử lý chậm hơn.
1.3.1.4. Phương diện quá trình
Khi học lập trình, nhiều học sinh chỉ chú ý tới kết quả bài toán mà không nắm
được quá trình thực hiện chương trình. Nếu học sinh nắm được quá trình thực hiện
chương trình thì họ sẽ tránh được những sai lầm ngộ nhận và sẽ nắm được từng
bước của quá trình, kết quả làm việc của các cấu trúc lặp, lệnh làm việc với chương
trình con…điều đó sẽ giúp họ kiểm soát được các khả năng có thể xảy ra với dữ liệu
Nguyễn Anh Quốc - [Xây dựng phương pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh lớp 11
trên cơ sở các bài tập Tin học]