Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Huy động vốn tại ngân hàng TCMP đại dương chi nhánh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 108 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không
thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng
như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có
vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung
gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan
trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi. Nhưng để cung cấp
đủ vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ bên
ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp ứng
đầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các
nguồn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM.
Đất nước ta đang trong quá trình phát triển kinh tế mạnh mẽ, với tốc
độ phát triển kinh tế luôn ở mức cao so với các nước trên thế giới. Để có
được thành tựu phát triển to lớn trên chúng ta đã phải huy động một lượng
vốn rất lớn để đầu tư cho nền kinh tế. Vốn chính là yếu tố quan trọng và là
điều kiện quyết định để phát triển nền kinh tế, điều này đã được Đảng ta
khẳng định trong “Văn kiện đại hội VIII”. Chúng ta không thể thực hiện
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nếu không huy động được nhiều
vốn, nhất là những nguồn vốn dài hạn trong nước mà nòng cốt để thực hiện
nhiệm vụ vô cùng quan trọng này phải là các Ngân hàng Thương mại các
Công ty Tài chính.
Trên thực tế Việt Nam vẫn chưa huy đông hết mọi nguồn vốn có thể
huy động, mặc dù thiếu vốn để đầu tư cho nền kinh tế nhưng thực tế lượng
vốn trong nước (đặc biệt là nguồn vốn trong dân cư) và quốc tế là rất lớn mà
chúng ta vẫn chưa khai thác hiệu quả. Do đó, với vai trò trung gian tài chính

1



của mình thì các tổ chức tài chính như: Các Ngân hàng Thương mại cần
phải có những chiến lược và giải pháp huy động vốn sao cho có hiệu quả,
đáp ứng tốt nhu câù về vốn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu để đưa ra các giải pháp để hoàn thiện và phát triển hoạt động
huy động vốn trong các Ngân hàng Thương mại sẽ có ý nghĩa rất to lớn cả
về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Là một ngân hàng trẻ, trong những năm qua Ngân hàng TMCP Đại
Dương- Chi nhánh Thái Bình đã không ngừng vươn lên từng bước khẳng định
vị trí của mình trên thị trường tài chính. Tuy nhiên một ngân hàng trẻ mới
chuyển đổi mô hình hoạt động được 3 năm như Oceanbank, muốn phát
triển được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay không phải
là một điều đơn giản. Việc tăng cường huy động vốn có ý nghĩa hết sức
quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng. Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Huy
động vốn tại ngân hàng TCMP Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình” làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu về công tác huy động vốn tại các ngân hàng
thương mại, tác giả đã tham khảo rất nhiều nghiên cứu của nhiều tác giả khác
nhau, cụ thể:
Đề tài: Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh của tác giả Nguyễn Thị
Phượng , Đại học Đà Nẵng, năm 2013“ Giải pháp tăng cường huy động vốn
tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương- Chi nhánh Quy Nhơn”.
Đề tài: Chuyên đề tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính Ngân hàng của tác
giả Nguyễn Văn Huy, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, năm 2013“ Giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam Thịnh Vượng ”.

2



Đề tài: Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Giang Thị Lệ Trang, Học viện
Ngân hàng, năm 2010“ Chiến lược huy động vốn của Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam “.
Đề tài: Luận văn Thạc sĩ Tài Chính Ngân hàng của tác giả Vũ Thị Kim
Oanh, Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2012“ Giải pháp tăng cường
huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải- Chi nhánh Nam Hà Nội “.
Bằng việc tham khảo nhiều nghiên cứu của những tác giả khác nhau
này, tác giả nhận thấy tầm quan trọng cũng như những kết quả đạt được của
từng luận văn đó là: Các luận văn đã đi vào phân tích được thực trạng huy
động vốn của các Ngân hàng được nêu trong đề tài, qua đó hệ thống hoá được
những thuận lợi cũng như khó khăn của Hệ thống ngân hàng nói chung và các
Ngân hàng được lựa chọn phân tích trong từng bài viết nói riêng. Thông qua
đó đánh giá được những thành công và những hạn chế trong quá trình huy
động vốn của Ngân hàng trong thời gian qua để có những giải pháp cụ thể, có
tính chất thiết thực trong việc nâng cao huy động vốn. Tuy nhiên các đề tài
này chưa đi sâu vào việc phân tích các hình thức, phương pháp huy động vốn
đối với các khách hàng là tổ chức kinh tế, các cá nhân. Chính vì vậy, tác giả
đã mạnh dạn lựa chọn đề tài trên nhằm góp phần hoàn thiện công tác huy
động vốn. Hơn nữa, đề tài này được nghiên cứu lần đầu tiên tại Ngân hàng
TMCP Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình nên đây là công trình nghiên cứu
độc lập, không trùng lắp với bất kỳ tác giả nào khác.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm những mục đích cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
- Sử dụng mô hình, bảng biểu trên cơ sở các số liệu thu thập được để
phân tích và đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình


3


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Là các sản phẩm nghiệp vụ, hình thức huy động
vốn của Ngân hàng Thương mại cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi Ngân hàng
TMCP Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình.
Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 20112014, và đề ra mục tiêu, giải pháp cụ thể cho giai đoạn từ năm 2015-2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả đã áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các
phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích trên cơ sở số liệu thu thập được và
rút ra kết luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Trên cơ sở các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, luận
văn đã tiến hành nghiên cứu và sử dụng các kỹ thuật để phân tích, đánh giá
thực trạng của huy động vốn và khả năng mở rộng cũng như nâng cao hiệu
quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đại Dương- Chi nhánh
Thái Bình trong giai đoạn 2011-2014. Từ đó tìm ra các ưu nhược điểm và đề
xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm hoàn thiện công tác huy
động vốn tại ngân hàng này.
Bố cục của đề tài: ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại ngân hàng TMCP
Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn tại ngân
hàng TMCP Đại Dương- Chi nhánh Thái Bình


4


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
·

Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên

cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ
tài chính.
·

Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng

thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính”.
·

Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương

mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là
nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó

để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định
chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với
nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối
đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên của Ngân hàng
thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kỳ nào cũng bắt đầu từ hoạt động

5


của mình bằng việc huy động vốn. Đối tượng huy động của Ngân hàng
thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư. Nguồn
vốn quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng. Ngân hàng thương mại
thường sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn sau:
- Vốn tự có: Đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng thương
mại, trong thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả hoạt động
kinh doanh của bản thân Ngân hàng thương mại mang lại, nó đóng góp một
phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
- Nguồn tiền gửi: Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển
của ngân hàng, là cơ sở của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu xa
của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Khách hàng gửi tiền vào ngân
hàng với rất nhiều mục đích khác nhau hoặc để tiết kiệm hoặc để thanh toán,
tủy theo mục đích của khách hàng ngân hàng có các hình thức huy động như:
tiền gửi giao dịch, tiền gửi phi giao dịch:
+ Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay các lệnh rút

tiền của khách hàng. Đây là một trong những nguồn vốn biến động nhất, kỳ
hạn tiềm năng của tiền gửi giao dịch là ngắn nhất bởi vì nó có thể được rút ra
bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước. Tiền gửi giao dịch gồm tiền gửi
có thể phát hành séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi,…
+ Tiền gửi phi giao dịch là loại tiền được hình thành từ nguồn vốn của
những người muốn dành một khoản tiền cho những mục tiêu hay nhu cầu tài
chính được dự tính trước trong tương lai. Lãi suất của loại tiền gửi này cao
hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch.
- Huy động vốn thông qua việc phát hành kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
tiền gửi,..Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần
huy động, thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của Ngân hàng.
- Nguồn vay Ngân hàng Trung Ương, các tổ chức tín dụng khác.

6


Ngân hàng Trung Ương là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho
vay cuối cùng của các tổ chức tín dụng trong trường hợp họ không có đủ khả
năng thanh toán. Trong trường hợp này các ngân hàng thương mại vay tiền để
bù đắp thiếu hụt, đảm bảo khả năng thanh khoản trong trường hợp cần thiết.
Việc huy động vốn một các hợp lý, với chi phí và cơ cấu phù hợp sẽ góp phần
không nhỏ vào hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng.
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ
của Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các
nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu
nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lý nguồn
vốn phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược
đối với mỗi Ngân hàng.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của các

ngân hàng trung gian nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Đây là
các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của
ngân hàng. Thành phần Tài sản Có của ngân hàng bao gồm:
-

Dự trữ ( Reserves)

-

Cho vay ( Loans)

-

Đầu tư (Investment)

-

Tài sản Có khác ( Other Assets)

Dự trữ:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần
phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có sự
tin tưởng từ phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán:
đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy các ngân hàng cần
phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. Ngân hàng nhà nước
được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ nhất định, việc
trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc do chính phủ quy định. Dự trữ bao gồm:

7



+ Dự trữ sơ cấp: bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước,
tại các ngân hàng khác.
+ Dự trữ thứ cấp: là dự trữ không tồn tại bằng tiền mà bằng chứng
khoán, nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền
một cách thuận lợi, bao gồm: Tín phiếu kho bạc, Hối phiếu đã chấp nhận, các
giấy nợ ngắn hạn khác.
Cho vay:
Ngoài phần dự trữ, số nguồn vốn còn lại sẽ được ngân hàng sử dụng để
cho vay. Các hình thức cho vay chủ yếu:
+ Cho vay ứng trước: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung
cấp cho người đi vay một khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Người
đi vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là hình thức cho vay trong đó ngân
hàng và khách hàng thỏa thuận trước số tiền tối đa( gọi là hạn mức tín dụng)
mà khách hàng được vay từ ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định.
Sau khi đã thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách hàng có thể vay làm nhiều
lần trong khoảng thời gian thỏa thuận mà không phải làm đơn xin vay với
điều kiện tổng số tiền của các lần vay không vượt quá hạn mức tín dụng. Hình
thức cho vay này thường được áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn
thường xuyên
+ Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương
mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền
ghi trên thương phiếu. Khi đến hạn trả tiền thì ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số
tiền ghi trên thương phiếu ở người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân
hàng chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.
+ Cho thuê tài chính: Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các
công ty cho thuê tài chính dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu
để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho thuê


8


trong một thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho công ty
cho thuê tài chính theo định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng thuê, người đi thuê
được quyền mua hoặc kéo dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị cho bên
cho thuê.
+ Bảo lãnh ngân hàng: Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng đứng ra cam
kết bằng văn bản rằng sẽ thực hiện một nghĩa vụ thay cho người được bảo
lãnh nếu người này không thực hiện được nghĩa vụ đó. Có nhiều hình thức
bảo lãnh như bảo lãnh để tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh hoàn trả tiền ứng trước,…
Đầu tư:
Là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại dùng vốn của mình mua các
chứng khoán( các chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty
lớn- luật của Mỹ không cho phép ngân hàng được nắm giữ cổ phiếu) hoặc đầu
tư theo dự án.
Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng còn cho phép các ngân hàng
được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh
nghiệp hay của các tổ chức tín dụng khác.
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu
nhập, mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng
sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro
sẽ rất thấp.
Tài sản có khác:
Đó là những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc, trang thiết bị
dùng cho hoạt động do ngân hàng sở hữu
1.1.2.3. Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian tài chính khác
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử

dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian
cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian

9


bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con
nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thỏa mãn nhu cầu khách hàng về
dịch vụ mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số
lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian
gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau như:
- Dịch vụ thu hộ, chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng.
-Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này tới tài khoản khác ở cùng một
ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau.
- Dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính.
- Dịch vụ giữ hộ các chứng từ, tài sản quý của khách hàng
- Dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp khi có nhu cầu,…
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát
triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện
nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho Ngân hàng những
khoản thu nhập khá quan trọng. Dịch vụ ngân hàng càng phát triển, thể hiện
xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của các
ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch
vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, thực hiện
các dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba
dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ nhau , thúc đẩy nhau phát
triển tạo uy tín cho ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ sử dụng
vốn, cho vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động

vào, đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt
vai trò trung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt
động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của
các Ngân hàng thương mại.

10


1.2. Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.1. Vốn và các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng không
chỉ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Vậy;
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền mà
ngân hàng tạo lập và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu
cầu khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp
cho ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan
trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
nói riêng cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
Tuy nhiên, nguồn vốn của Ngân hàng thương mại được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại
vốn khác.
* Vốn chủ sở hữu: có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng thương mại, nó thực hiện một số chức năng không thể
thay thế đó là: cung cấp nguồn lực ban đầu cho ngân hàng có thể duy trì hoạt
động khi ngân hàng mới thành lập, là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến
giao dịch với ngân hàng, phòng ngừa rủi ro kinh doanh cho ngân hàng. Vốn
chủ sở hữu bao gồm:

Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều
kiện thành lập ngân hàng của pháp luật. Nguồn vốn này là lượng vốn tối thiểu
mà ngân hàng cần phải có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động
kinh doanh. Các loại hình ngân hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành
vốn ban đầu khác nhau: Đối với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình
thành ban đầu là do ngân sách nhà nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì

11


là do các bên liên doanh đóng góp, nếu là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông
đóng góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu của ngân hàng nếu
là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức
khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của ngân hàng, bao gồm:
Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân
hàng có thể chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng
vốn tích lũy từ thu nhập theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời
gian tới cũng như cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm,…
để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp
ứng nhu cầu gia tăng vốn do Ngân hàng nhà nước quy định. Đặc điểm của
hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có
được lượng vốn chủ sở hữu lớn và lúc cần thiết.
* Vốn điều lệ là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản
điều lệ của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi ngân hàng thương mại
được thành lập. Vốn điều lệ có thể được điều chỉnh tăng lên trong quá trình

hoạt động của ngân hàng. Quy mô vốn điều lệ của ngân hàng thương mại lớn
hay nhỏ là tùy thuộc vào quy mô của ngân hàng với số lượng chi nhánh nhiều
hay ít và địa bàn hoạt động là thành thị hay nông thôn và không được nhỏ hơn
vốn pháp định quy định cho ngân hàng đó. Vốn điều lệ sử dụng chủ yếu vào
mục đích sử dụng lâu dài như mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị ban đầu
cần thiết cho hoạt động của ngân hàng, góp vốn liên doanh.
* Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào
những mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng.
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của của ngân hàng. Nguồn hình thành
các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:

12


·

Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.

·

Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong

hoat động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được
trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra
·

Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,

quỹ khấu hao, tài sản cố định,…

Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các Ngân hàng thương
mại trích lập từ thu nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc
gia) theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần
thiết cho hoạt động Ngân hàng, vì trong nền kinh tế thị trường không thể
tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể
trích các quỹ để bù đắp.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển
đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân
hàng( vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có
thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
* Nguồn huy động:
Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng
nhưng lại là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của
ngân hàng, thường thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh
lệch nhau một lượng nhất định. Ngân hàng sẽ sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi
này vào mục đích cho vay kiếm lời. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ
yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Vốn huy
động bao gồm:
·

Tiền gửi giao dịch:

Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào nhằm mục đích giao dịch thanh
toán, chi trả các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi phí
phát sinh trong kinh doanh một cách an toàn, thuận tiện. Đặc tính cơ bản của
tiền gửi giao dịch lãi suất thấp và có tính không ổn định

13



·

Tiền gửi phi giao dịch:

Bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, chúng có tính ổn định cao,
người gửi được hưởng lãi suất cao nhưng không được phát hành séc.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại có có thể huy động vốn thông
qua phát hành các giấy tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái
phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái
phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn. Các loại phiếu nợ trên được Ngân hàng
phát hành từng đợt với mục đích, số lượng cụ thể và chỉ phát hành khi được
sự cho phép của Ngân hàng Trung Ương. Đặc điểm của các lọa giấy nợ này là
chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm, có tính
ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác.
* Nguồn đi vay:
Là nguồn vốn mà ngân hàng vay mượn thêm trong trường hợp khả
năng huy động của ngân hàng bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho
khách hàng tăng cao. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan hệ vay
mượn của ngân hàng thương mại với ngân hàng trung ương, với các tổ chức
tín dụng khác hoặc giữa các ngân hàng thương mại với nhau.
Ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương khi khả năng
chi trả của ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các
Ngân hàng thương mại vay vốn của Ngân hàng trung ương dưới hình thức
chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán, bổ sung vốn
dự trữ… Để được vay chiết khấu các Ngân hàng thương mại phải nộp cho
Ngân hàng trung ương các giấy tờ có giá có thời hạn còn lại là ngắn hạn xin
chiết khấu như thương phiếu, chứng khoán của Chính phủ, chúng thường là
các loại giấy tờ mà chủ thể phát hành ra chúng có uy tín cao. Lãi suất chiết
khấu do Ngân hàng trung ương quy định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách

tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước điều hành việc
vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các
điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.

14


Để đảm bảo cho việc thanh khoản của mình, các ngân hàng thiếu hụt
dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời, các ngân hàng thường vay mượn của
nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các
ngân hàng đang có số dư tiền gửi vượt yêu cầu chưa sử dụng sẽ sẵn sàng cho
các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Quy trình vay mượn
giữa các ngân hàng rất đơn giản, ngân hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp
với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (và có thể là ngân
hàng Nhà nước). Khoản vay có thể có hoặc không cần đảm bảo, dựa trên cơ
sở uy tín của ngân hàng đi vay hoặc mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau
Ngoài các hình thức trên ngân hàng có thể vay mượn bằng cách phát
hành các công cụ nợ như: Kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn.
Các khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn
tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn, là giải pháp tình
thế cho ngân hàng trong hoàn cảnh khó khăn.
1.2.1.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động thông qua
các nghiệp vụ chủ yếu như: nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ phát hành giấy tờ
có gia và các nghiệp vụ trung gian khác. Vốn huy động là nguồn vốn mà
ngân hàng có thể chủ động tìm kiếm hoặc bị động trong việc tạo nguồn.
Vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh
doanh của ngân hàng, thường ở mức 70-80%, đây chính là nguồn chủ yếu đáp
ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng và cũng là nguồn mang lại thu nhập chủ
yếu cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thông qua các công cụ tài chính với

mức lãi suất khác nhau, thời hạn hoàn trả khác nhau để có thể huy động tới
mức tối đa nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng. Các Ngân hàng
thương mại phải làm sao thu hút được nhiều tiền của người tiêu dùng và các
doanh nghiệp dù ngân hàng phải trả lãi cho loại tiền gửi này song việc thu hút
nhanh và biết sử dụng vẫn mang lại nguồn lợi lớn cho ngân hàng.

15


Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và phải có trách nhiệm
hoàn trả cả gốc lẫn lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn để
chi trả trước hạn. Vì vậy ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó
vào hoạt động kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả
năng thanh toán cho ngân hàng.
- Sự cần thiết của vốn huy động trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:
Trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm
một phần rất nhỏ, còn đại bộ phận là nguồn vốn huy động từ các đối tượng
khác nhau. Phải có vốn huy động ngân hàng mới có thể hoạt động bình
thường và phát triển bởi chức năng chủ yếu của nguồn vốn chủa sở hữu là bảo
vệ an toàn và điều chỉnh hoạt động ngân hàng. Như vậy, trong quá trình hoạt
động kinh doanh của ngân hàng dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu để đưa ra các
quyết định kinh tế cho phù hợp với các quy định của pháp luật. Còn nguồn
vốn được sử dụng vào các hoạt động kinh doanh sinh lời của một ngân hàng
chính là từ vốn huy động. Nguồn vốn huy động càng nhiều, ngân hàng càng
có khả năng cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy sự tăng
trưởng cũng như làm giàu cho ngân hàng. Như vậy chỉ với vốn huy động
ngân hàng mới có thể làm tốt chức năng trung gian tín dụng, chức năng quyết
định sự duy trì và phát triển của ngân hàng, đồng thời là cơ sở để thực hiện
các chức năng còn lại.

- Ý nghĩa của vốn huy động trong hoạt động ngân hàng:
Trước hết cần khẳng định rằng vốn huy động sẽ quyết định tới khả
năng mở rộng quy mô và phạm vi kinh doanh, kết quả kinh doanh của Ngân
hàng thương mại. Một ngân hàng thành công trong công tác huy động vốn sẽ
có tiềm lực tài chính để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở thêm nhiều điểm
giao dịch với khách hàng, nghiên cứu và đưa ra thị trường những sản phẩm
mới bên cạnh những sản phẩm truyền thống,…Nhờ vậy ngân hàng có thể thu

16


hút thêm nhiều khách hàng. Điều này có tác động tích cực đến kết quả kinh
doanh cuối kỳ của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn huy động cũng đảm bảo khả
năng thanh toán của ngân hàng. Nguồn vốn dồi dào giúp các ngân hàng lúc
nào cũng có thể phục vụ nhu cầu thanh toán chi trả cho khách hàng, khiến
khách hàng yên tâm giao dịch, tin tưởng vào ngân hàng. Từ đó, uy tín của
ngân hàng trên thị trường cũng được nâng cao, càng có điều kiện để mở rộng
hoạt động và nâng cao vị thế.
Do nguồn vốn huy động là nguồn vốn cơ bản và quan trọng để ngân
hàng dùng vào hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình nên để đảm bảo đủ vốn
cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả đem lại nhiều lợi nhuận nhất, các ngân
hàng thương mại không ngừng mở rộng các hình thức huy động vốn nhưng về
cơ bản các ngân hàng thường sử dụng huy động vốn qua tài khoản tiền gửi,
huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá và huy động thông qua các
khoản đi vay.
* Huy động vốn từ tiền gửi
Tiền gửi của ngân hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó ngân hàng huy động tiền của doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Để gia

tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất
lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau do đó cũng có nhiều loại tiền gửi khác nhau.
- Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn:
Tiền gửi không kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào
ngân hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng đầy
đủ yêu cầu này của người gửi tiền. Đây là tiền của cá nhân, doanh nghiệp gửi
vào ngân hàng với mục đích chính là để hưởng dịch vụ thanh toán của ngân
hàng. Trong phạm vi số dư cho phép các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp, cá

17


nhân đều được ngân hàng thực hiện nhập vào tài khoản thanh toán theo yêu
cầu. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc
nào. Do vậy nó là nguồn vốn biến động nhiều nhất mà ngân hàng khó có thể
dự đoán về quy mô tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng có thể huy động được,
đồng thời kỳ hạn tiềm năng của loại tiền này cũng là ngắn nhất.
- Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng có thỏa thuận thời gian rút tiền và khách hàng không được phép
rút tiền trước thời hạn. Mục đích chính của người gửi tiền là sinh lời và ngân
hàng có thể chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này vì tính thời hạn của
nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thỏa
thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét mức độ an toàn của
ngân hàng cũng như quan hệ cung cầu về vốn tại thời điểm đó. Tuy nhiên, để
tạo tính lỏng cho các loại tiền gửi có kỳ hạn mà từ đó hấp dẫn khách hàng,
ngân hàng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước kỳ hạn, tùy theo chính
sách của mỗi ngân hàng mà có hình thức trả lãi phù hợp.
- Tiền gửi tiết kiệm:

Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội
với mục đích tích lũy và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm chia thành hai loại là
tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không kỳ hạn.
·

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:

Đây là khoản tiền nhàn rỗi mà người dân tạm thời gửi vào ngân hàng
do không có kế hoạch chi tiêu cụ thể nên họ có thể rút tiền vào bất cứ thời
điểm nào. Tuy nó là tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó không phải là tiền gửi
thanh toán nên người gửi tiền không được hưởng các tiện ích thanh toán.
Nguồn vốn này cũng thường xuyên biến động nên ngân hàng cũng phải chủ
động trong việc chi trả cho khách hàng. Do vậy lãi suất của loại tiền gửi
này thường thấp.

18


·

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:

Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, người gửi tiết kiệm có kỳ hạn
chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Mục đích gửi tiền của họ là an toàn và hưởng
lãi vì khách hàng đã xác định trước và có kế hoạch chi tiêu cụ thể đối với
khoản tiền này. Khoản tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao bởi vì
ngân hàng có thể chủ động sử dụng nó cho hoạt động kinh doanh của mình
đặc biệt là để cho vay trung dài hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là sản phẩm huy động truyền thống với các hình thức
phong phú và kỳ hạn đa dạng nên tiền gửi tiết kiệm rất phù hợp với dân cư, đáp

ứng được nhu cầu người gửi, khả năng huy động của ngân hàng từ nguồn vốn
này là rất tiềm năng. Tuy nhiên ngân hàng cần chú ý đến chính sách lãi suất huy
động, nghiên cứu để đưa ra các hình thức huy động hấp dẫn, phù hợp với tính đa
dạng phong phú và phức tạp của đối tượng dân cư. Đặc biệt cần có cơ chế trả
lãi hợp lý đối với loại tiết kiệm không kỳ hạn, cơ chế đảm bảo bằng giá trị
vàng, hay ngoại tệ mạnh cho các loại tiết kiệm nội tệ, nhằm đảm bảo quyền lợi
cho người gửi, tạo niềm tin để khuyến khích dân cư gửi vào ngân hàng ngày
càng lớn.
* Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Các giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy
động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho
một mục đích nào đó. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cần thiết của việc
huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.
·

Chứng chỉ tiền gửi( CDs):

CDs là công cụ vay nợ cho Ngân hàng thương mại bán cho người gửi
tiền với lãi suất nhất định và được lưu thông khi chưa đến hạn thanh toán.
Người sở hữu CDs có thể được hoàn trả hết toàn bộ số tiền gửi cộng với lãi
hoặc có thể bán CDs trên thị trường thứ cấp. CDs là công cụ mang lãi suất, lãi
suất của nó được tính toán trên cơ sở 360 ngày/ 1 năm và được trả theo mệnh
giá và thời hạn.

19


Lãi suất của CDs được tính dựa trên lãi suất của thị trường tiền tệ, tình
trạng tài chính của ngân hàng phát hành ra nó và thời hạn thanh toán CDs.
Mức lãi suất của CDs do ngân hàng có chất lượng cao phát hành thường cao

hơn lãi suất của tín phiếu kho bạc, sự chênh lệch này phản ánh mức độ chênh
lệch và rủi ro của từng ngân hàng. Sự phát triển của CDs cùng với sự nhạy
cảm của lãi suất giúp các Ngân hàng thương mại chủ động trong việc huy
động vốn và thích ứng với môi trường cạnh tranh mới.
·

Trái phiếu:

Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát
hành đối với người sở hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm lãi trong một
thời hạn nhất định. Thông qua phát hành trái phiếu, ngân hàng có thể thu hút
được nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay mở rộng sản xuất kinh doanh và
đầu tư. Việc phát hành trái phiếu sẽ thu hút được lượng tiền ổn định trong dài
hạn do vậy phát hành trái phiếu chỉ được thực hiện khi ngân hàng thực sự cần
một lượng vốn lớn hoặc khi ngân hàng đã có kế hoạch sử dụng vốn để cho vay
trung dài hạn.
·

Kỳ phiếu:

Kỳ phiếu là chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn, có lãi
suất tương ứng với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi trước hoặc sau.
Đây là giấy tờ có giá ngắn hạn nghĩa là ngân hàng sẽ có được nguồn vốn chủ
động với tính chất ổn định cao, nhưng chi phí mà ngân hàng bỏ ra cũng lớn.
Do vậy ngân hàng phải có chính sách huy động vốn linh hoạt để đảm bảo
nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
* Huy động vốn qua đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với ngân
hàng trung ương, hoặc giữa các Ngân hàng thương mại với nhau trên thị
trường liên ngân hàng, hay với các tổ chức tài chính khác.


20


- Vay Ngân hàng trung ương:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
Ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ( thiếu hụt dự trữ
bắt buộc, dự trữ thanh toán) Ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng
Nhà nước. Hình thức cho vay của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là tái chiết
khấu các thương phiếu hoặc tái cấp vốn. Trong điều kiện của Việt Nam chưa
có thương phiếu Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng thương mại vay dưới
hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
- Vay các tổ chức khác:
Đây là nguồn các Ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau và vay
của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng
đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy
động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để
tìm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu
cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vốn vay
mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách
và trong nhiều trường hợp nó có thể bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc
được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc nhà nước.
1.2.2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn và sử dụng vốn
Nguồn vốn và sử dụng vốn đó là hai quá trình hoạt động của Ngân
hàng. Công tác cân đối vốn của ngân hàng là một chiến lược huy động vốn
đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều
kiện cho các Ngân hàng thương mại đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa và
tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài hòa giữa huy động vốn và sử dụng
vốn chính là công tác cân đối vốn của ngân hàng. Công tác cân đối vốn là hết

sức quan trọng và cần thiết đối với bất kỳ ngân hàng nào.

21


1.2.2.1. Các hoạt động cân đối vốn
Cân đối vốn thực hiện định kỳ theo những khoảng thời gian ngắn hay
dài phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động, môi trường kinh doanh, cơ chế điều
hành của ngân hàng.
Thông thường các ngân hàng lập bảng cân đối theo tháng hoặc theo quý
nhằm đánh giá tính hợp lý trong cân đối vốn của toàn hệ thống thời kỳ đó.Từ đó
có hệ thống, biện pháp chỉ đạo các chi nhánh. Tại các chi nhánh trực thuộc thì cân
đối vốn được thực hiện theo ngày làm việc, vì các chi nhánh phải tiếp xúc, đối mặt
với những nghiệp vụ kinh doanh và các yếu tố cạnh tranh hàng ngày.
Bảng cân đối vốn được thực hiện dựa trên số liệu kế toán hàng ngày, từ
đó lập các bảng tổng hợp, chi tiết về biến động của nguồn vốn huy động và sử
dụng nguồn vốn. Căn cứ vào số liệu kế toán, bảng cân đối được chia làm hai
phần: Nguồn vốn và sử dụng vốn.
Nguyên tắc chung từ yêu cầu sử dụng tài sản có để quyết định quy mô,
cơ cấu, định hướng phát triển của ngân hàng mà bảng cân đối được thực hiện
theo các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung cân đối vốn thường được thực hiện
theo kỳ hạn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng, ngoài ra còn
thực hiện cân đối theo loại tiền( nội tệ và ngoại tệ).
1.2.2.2. Cân đối theo kỳ hạn
Do mỗi loại nguồn vốn có đặc điểm riêng nên khi cho vay, đầu tư phải
có sự tương ứng về kỳ hạn. Tức là nguồn vốn nào thì cho vay loại hình ấy:
- Nguồn vốn ngắn hay đáp ứng cho nhu cầu tín dụng ngắn hạn
- Nguồn vốn trung, dài hạn hay đáp ứng cho nhu cầu tín dụng trung, dài hạn.
Thực hiện nguyên tắc này chính là đảm bảo an toàn cũng như đảm bảo
tiền lãi cho vay, đầu tư bù đắp chi phí hoạt động và chi phí khác.

Để phân tích cân đối vốn theo kỳ hạn, người ta lập ra các bảng cân đối
theo các thời kỳ chung cho cả nội tệ và ngoại tệ như:
- Bảng cân đối số dư huy động nguồn vốn ngắn hạn và số dư cho vay
ngắn hạn

22


- Bảng cân đối số dư huy động nguồn vốn trung, dài hạn và số dư cho
vay trung dài hạn
Qua bảng cân đối có thể tính được hệ số sử dụng nguồn vốn, tìm ra rủi
ro tiềm ẩn trong hoạt động huy động nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Qua
đó có thể đưa ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Tuy nhiên ngân hàng có thể đưa ra một phần nguồn vốn ngắn hạn để
cho vay trung và dài hạn, hay sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn
hạn. Song đó chỉ là giải pháp tạm thời để giải quyết sự mất cân đối về kỳ hạn
giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Về lâu dài ngân hàng cần đảm bảo sự cân
đối về cơ cầu nguồn vốn và sử dụng vốn nhằm đề phòng rủi ro có thể xảy ra.
1.2.2.3. Cân đối theo loại tiền
Trong các hoạt động kinh doanh, ngân hàng vừa huy động và cho vay
cả bằng nội tệ và ngoại tệ ( chủ yếu là USD) để đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng. Việc sử dụng và huy động vốn bằng ngoại tệ có liên quan đến rủi
ro về tỷ giá cho nên tiến hành cân đối theo loại tiền nhằm giúp ngân hàng loại
bỏ được rủi ro này. Vì vậy, Ngân hàng căn cứ nhu cầu vay ngoại tệ của khách
hàng cũng như khả năng đảm bảo vốn thanh toán của ngân hàng bằng ngoại tệ
mà có quyết định về việc tăng huy động vốn bằng ngoại tệ hay không?
1.2.2.4. Đảm bảo khả năng thanh toán
Để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng chính là việc các ngân
hàng phải giữ lại một phần dự trữ dưới các hình thức các tài sản có tính thanh
khoản cao để đáp ứng được nhu cầu dự trữ bắt buộc và thực hiện các cam kết

tài chính như là ngân hàng phải thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng và của
ngân hàng như:
- Nhu cầu chi trả của ngân hàng (gọi là luồng ra) được đo bằng sự gia
tăng của tiền gửi đến hạn phải trả, các hợp đồng đã ký phải thực hiện, lãi trả
cho các khoản nợ, chi phí phải trả khi cung ứng cho các sản phẩm dịch vụ.

23


- Nguồn để đáp ứng cho nhu cầu thanh khoản ( gọi là luồng vào) bao
gồm các khoản tiền gửi, vay huy động được, tín dụng đến hạn hoàn trả, lãi tín
dụng chứng khoán có thể bán, các khoản vay mượn có thể nhận được,..
Nếu luồng vào nhỏ hơn luồng ra thì ngân hàng đang trong tình trạng
thâm hụt thanh khoản, hay không đảm bảo khả năng thanh toán.
Nếu luồng vào lớn hơn luồng ra thì ngân hàng đang trong tình trạng
thặng dư thanh khoản
Như vậy các ngân hàng luôn phải đối mặt và giải quyết một trong hai
tình trạng thanh khoản thặng dư hay là thâm hụt.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động mở rộng huy động vốn của
Ngân hàng thương mại.
1.2.3.1. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động
Quy mô vốn ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số cho vay và hoạt động
đầu tư. Nếu lượng vốn huy động không đủ đáp ứng cho nhu cầu vay vốn của
khách hàng hay nhu cầu đầu tư của ngân hàng, có nghĩa là ngân hàng đã bỏ
qua nhiều cơ hội đầu tư và cho vay hay nói cách khác ngân hàng đã bỏ qua
một phần thu nhập. Nếu ngân hàng sử dụng vốn chủ sở hữu để đầu tư cho vay
thì rất đắt đỏ, nguyên nhân là do chi phí trả cổ tức thường cao hơn nên đẩy chi
phí vốn lên cao hơn. Mặt khác nếu như nhu cầu sử dụng vốn nhỏ hơn huy
động vốn thì xảy ra tình trạng ứ đọng vốn huy động làm tăng chi phí của ngân
hàng. Như vậy việc quản lý quy mô vốn ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả huy

động vốn và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng vốn huy động
Tốc độ tăng trưởng vốn huy động = (




độ
độ

ỳ á


á
ướ

− 1)x100%

Đây là chỉ tiêu phản ánh mở rộng về quy mô của vốn huy động đồng
thời phản ánh sự thay đổi của nguồn vốn. Trong trường hợp tốc độ tăng
trưởng vốn > 0 thì số vốn ngân hàng huy động được tăng và ngược lại nếu < 0

24


thì số vốn ngân hàng huy động được giảm. Vốn huy động của ngân hàng mà
gia tăng với những tỷ lệ xấp xỉ nhau trong nhiều năm thể hiện một sự tăng
trưởng vốn ổn định.
Ngoài ra để đánh giá mức độ huy động vốn, các Ngân hàng thương mại
thường dùng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động:

Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch =


ế



độ

đượ



độ



x100%

Chỉ tiêu này cho biết quy mô vốn huy động được, nếu tỷ lệ hoàn thành
kế hoạch lớn hơn 100% tức là lượng vốn huy động thực tế hớn hơn kế hoạch.
Khi đó ngân hàng phải cố gắng sử dụng vốn hợp lý số vốn thừa theo kế
hoạch, nếu không chi phí sẽ tăng do không sinh lời mà vẫn phải trả lãi và các
chi phí hoạt động khác. Ngược lại, nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 100% điều đó nghĩa
là, ngân hàng sẽ phải huy động từ các nguồn vốn khác để bổ sung lượng vốn
huy động từ dân cư bị thiếu hụt.
1.2.3.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động
* Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn



Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn =

độ







x100%

Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng vốn huy động trong tổng nguồn vốn
tương quan đến vốn chủ sở hữu. Phản ánh khả năng huy động vốn và quy mô
thu hút vốn từ nền kinh tế. Cơ cấu nguồn vốn được tính theo đối tượng huy
động, kỳ hạn huy động, loại tiền huy động,..Trong đó cơ cấu huy động vốn
phân theo kỳ hạn đóng vai trò rất quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc sử dụng vốn.
* Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn
Tỷ lệ vốn huy động không kỳ hạn =
Tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn =










ô





ỳ ạ



độ

ó ỳ ạ


độ

x100%

x100%

Vốn huy động có kỳ hạn= Tiền gửi có kỳ hạn+ Tiền vay có kỳ hạn

25


×