Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

1.Tường thuật lại những tranh luận văn học xung quanh tập truyện Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu? Quan điểm của anh chị? 2.Kể tên một số công trình nghiên cứu phê bình văn học nổi bật từ năm 1986 đến năm 2000? Trình bày thu nhận của anh chị về một công trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.32 KB, 13 trang )

Đề bài:
1. Tường thuật lại những tranh luận văn học xung quanh tập truyện Bóng
đè của Đỗ Hoàng Diệu? Quan điểm của anh chị?
2. Kể tên một số công trình nghiên cứu phê bình văn học nổi bật từ năm
1986 đến năm 2000? Trình bày thu nhận của anh chị về một công trình tâm đắc?
Bài làm:
Câu 1:
Bóng đè – ngược dòng để thoát xác
A. Sau thời kỳ đổi mới, cùng với sự khẳng định vững vàng của những cây
bút như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Thiều,… là sự xuất
hiện của hàng loạt các cây bút trẻ đầy triển vọng, với những phong cách hết sức
độc đáo và có nhiều phần táo bạo: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan
Thị Vàng Anh,… Trong đó, cái tên Đỗ Hoàng Diệu cũng được nhắc đến như
một “hiện tượng” được đông đảo công chúng văn học quan tâm, chú ý.
Ngay từ khi mới “trình làng” tác phẩm đầu tay của mình, Diệu đã vô tình
tạo ra một cú sốc phản ứng trong dư luận. Bóng đè (2005) vừa “cất tiếng khóc
chào đời” trên tờ Hợp Lưu cũng là lúc Diệu lộ diện, khoác lên mình cái danh
“nhà văn” mà không ít người cho là khiên cưỡng, khập khiễng. Bóng đè thực sự
đã để lại nhiều tranh luận khen chê trái chiều, trở thành một hiện tượng được
bàn tán, mổ xẻ trên nhiều phương tiện báo chí, truyền thông. Đó cũng là thành
công của một người viết, khi cái tên Bóng đè không chỉ được nhắc đến, tham
luận trong giới bình phẩm, nghiên cứu văn chương mà còn xuất hiện trong nhiều
diễn đàn, hội nhóm học sinh- sinh viên. Bóng đè, một cái tên, một hiện tượng,
thực sự, không ít người cầm bút ngóng đợi và ao ước, tận dụng để tìm kiếm cho
mình một danh xưng đúng “mốt” thời thượng!

1


Ở hướng khen ngợi, đánh giá tốt sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu có thể gặp
những tên tuổi như: Dương Tường, Nguyên Ngọc, Nguyễn Việt Hà, Phạm Xuân


Nguyên, Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, Phạm Toàn (Châu Diên), Đông La, Phạm
Ngọc Tiến,… Theo nhận định của Phạm Xuân Nguyên “… truyện ngắn Bóng
đè của Đỗ Hoàng Diệu đang gây hai luồng trái ngược nhau. Tôi phải nói ngay,
với tôi, đây là một truyện ngắn hay, hay cả ở cách viết và nội dung. Trong tâm
thế, tâm thức giải mã lịch sử và truyền thống Việt, một xu hướng đã được dấy
lên từ thời văn học đổi mới, Đỗ Hoàng Diệu đã tạo được một hình tượng “bóng
đè” đầy ám ảnh và dằn vặt” (Tác phẩm hay: phải hết mình - hay là điều kiện cần
và đủ để có tác phẩm hay). Phạm Toàn cũng đưa ra nhận định của mình: “truyện
ngắn Ðỗ Hoàng Diệu có cách biểu đạt phóng túng hơn, gần gụi hơn với cách đọc
của lớp bạn đọc trẻ. Người ta nhắc nhiều đến lối sử dụng ẩn dụ tình dục để biểu
đạt những tâm trạng mang những nội dung xã hội” (Thử phân giải một thành
công nghệ thuật qua tập truyện ngắn Bóng đè). Nhà văn Nguyên Ngọc luôn
nồng nhiệt khen ngợi Bóng đè: trong vài năm trở lại đây, ông có tâm trạng bi
quan về văn chương Việt Nam. Nhưng với Bóng đè, ông nhận ra mình đã lầm.
Đỗ Hoàng Diệu là một bất ngờ, và sự ra đời một cuốn sách như Bóng đè đánh
dấu mốc khởi đầu của một thời kì mới.
Nguyễn Mậu Hùng Kiệt lại đặc biệt có thiện cảm với Bóng đè: “công tâm
mà nói, tôi thấy chị đã dám dấn thân “lặn ngụp trong vực thẳm rẩy nóng của
chính mình và phát ra tiếng kêu khát khao hạnh phúc”. Dấn thân để kiếm tìm
cái “tôi” đầy nữ tính trong những ràng buộc định mệnh. Dấn thân để khám phá
chiếc bóng của đời mình - một chiếc bóng thân phận:“chúng cũng sống động
như thân thể tôi khát thèm vực thẳm”. Dấn thân để tận hưởng thú đau thương
của cõi người vốn nhiều hệ luỵ: “chúng tôi không biết chọn lựa vì cơ thể chúng
tôi đòi hỏi những nhục cảm mà bóng tối ban phát”. Dấn thân để hơn một lần
được giáp mặt quá khứ phi phàm, để thức dậy chiếc bóng của tổ tông... Đỗ
Hoàng Diệu dấn thân trong ý thức thân phận nên nhân vật của chị luôn hoài
nghi: “Phải chăng tôi đồng loã, phải chăng tôi đã ưỡn người lên chờ đón? Phải
2



chăng vòng quay đã được sắp đặt... Tôi là ai, từ đâu đến?”. Và dấn thân trong ý
thức tội lỗi: “Tôi biết như thế là tội lỗi, nhưng rồi lại tự nhủ đó là một thứ tội tổ
tông mà chẳng ai có quyền chê trách”...” (Người đàn bà bị bóng đè có bàn tay
thanh cao, thotre.vn, 20/8/2006).
Nhà Văn Ngô Tự Lập tỏ ra khá ưu ái với Đỗ Hoàng Diệu: “ Khách quan
mà nói, một yếu tố quan trọng làm nên tên tuổi Đỗ Hoàng Diệu hôm nay là đề
tài. Và không phải truyện nào của Diệu cũng hay. Nhưng không vì thế mà có thể
phủ nhận tài năng của cô. Hơn nữa, tình dục hoàn toàn không phải là đề tài
“ngon ăn” như nhiều người thường nghĩ. Buộc người đọc phải quan tâm, đó là
thành công của Diệu.”
Tuy nhiên, không ít ý kiến phủ nhận những cách tân độc đáo mà Bóng đè
mang lại, mặc dù đã được những tên tuổi gạo cội công nhận và nâng đỡ. Một
câu chuyện văn chương diễn ra, đầy bất ngờ và thú vị.
Đặc biệt khiến người viết chú ý hơn cả là cuộc tranh luận giữa nữ nhà văn
hải ngoại Thuận và NNC Phạm Xuân Nguyên trên trang bình luận talawas tháng
12 năm 2005. Chỉ với ba bài viết phản biện – phản hồi (Ôi mắt em là ánh nước
hồ thu, Nói với Thuận, Dàn đồng ca) Bóng đè thực sự đã trở thành một “miếng
mồi ngon” để đua khảo, tranh biện; một sân khấu vô hình để những tên tuổi xuất
hiện và diễn thuyết cho chính bản thân mình. Sau sự xuất hiện của bài luận Tác
phẩm hay: phải hết mình - hay là điều kiện cần và đủ để có tác phẩm hay –
Phạm Xuân Nguyên, Thuận phản biện bằng Ôi mắt em là ánh nước hồ thu với
giọng điệu có phần giễu nhại. Bằng cách liên tưởng đến phương pháp dạy- học bình văn hiện hành tại Việt Nam, Thuận không tiếc lời cho rằng cách nói của
Phạm Xuân Nguyên chỉ mang tính khuôn mẫu, “diễn nôm” khi Bóng đè còn tỏ
ra khá non trẻ về cách sử dụng từ, phép so sánh, phép ẩn dụ,… Phản hồi lại
Thuận, Phạm Xuân Nguyên viết Nói với Thuận khá ngắn gọn nhưng đầy ẩn ý
châm chọc. Thay vì bàn nhiều đến Bóng đè, nhà nghiên cứu họ Phạm biện hộ
cho bản thân mình như một lẽ dĩ ngẫu. Dàn đồng ca của Thuận khép lại cuộc
đối thoại không tìm được tiếng nói chung bằng việc “ra mặt”, lên tiếng thay cho
3



tác phẩm của chính mình, ám chỉ giễu một nền văn chương già nua và thiếu sáng
tạo tại Việt Nam. Như vậy, vô hình chung, Bóng đè trở thành cái cớ để quyền tự
do ngôn luận được vận hành, để những màn PR trá hình được phát huy.
Những tranh luận xoay quanh Bóng đè thực sự đã tạo được một nút thắt vô
hình đẩy những cuộc khảo biện trở thành cao trào. Những cuộc đối thoại, tọa
đàm được diễn ra với sự góp mặt của nhiều nhà văn, nhà lý luận – phê bình, học
giả có uy tín. Dĩ nhiên, không thể không có sự hồi hộp đợi chờ những điều thú
vị sắp sửa diễn ra sau cuộc “hội ngộ” đó của nhiều độc giả quan tâm. Có thể kể
đến cuộc đối thoại chiều 27/09/2005 tại quán cà phê sách Intello số 59 Văn
Miếu. Mặc dù trời mưa to nhưng tại tầng 3 của quán không còn một chỗ trống.
Các đại diện của nhiều cơ quan báo chí Trung Ương và Hà Nội, đài VTV3,
truyền hình HN, TS TV,…cũng có mặt nhằm mục đích thông tin, một sự tranh
thủ đích đáng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ bao giờ cũng đi đến
một kết luận không kể cũng rõ, một nhảm nhí- một đáng khen. Bóng đè, lại có
dịp được nổi bần bật sau những cú hích của công nghệ truyền thông.
Nguyễn Thanh Sơn, đứng trên lập trường văn chương, bỏ qua mối quan hệ
thân hữu với Đỗ Hoàng Diệu, quả đã không tiếc lời “mạt sát” Bóng đè. Ông cho
rằng: “Đỗ Hoàng Diệu là nhà văn của một nền văn chương già nua đang hấp
hối… Đỗ Hoàng Diệu là nhà văn đại diện cho một lớp người trẻ lười biếng
không mang trong mình một phông văn hoá nào đủ mạnh… Đỗ Hoàng Diệu viết
về tình dục, trong cái nghĩa thấp kém của từ này…. Những truyện ngắn của Đỗ
Hoàng Diệu chỉ vật vã trong sự huyễn hoặc ích kỷ về bản thân, một bản thân
không có chiều sâu của cả văn hoá lẫn tình cảm” (lược dẫn từ bài viết của
Nguyễn Thanh Sơn - Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu). Theo Bùi Tân Uyên: “Tiếc
thay đọc Bóng đè và một số truyện khác của Đỗ Hoàng Diệu, người ta thấy
những “thông điệp” cô muốn gửi gắm chỉ giống như một thứ “chửi xéo”, những
‘trái nổ” được đặt theo kiểu “gài mìn” của những người bị cấm bút thời bao cấp.
Và còn lâu Đỗ Hoàng Diệu mới đạt được mong muốn như cô nói, người ta vẫn


4


chỉ thấy “lông lá của những con vật” còn hồn vía của chúng vẫn vật vờ cõi âm ti
địa ngục nào đó”(Một trận Bóng đè tan nát văn chương).
Nguyễn Chí Hoan trong Thân ốc với cọc không rêu hay là ảo ảnh văn
chương sáo rỗng lại đặc biệt nhấn mạnh: “…bóng đè, lấy những chuyện tình
dục tình yêu làm môi trường bàn chuyện thân phận đàn bà, rồi từ đó phóng
chiếu lên thân phận lịch sử giống nòi, tính cách và bản sắc văn hóa, thậm chí là
mơ hồ một chút gì đó về hòa hợp và hội nhập đương thời…đều mới chỉ dừng lại
ở mức độ có tham vọng luận bàn. Chưa nói đến một năng lực tư duy hay sự hiểu
biết cần thiết, chỉ cần nhìn vào cấu tạo thô thiển của văn chương, sự sáo rỗng
của một lối tu từ cũng đủ thấy cái văn chương đó chỉ như một ảo ảnh…” (Báo
Người Hà Nội).
Đinh Ninh Bình thì lại cho rằng Bóng đè chỉ là hiện tượng của một trào lưu
văn học mạng rẻ tiền, thậm chí là “biến thái”, là cái thời của ngôn ngữ @ khi
những lạc thú tình dục được lên ngôi trong bài Văn chương điện tử và những trò
biến thái – An ninh thế giới cuối tháng.
Nhà văn Trần Tiễn Cao Đăng chia sẻ: “ Tôi không hoan nghênh Bóng đè,
mặc dù tôi tôn trọng tác giả. Nhưng tôi mong chờ một tác phẩm hào sảng hơn,
không còn mang nặng tính mặc cảm. Hơn nữa, tôi không thích cách hành văn và
dùng từ của Diệu…”
Nhà báo Hoàng Hạc (cựu phóng viên Báo Tiền Phong) thẳng thắn: “tôi
cũng không thích…và tôi có cảm giác đây chỉ là một cơn bão trong một chén
nước nhỏ mà thôi. Tôi hi vọng sẽ có tác giả viết được các tác phẩm không chỉ ở
Việt Nam mà còn cả thế giới nữa.”
Cùng với đó, trên nhiều trang mạng xã hội, độc giả liên tục bàn luận chủ đề
Bóng đè với những cái nhìn không mấy lạc quan. Theo một cuộc khảo sát của
diễn đàn ttvnol.com, có 54,8% số phiếu đánh giá tác phẩm là quái thai, dâm
loạn; 29% đánh giá là tầm phào, nông cạn; 6,5% cho rằng tác phẩm là mới mẻ

và 3,2% đánh giá là xuất sắc ( kết quả update ngày 18/12/2005).

5


Cho đến thời điểm hiện tại, Bóng đè vẫn là một ẩn số để mỗi một độc giả
tìm đọc lại có những phát hiện và nhận định riêng. Những trôi nổi của Bóng đè,
có lẽ, chỉ là tạm lắng xuống để cùng chờ đợi những phát kiến, những cách tân
của các thế hệ tiếp theo.
B. Thoạt đầu khi mới tiếp xúc với Bóng đè, không ít người cảm thấy
choáng ngợp trước lối viết đầy táo bạo. Cảm nhận trước nhất về tác phẩm dừng
lại ở nhục dục và khoái cảm khiến nhiều độc giả e dè, ghê rợn. Tuy nhiên, Bóng
đè thực sự đã gợi ra được sức mạnh tiềm tàng trong nó. Ý muốn đọc hiểu và
thấm nhuần tư tưởng của Bóng đè giúp người viết lý giải được những tranh luận
đã diễn ra xoay quanh hiện tượng này.
Đọc Bóng đè, người viết cảm nhận rõ nét một nỗi ám ảnh trong cái gốc
Trung Hoa của các nhân vật. Nhiều ý kiến cho rằng, Diệu phản khoa học, “bắn
vào quá khứ bằng súng lục”, như vậy là “có tội với tổ tiên”. Tuy nhiên, những
vấn đề Diệu đặt ra trong Bóng đè không hẳn là vô căn cứ. Xét về phương diện
lịch sử, cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề Diệu đau đáu quan tâm trong tác
phẩm này không bao giờ hết nóng bỏng.
Số đông độc giả (kể cả người viết bài này) coi Bóng đè là truyện mạnh nhất
trong tác phẩm, xứng đáng trở thành một hiện tượng của văn học sau thời kì đổi
mới.
Truyện viết về một cô gái thành phố (được viết ở ngôi thứ nhất) kết hôn với
chàng trai gốc gác nông thôn. Họ sống với nhau khá hạnh phúc dù chàng trai
lắm khi phát hoảng trước đòi hỏi tình dục mạnh mẽ của cô vợ trẻ. Bi kịch bắt
đầu xảy ra khi cô gái theo chồng về quê ăn giỗ, cả thảy bốn lần. Đời sống tinh
thần tù hãm, lưu cữu của làng quê cộng với sự đối xử sự khắc nghiệt của gia
đình nhà chồng đã đem đến cho cô những cơn bóng đè nửa thực, nửa hư rất

đáng sợ. Cô bị một hồn ma, có lẽ là ông bố chồng cưỡng hiếp. Có điều là ngoài
những cảm giác sợ hãi, xấu hổ, cô gái còn cảm nhận được những khoái lạc thể
xác mà chồng cô không thể mang lại. Chồng và mẹ chồng cô dường như biết
việc này nhưng không ra tay can thiệp mà chỉ tỏ thái độ ghẻ lạnh, xa cách. Sau
6


bốn lần về quê chồng ăn giỗ, hôn nhân của cô bị đe dọa. Kết thúc truyện cô gái
có thai, bằng cảm nhận của mình cô chắc chắn hồn ma kia chính là cha của đứa
trẻ.
Một câu chuyện chắc chắn là hoang đường được đặt trong một hoàn cảnh
có thực. Làm gì có một hồn ma cưỡng hiếp một người còn sống để rồi có thai?
Nhưng hiện tượng bóng đè thì tồn tại. Diệu cũng từng chia sẻ trên nhiều bài
phỏng vấn, cô từng bị bóng đè và quyết định viết bóng đè, không hề bịa đặt cảm
xúc. Có lẽ, điều mà Diệu muốn gửi gắm qua sự xếp đặt này là ngầm ám chỉ một
sự ngự trị vô hình qua một hành động nửa vời trước một thực thể hữu hình?!
Nhiều độc giả tiếp cận Bóng đè ở nhiều hướng khác nhau. Người viết chọn
cách tìm kiếm những hình ảnh có cấu trúc lặp lại như một sự nhấn mạnh, ám chỉ
để tìm hiểu ý đồ của tác giả.
Trước hết là hình ảnh bàn tay thanh tao. Đó là “đôi bàn tay nhỏ nhắn và
mềm mại hiếm thấy. Bàn tay không thay đổi theo mùa hay béo gầy cơ thể”, “
bàn tay không tuổi tác trọng lượng”,… Đó là hình ảnh của sự trinh trắng, non tơ
không chút vẩn đục. Đôi tay là một sự tự hào của “tôi” và Thụ, là điểm khơi
mào cho những khoái cảm và diễn tả sự đáng yêu của “tôi”. Cũng chính đôi tay
trở thành một rào cản của sự thèm khát xác thịt trong “tôi”, để rồi trở thành lý
tưởng, đánh thức lý trí đương dần đui mòn trong nhục thể. Đôi tay can đảm, lên
tiếng vạch trần và mách bảo một sự cự tuyệt, một sự chấm dứt: ký vào tờ giấy ly
hôn. Để rồi nhân vật “tôi” phải đau đớn nhận ra một thực tại như nhục hình,
giam cầm và bế tắc: đánh mất bản thân vì cho rằng mình là một con điếm đồng
lõa với cái bóng. Gọi tên một bộ phận để nói lên vấn đề của cả thực thể ( ở đây

là nhân vật tôi) là một cách vận dụng đầy tinh tế của tác giả. “Tôi” có thể sa ngã
và dễ dàng u mê vì những lạc thú, khoái cảm, đòi hỏi nhất thời. Nhưng đôi tay
thì không. Vẫn trinh nguyên, trong trẻo. Vẫn khước tác, chối từ để rồi lên án,
đấu tranh. Hình ảnh này gợi lên liên tưởng về một bộ phận, tầng lớp trong xã hội
vẫn miệt mài đấu tranh không khoan nhượng với khát vọng đánh thức nhưng
dường như vô vọng!
7


Hình ảnh chiếc bóng có “đôi mắt liếc xéo của những người đàn ông dòng
dõi đế vương chết rồi vẫn đội trên đầu xứ sở Trung Hoa” quả thực là một sự
minh họa đầy tài năng của Diệu. Tia nhìn sắc lạnh của đôi mắt “liếc xéo”, người
đàn ông gốc gác Trung Hoa kia bao đời nay vẫn nổi tiếng là một kẻ ma mãnh,
xảo quyệt. Cái “liếc xéo” dòm ngó với mưu đồ bá chủ luôn là điều khiến cả thế
giới phải kiêng nể, dè chừng. Ám chỉ Trung Hoa trong hình ảnh một chiếc bóng
không chỉ ngầm lên tiếng nói về quá khứ, bọc kín dân tộc ta trong những học
thuyết giáo điều cổ hủ, hơn 1000 năm Bắc thuộc với hàng trăm cuộc chiến tranh
đổ máu... Trung Hoa và văn hóa Trung Hoa như một cái bóng tù túng và vây
hãm dân tộc Việt Nam. Chiếc bóng không hề tồn tại hữu hình, nó là một quyền
năng, một thế lực vô hình, không dễ tóm gọn, không thể nắm bắt để quy kết và
luận tội.
Nhân vật tôi bị đè nén và chấp nhận bóng đè như một sự thỏa mãn. Ưỡn
người hình chữ S để đón nhận và thụ hưởng cơn khát thèm thể xác. Đó là một ẩn
dụ vô cùng đắc địa của Diệu. Không nhằm mục đích gợi dục, không viết về một
nhân vật đĩ thõa, tác giả mượn tình dục để gửi gắm tâm tư của mình. Hình ảnh
dải đất hình chữ S được liên tưởng, gợi lên cảm giác xót xa, đau đớn trước sự
bất lực của một “tôi” quá nhỏ bé trước một thế lực ma mị và cuồng bạo ( bóng
ma Trung Hoa ). “Tôi” không phải đồng lõa. “Tôi” đã từng muốn được vùng
thoát và cố gắng vùng thoát khỏi cái bóng. “Tôi” kêu cứu. Nhưng cuối cùng, vẫn
bị cái bóng thôn tính và hủy hoại, mặc nhiên hành hạ, đày đọa, làm trò. Để rồi

“tôi” buộc lòng chấp nhận “bị hãm hiếp trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng”, “tôi”
thèm khát cái bóng như muốn thay Diệu đánh thức suy nghĩ về thân phận nô lệ
cả ngàn năm nay. “Tôi” âm thầm chịu đựng và chờ đợi như một sự khiêu khích.
Chi tiết “tôi” phô bày bộ ngực, giễu cợt những ngôi mộ tổ tiên là một sự khiêu
khích đầy táo bạo, hiếm thấy trong văn chương. Có thể, Diệu chỉ muốn mượn
chi tiết này để mục đích nhạo báng, phỉ nhổ cái đang ngự trị trên đầu, trên cổ,
trên thân xác “tôi” một cách vô điều kiện, vô căn cứ, vô nghĩa lý. Tuy nhiên,
người viết bài này tỏ ra e ngại. Liệu rằng Diệu có đang quá đà với cảm xúc? 11
8


ngôi mộ ấy không phải chỉ dành cho chủ nhân của cái bóng. Mà còn có những
chiến sĩ từng hi sinh ở đường 9 Nam Lào! Chế nhạo cái chết vì bảo vệ mà không
được vẹn toàn, không được tự do như ý muốn có phải là việc làm tiêu cực hay
không?
Vấn đề chính trị được biểu lộ một cách khá rõ nét khi nhân vật Thụ được
xây dựng khá phù hợp với ý đồ của tác giả. Thụ được miêu tả không mấy rõ nét
trong tác phẩm. Nhưng người đọc dễ dàng hình dung một người đàn ông tỏ ra
gia trưởng nhưng lại bù nhìn, bất lực. Trong truyện, Thụ ít nói và tỉ mẩn. Yêu
thương và chiều chuộng vợ hết mực nhưng luôn khép nép trước mẹ già. Thụ,
trong phát hiện của “tôi”, là người đã chứng kiến được toàn bộ cuộc hân hoan
xác thịt giữa vợ và cái bóng. Nhưng lại trân trân nằm im không lên tiếng, không
cứu vớt, để mặc cái bóng hả hê chiếm đoạt vợ mình. Diệu đã tỏ ra rất khéo khi
xây dựng một nhân vật là điểm tựa, là yêu thương, là cốt cán nhưng lại “quay
lưng im lặng”, mắt mở trừng trừng đỏ ngầu, ghẻ lạnh xa lánh, trơ lì, bất lực chấp
nhận bị người khác cưỡng chiếm những cái thuộc về mình.
Vấn đề văn hóa và con người, đặc biệt là người phụ nữ đã được Diệu ít
nhiều động chạm. Nhân vật cô em chồng tên Thắm và bà mẹ chồng xóc xỉa với
cái nhìn đay nghiến, miệt thị là đại diện cho định kiến xã hội vô tình được tạo
dựng từ những học thuyết Khổng Nho (cũng từ gốc gác Trung Hoa), khiến

người phụ nữ Việt phải hứng chịu không ít thiệt thòi, đau khổ. Giữa khi giao
cảm thể xác, tiếng ho khúng khoắng của bà mẹ chồng chính là một sự chì chiết
nặng nề trước vấn đề tự do, tình dục, yêu đương của người phụ nữ.
Với Bóng đè, Đỗ Hoàng Diệu, bằng một cách hết sức tự nhiên, để cho độc
giả được mặc sức liên tưởng và suy ngẫm. Với một kết thúc đầy trách móc, dằn
vặt “Nếu sinh ra con trai thì nó sẽ tiếp tục chấp nhận bi kịch, hi sinh,vị tha như
cha nó “thờ cúng bóng tối”, con gái thì cam chịu “tiếp tục hiến dâng” giống
mẹ”, Diệu đã gợi ra một vấn đề mang tính giải phóng dân tộc, giải phóng con
người. Tuy nhiên, nhân vật tôi vẫn hi vọng, tin tưởng “con tôi sẽ có bàn tay
giống mẹ…biết níu giữ tự do dù cho thân thể trói buộc”, là một sự tự ý thức, tự
9


tôn dân tộc. Tưởng như bế tắc nhưng Diệu vẫn cố gắng mở ra một lối thoát, vẫn
gửi gắm vào thế hệ tương lai để đấu tranh lại cái ác, cái xấu đương đè lên cuộc
đời họ. Thực sự là một vầng sáng lung linh, óng ánh giữa một bức tranh tối tăm,
ủ dột – “Bóng đè”.
C. Có thể khẳng định Bóng đè thực sự đạt đến độ “chín” của một cuộc cách
tân. Yếu tố quá khứ, hiện tại với những hình dung về tương lai, yếu tố tâm linh
và những phong tục truyền thống được đan cài, thêu dệt đầy ẩn ý nhưng không
hề phi lý, gò bó, áp đặt. Tuy nhiên, có vẻ như Diệu quá sa vào khai thác những
khoái cảm nhục dục. Câu văn tràn trên mặt giấy từ đầu tới cuối tác phẩm đều
sex một cách trần trụi. Có thể đó là lý do khiến một số độc giả không tán dương
tập truyện. Họ đánh đồng “văn chương là con người” để rồi quy kết Diệu là một
người phụ nữ hăm hở ham muốn cái gọi là tình dục. Mặc dù đã hơn một lần,
Diệu đã làm cái việc phân trần: “Tôi không viết về tình dục. Tôi viết về những
điều khác và tôi mượn tình dục để đề cập những vấn đề đó”.
Với cá nhân người viết, mỗi độc giả là một nhà phê bình. Họ có cách tiếp
cận và đón nhận tác phẩm theo cách riêng của mình. Bóng đè ra đời với những
cú phản pháo là một điều tất yếu của một sự vận động và phát triển. Đó không

phải là hồi chuông đánh dấu sự ngừng trệ, chấm dứt mà là chiếc đồng hồ báo
thức một “sinh mệnh” đương thức dậy, sẽ còn tồn tại, còn phát triển, còn đủ sức
thu hút để trở thành những đề tài mới lạ,… Là một sự thoát xác ngoạn mục sau
những hoài niệm về quá khứ để thức tỉnh ý thức về con người, về dân tộc. Đỗ
Hoàng Diệu thực sự đã rất thành công và sẽ còn thành công như một Diệu cá
tính đã làm!

10


Câu 2:
* Một số công trình nghiên cứu phê bình văn học nổi bật từ năm 1986 –
khoảng năm 2000:
- GS. Phan Ngọc:
+ Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, 1985.
+ Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen, 1990.
+Văn học xét theo văn hóa học
+ Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, 1995.
+ Đỗ Phủ, nhà thơ thánh với hơn một nghìn bài thơ, 2001.
- GS.TS.NGND Trần Đình Sử:
+ Thi pháp thơ Tố Hữu, 1987.
+ Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, 1998.
+ Lý luận và phê bình văn học, 1996.
+ Những thế giới nghệ thuật thơ, 1995.
+ Những vấn đề thi pháp học hiện đại, 1993.
+ Văn học và thời gian, 2001.
+ Đọc văn, học văn, 2001.
+ Thi pháp Truyện Kiều, 2002.
- GS. Hoàng Ngọc Hiến:
+ văn học- học văn, 1992.

+văn học và học văn, 1997.
+ văn học gần và xa, 2000.
* Thu nhận của bản thân về một công trình nghiên cứu tâm đắc:
Thi pháp Truyện Kiều – Gs. Ts Trần Đình Sử.
Trần Đình Sử là một trong những người đi đầu đưa thi pháp học vào nghiên
cứu văn học Việt Nam. Cuốn sách Thi pháp truyện Kiều dày 400 trang của ông
do NXB giáo dục ấn hành năm 2002 là một thí dụ.

11


Trong thi pháp truyện Kiều, GS. Trần Đình Sử đã tóm lược những bản chất
sáng tạo của Nguyễn Du như sau:
1- Truyện Kiều “ đã đổi mới cái nhìn nghệ thuật về con người “ : “hiểu con
người như một tấm lòng, tức một dòng tâm lý, tâm trạng, dòng cảm giác của con
người sống”...”một con người của nhân tính dân chủ đang khao khát quyền sống
tự nhiên của con người...”
2- “Nguyễn Du là người đầu tiên đem vào truyện Nôm một cái nhìn dân
chủ, chống lại ý thức hệ phong kiến độc tôn”.
3- “Nguyễn Du đã truyền cảm thức Việt Nam gần gũi với mọi người qua
điểm nhìn trần thuật chủ quan đó”.
4- “Nguyễn Du đã sử dụng thành công một cách cổ điển lời độc thoại nội
tâm

“.

5- “Nguyễn Du đã sử dụng các biện pháp từ chương học thịnh hành của thời đại
- phép đối ngẫu, sóng đôi, ẩn dụ, điển cố, màu sắc nhưng ông đã biến chúng
thành một chất lượng mới, mang quan niệm của ông về chất văn, chất thơ”.
6- Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật tự sự và nghệ thuật cổ điển thơ ca Việt Nam

cũng như tiếng Việt văn học lên tới đỉnh cao chưa từng có, trở thành mẫu mực
chói lọi cho muôn đời thưởng thức và noi theo”.
Công trình Thi pháp truyện Kiều là một sự hệ thống hóa những tác phẩm,
bài luận, bài phê bình của tác giả, được tập hợp lại thành một cuốn sách tham
khảo vô cùng hữu ích với các em học sinh, sinh viên và độc giả yêu thích truyện
Kiều.
Lối viết giản dị, văn phong trong sáng, cách diễn giải vấn đề dễ dàng đón
nhận, Thi pháp truyện Kiều thực sự là một tài liệu quý giá để độc giả cùng tìm
hiểu về truyện Kiều một cách khoa học, bài bản. Từ đó tự nhận định được tài
năng và sự cách tân độc đáo của Nguyễn Du so với phiên bản của Thanh Tâm
Tài Nhân thay vì lối dẫn giải sáo mòn, khuôn mẫu của nhiều sách tham khảo học
văn khác.

12


Với tinh thần miệt mài nghiên cứu, Thi pháp Truyện Kiều là kết quả của
một quá trình tìm tòi và phát kiến không mệt mỏi của GS. Trần Đình Sử - một
cái tên luôn được giới học giả trong và ngoài nước kính trọng, một hình tượng
về nghiên cứu văn học Việt Nam. Chắc chắn, gấp lại cuốn sách dày 400 trang,
bạn đọc cũng sẽ có cảm nhận như người viết – trân trọng và đam mê!

13



×