Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Vai trò văn hóa Thái, Mường trong việc hình thành văn hóa vùng Tây Bắc?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.07 KB, 18 trang )

Vai trò văn hóa Thái, Mường trong việc hình
thành văn hóa vùng Tây Bắc?
I.

Khái quát chung về vùng văn hóa Tây Bắc:
1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên:
- Vị trí địa lý: Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt

Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc.Gồm 6 tỉnh: Lai
Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Báí.
- Địa hình: : địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao
chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, có hai con sông lớn đó là sông Đà
và sông Thao ( tức sông Hồng). thượng nguồn của sông mã cũng ở trên
vùng đất Tây Bắc. Hai bên sông Đà là các sơn nguyên và cao nguyên đá
vôi kế tiếp nhau : Điên Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh là các bồn địa ở
Tây Bắc. Còn Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản là các cao nguyên ở đây.
- Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Chế độ
gió mùa có sự tương phản rõ rệt: mùa hè và mùa đông.
Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm ở vùng cao nguyên là núi cao lớn hơn ở
các thung lũng.
Độ ẩm tương đối trung bình thường từ 78 – 93%, ở các tiểu vùng có độ
chênh lệch từ 2 – 5%.
Khu vực Tây Bắc có lượng mưa lớn, bình quân từ 1.800 – 2.500
mm/năm.
Các hiện tượng thời tiết đặc biệt ở Tây Bắc là gió Lào và gió lạnh địa
phương. Ngoài ra có mưa đá, sương muối, băng giá….
- Tài nguyên thiên nhiên:
Đất đai: chủ yếu là đất feralit có độ tơi xốp, nhiều mùn thuận lợi cho
phát triển nghề rừng, trồng cây công nghiệp, cây nguyên liệu dệt vải,
chăn nuôi đại gia súc.
Sông ngòi: Tây Bắc là đầu nguồn của một vài hệ thống sông lớn như


sông Đà, sông Mã, sông Bôi. Các hệ thống sông này có giá trị thủy điện
lớn.
Khoáng sản: Ở đây xuất hiện nhiều loại khoáng sản đang được khai thác
và sử dụng: than, kim loại đen, kim loại màu, niken, vàng…
2. Đặc điểm dân cư, xã hội:
- Tây Bắc là vùng văn hóa có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất
của Việt Nam với nhiều bản sắc riêng, đầy độc đáo và được hình thành
cách đây khoảng 500 triệu năm.
- Dân cư: Tây Bắc là nơi sinh sống của hơn 20 dân tộc khác nhau: Thái,
Mường, Dao,H’mông, Nùng,... trong đó chủ yếu là tộc người Thái và tộc
người Mường.
Ở vùng thung lũng lòng chảo thấp hay vùng bồn địa giữa núi, trước núi
là nơi sinh sống của các cư dân Thái, Mường, Lào, Lự, trong đó người
Mường chủ yếu cư trú ở vùng phía Nam của Tây Bắc. Vùng rẻo giữa hay
vùng sườn núi là nơi cư trú của các tộc người nói ngôn ngữ Môn-Khmer


như Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun. Vùng rẻo cao là nơi cư trú của các
tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông-Dao, Tạng Miến.
Thung lũng được hình thành do các vận động kiến tạo lọt giữa vùng núi
cao với nhiều sông suối. Đây là khu vực thuận lợi nhất cho việc canh tác
lúa nước ở vùng miền núi. Bởi thế đặc trưng của hoạt động kinh tế
thung lũng là ruộng nước với một hệ phức hợp về kỹ thuật, khác với kỹ
thuật canh tác lúa nước ở vùng đồng bằng. Gắn liền với canh tác ruộng
nước, hệ thống thủy lợi vùng thung lũng khá đặc sắc. Người ta hay nói
đến hệ thống mương phai, lái, lin ở người Thái hay đập, mương và hệ
thống dẫn nước ở người Mường. Tuy nhiên hệ canh tác này không chỉ có
ruộng mà còn có nương, góp phần đa dạng hóa hệ canh tác. Bên cạnh
đó, cư dân còn tiến hành các hoạt động chăn nuôi, sản xuất thủ công
nghiệp, săn bắt, nuôi và đánh cá, thu nhặt lâm thổ sản...

Trong khuôn khổ địa hình vùng thung lũng, cư dân tập hợp lại thành
bản và các bản trong khuôn khổ vùng thung lũng tập hợp thành mường
với một thiết chế chặt chẽ. Trước đây, trong khu vực Mường chủ yếu
thuần một tộc người còn về sau này một bộ phận các tộc người khác
nhập cư nhưng cư dân Thái hoặc Mường vẫn là chủ yếu. Trong tiến
trình phát triển, trên cơ sở khai phá vùng thung lũng của cư dân đã hình
thành nên cánh đồng lớn, các mường lớn, ví như ở người Thái có nhất
Thanh, nhì Lò, tam Tấc, tứ Than; người Mường có nhất Bi, nhì Vang, tam
Thàng, tứ Động. Trong trường hợp này các mường đồng nghĩa với các
cánh đồng, các thung lũng và đương nhiên liên quan đến vai trò của các
thủ lĩnh trong vùng. Chính đặc điểm này đã tạo nên những đặc trưng
trong văn hóa của các tộc người trên các lĩnh vực vật thể và phi vật thể
-

II.

Văn hóa: Đây là khu vực có các sắc thái văn hóa khá đa dạng. Có thể
thấy rõ điều này trên các khía cạnh về nhà cửa, trang phục, ẩm thực;
các biểu hiện về quan hệ gia đình và cộng đồng; các hình thức tổ chức xã
hội...
Sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người diễn ra khá mạnh mẽ. Có thể
thấy rõ điều này thông qua ngôn ngữ; các hoạt động kinh tế... Không
phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ của một bộ phận cư dân Môn-Khmer đã
chịu ảnh hưởng đậm ngôn ngữ Thái. Điển hình là người Xinh Mun, La
Ha…
Văn hóa các tộc người vùng Tây Bắc khá phong phú và đa dạng, giàu
bản sắc, gắn liền với quá trình tụ cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn
và nhiều thời điểm khác nhau.

Văn hóa người Thái, Mường ở Tây Bắc


1. Văn hóa tộc người Thái:
- Người Thái còn được gọi là Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái

Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu
Thay, Thổ Đà Bắc. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200


-

-

-

năm, là con cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam,
Trung Quốc bây giờ.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên
(Mương La & Mương Thèng).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên
và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên).
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số
huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình)
1.1. Văn hóa vật chất
Nhà ở : người Thái ở nhà sàn, kết cấu bằng gỗ, với những hàng cột gỗ
vuông hoặc tròn được kê đá, sàn cao, lợp lá cọ hoặc ngói. Mỗi nhà tuỳ
theo gia cảnh mà dựng 3 gian hoặc 5 gian. Người Thái Đen làm nhà
thường tạo mái hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng khau
cút theo phong tục xưa truyền lại. “Khau cút"là hai tấm ván đóng chéo
nhau hình chữ X trên đòn nóc - "tiêu bôn", trước hết để chắn gió - "pảy
lốm" cho mái tranh hai đầu hồi nhà và là biểu tượng cho vẻ đẹp các ngôi

nhà của người Thái. Những gia đình quý tộc xưa còn làm thêm bông sen
cách điệu ở giao điểm hai tấm ván và tám hình trăng khuyết hướng vào
nhau so le trên "khau cút". Trong ngôi nhà sàn đó có cầu thang quản
dành cho đàn ông, cầu thang chan dành cho đàn bà; có tụp cuông dành
cho các chàng trai đến ở rể (du khươi).Trong nhà chia làm hai nửa
(theo chiều ngang sàn), bên quản dành để thờ cúng gia tiên (phi hươn),
tiếp khách, và dành cho đàn ông còn có cột thiêng - "sau hẹ",trên cột
thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - "sam huống khẩu" và
ba nhánh rau thì là - "sam hóm chík"... , bên chan dành cho việc nấu ăn
và là nơi sinh hoạt của đàn bà. Cột thiêng (sau hẹ) có vai trò vô cùng
quan trọng, được coi như trụ cột, chứa đựng linh hồn của ngôi nhà, là
biểu tượng cho sự bền vững của gia đình ẩn chứa những ý nghĩa nhân
sinh cao đẹp.
Trang phục:
Trang phục nam: Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam giới
người Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn,
không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc điểm
của áo cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may
(vì cơ bản giống ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc đa dạng
của loại vải cổ truyền của cộng đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu
chàm, trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật các vuông bằng các sợi
màu đỏ, xanh, cà phê... Trong các ngày lễ, tết, họ mặc nhiều loại áo sặc
sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với lối cắt may dài, thụng,
không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu., Trong tang lễ
họ mặc áo xẻ nách màu cham đầu quấn khăn, chân đi guốc. Mấy chục
năm gần đây, nam giới người Thái mặc âu phục khá phổ biến.
Trang phục nữ: trang phục của đồng bào dân tộc Thái được ca ngợi bởi
sự đơn giản, duyên dáng và thanh lịch. Người dân đã phải khéo léo kết



hợp từng chi tiết để tạo nên hình ảnh những cô gái Thái rất riêng.Các
nhóm người Thái như Thái Đen, Thái trắng đều có nhiều điểm chung
trong trang phục hằng ngày nhưng trong đó, vẫn nổi bật bản sắc riêng
để phân biệt.
• Thái Trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái Trắng mặc áo cánh ngắn
(xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là màu
sáng, trắng, cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong... Cái khác xửa cóm
Thái Đen là cổ áo hình chữ V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh,
tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là
loại váy kín (ống), màu đen, phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi mặc xửa
cóm và váy phụ nữ Thái còn tấm choàng ra ngoài được trang trí
nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải chàm
dài trên dưới 2 mét... Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen.
Đây là loại áo đầu thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang
trí bằng vải 'khít' ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách
áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam
giác. Phụ nữ chưa chồng hay có chồng không có dấu hiệu quy định
nhận biết... Họ có loại nón rộng vành.
• Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm)
màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn,
đứng. Đầu đội khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí
mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng
đã nói ở trên. Lối để tóc kkhi có chồng búi lên đỉnh đầu gọi là "Tằng
cẩu";khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau gáy; chưa chồng
không búi tóc. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ
nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà môtíp hơn Thái Trắng.
Nói về bộ trang phục nữ Thái không thể thiếu chiếc khăn piêu. Chiếc
khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự
khéo léo của mỗi cô gái. Piêu tết 3 sừng là piêu thường dùng, piêu tết
5 hay 7 sừng là piêu sang, dùng làm quà biếu, đội lúc bản mường có

hội hè, cưới xin. Khăn Piêu là đặc trưng của người dân tộc Thái với
đường nét tinh sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ
cùng màu sắc sặc sỡ, nó thể hiện tình yêu, sức mạnh nữ tính thật
quyến rũ.
Ngoài ra người Thái rất hay đeo trang sức đeo trên người như vòng
cổ, vòng tay, hoa tai, trâm cài tóc trên đầu, xà tích và cả cúc bạc…
-

Ẩm thực: Với những món ăn được chế biến công phu, độc đáo, ẩm thực
truyền thống của dân tộc Thái vùng Tây Bắc được xem là cách truyền tải
hữu hiệu nhất nét văn hóa của dân tộc.
Tất cả món ăn của người Thái đều được chế biến từ nguồn nguyên liệu
hoàn toàn tự nhiên. Thịt trâu, thịt bò, cá, gà được người Thái tẩm, ướp
gia vị rất cầu kỳ và cẩn thận. Gia vị để ướp là hạt "mắc khén" (một dạng


hạt tiêu rừng), ớt, tỏi, gừng, muối... Một nét độc đáo trong các món ăn
của dân tộc Thái là khi chế biến những món ăn, người Thái hoàn toàn
không dùng dầu mỡ và rất chú trọng tới việc điều phối các vị đắng - cay
- mặn - chát. Những món ăn độc đáo của người Thái như pà pỉng tộp (cá
nướng), khảu lam (cơm lam), nhứa mù khủa (thịt lợn hấp), nhứa giảng
(thịt trâu hun khói),rượu cần (láu xá), canh da trâu...
Trong mâm cơm của người Thái có nhiều món ăn, mỗi món đều có
hương vị đặc trưng. Các loại thịt gia súc, gia cầm, hay thủy sản đều có
thể nướng. Thịt thái miếng, ướp gia vị, dùng xiên hoặc kẹp tre tươi đặt
lên than hồng; hoặc thịt băm nhỏ, bóp nhuyễn với trứng, gói lá chuối, lá
dong, kẹp lại, nướng trên than đỏ hoặc vùi tro nóng; khi chín, thịt rất
thơm, ăn không ngán. Món cá nướng hấp dẫn bởi hương thơm của cá, vị
cay của ớt. Món “pỉnh tộp” cũng là cá nướng, nhưng thường dùng cá to
như chép, trôi, trắm... mổ lưng, để ráo nước, xoa một lớp muối rang nổ;

tẩm ớt tươi nướng, nghiền nát, mắc khén, để cá ngấm gia vị, cứng thịt
lại rồi đặt lên than hồng. Cá chín có vị thơm hấp dẫn, dùng để uống rượu
rất độc đáo.
Cách chế biến món măng của người Thái cũng thật đặc biệt và cầu kỳ.
Để có được một bát nước cốt măng chua, họ sẽ ngâm măng vài ba năm
để lọc lấy vị ngon lành, chua dịu nhất khi ăn cùng những món ăn khác.
Khi vào những ngôi nhà của người Thái, đều dễ dàng nhận thấy gia đình
nào cũng có sẵn vài chum măng muối chua dành để dùng dần.
Xôi nếp là món ăn truyền thống của dân tộc Thái. Người Thái có phương
pháp đồ xôi cách thủy bằng chõ gỗ rất kỹ thuật. Xôi chín bằng hơi, mềm,
dẻo nhưng không dính tay. Xôi được đựng vào ép khẩu hoặc giỏ cơm
đậy kín, ủ ấm, giữ cho cơm dẻo lâu. Cơm lam là đặc sản của dân tộc Thái
thường được sử dụng vào dịp lễ, tết hay đãi khách.
Món canh da trâu: Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi
gác trên gác bếp cho khô. Để chế biến món canh nấu với bon, người Thái
lấy số da khô vừa đủ đốt cho cháy sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng
da có màu vàng ươm, mùi thơm phức. Sau khi nướng giòn tan, miếng da
được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi bon đun nhỏ lửa cho đến nhừ.
Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh bon này. Nồi
canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi
rừng Tây Bắc trong đó gồm những gia vị dễ nhận biết như sả, cà đắng,
hạt tiêu, mắc khèn.
Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được
Chéo, giống như một dạng muối vừng với người Kinh.,1 loại gia vị hấp
dẫn Quả Mắc Khén sau khi thu về, bắc chảo rang nóng. Tiếp đó, đưa vào
giã thành bột mịn. Tuy nhiên để chế ra được hương vị thơm phức,
chuyên dùng ăn với xôi nếp nương, còn phải qua nhiều công đoạn khác.
Đó là dùng ớt khô bỏ hạt nướng giòn, muối rang, rau mùi tầu xắt nhỏ
rang khô, tất cả đều giã thành bột mịn. Sau khi trộn đều hỗ hợp trên thì



-

tạo thành Chéo, một thứ bột mùi thơm hăng hắc nhưng lại dịu như vị ô
mai và phảng phất chất núi rừng, thơm cay nồng nàn như hương hồi,
quế.
1.2. Văn hóa tinh thần:
Lễ hội:
• Múa xòe là một sinh hoạt văn hoá đặc sắc, một điệu múa phổ biến
trong cộng đồng người Thái Tây Bắc. Múa xòe còn có tên khác là "Xe
khăm khen" (múa cầm tay). Múa xòe biểu hiện sự đoàn kết thân
thiện gắn bó, có tính tập thể, dân chủ cao, nên mọi người Thái đều
biết múa xòe và yêu thích nghệ thuật xòe của dân tộc. Múa xòe là di
sản văn hoá quý giá của người Thái có sức sống bền vững trong
nhân dân. "Xòe" là đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu
tượng văn hóa Tây Bắc. Người Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa,
quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của già trẻ, gái trai
trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Nhưng cũng có Xòe điệu của
người Thái trắng ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên
đến Lai Châu, Phong Thổ. Tương truyền có đến 32 điệu xòe do các cô
thanh nữ múa trong tiếng tính tang dịu dàng của hai chàng trai. Xoè
vòng sôi nổi bao nhiêu thì xòe điệu nhẹ nhàng, tinh tế bấy nhiêu
Đầu tiên phải kể đến điệu xòe “Khắm khăn mơi lẩu” – nghĩa là “nâng
khăn mời rượu”. Đây là điệu xòe thể hiện nét văn hóa trong giao tiếp
ứng xử của đồng bào dân tộc Thái.
Điệu xòe thứ hai là điệu “Phá xí”, nghĩa là xòe bổ bốn, điệu múa thể hiện
sự đoàn kết của cộng đồng người Thái. Cho dù là ai, dù có phải chia xa
bốn phương trời, mười phương đất thì cũng luôn nghĩ về nhau, cùng
nhau hướng về nguồn cội.
Một điệu xòe rất tưng bừng, sôi nổi khác là điệu “Nhôm khăn”, hay còn

gọi là Tung khăn. Cùng với những chiếc khăn Piêu choàng trên cổ,
những cô gái Thái đã thể hiện được niềm vui vô bờ bến mỗi khi làng bản
có chuyện mừng vui như có đám cưới, đám mừng nhà mới hay mừng
mùa màng bội thu.
Điệu xòe ‘Đổn hôn”, điệu xòe tiến lùi, lúc người này tiến người kia lùi,
nhưng vẫn nhịp nhàng, uyển chuyển cùng trong một vòng tròn. Những
động tác này như muốn khẳng định, dù trời đất có đổi thay, cuộc sống có
lúc gặp khó khăn trở ngại nhưng ý chí và tình người thì vẫn luôn sắt son
bền chặt.
Tiếp theo phải kể đến điệu xòe “Khắm khen”, nghĩa là nắm tay cùng xòe.
Đây là điệu xòe cơ bản trong nghệ thuật dân vũ của dân tộc Thái, được
hình thành trong quá trình lao động từ thuở sơ khai, có ý nghĩa là biểu
hiện sự gắn kết cộng đồng, mỗi khi có niềm vui thì cùng nhau nhảy múa
và khi gặp khó khăn hoạn nạn cũng vẫn nắm chặt tay nhau cùng chung
sức vượt qua.


Và cuối cùng là điệu “Ỏm lọm tốp mư” – là điệu xòe vòng tròn vỗ tay.
Đây là điệu xòe kết thúc mỗi cuộc vui, biểu hiện niềm hân hoan và sự bịn
rịn lúc chia tay nhau.
• Lễ hội hoa ban là một lễ hội của dân tộc Thái, Tây Bắc Bộ Việt Nam.
Theo tiếng Thái thì "ban" có nghĩa là ngon, đẹp đẽ. Tất cả những gì
ngon ngọt, đẹp đẽ đều gọi là "ban". Lễ hội có một ý nghĩa quan trọng
đối với người Thái. Đó là lúc họ thỉnh bái thần rừng, thần hang và
hồn vía đôi trai gái qua sự tích, cầu mong cho mưa thuận gió hòa,
mùa màng tươi tốt. Thường được tổ chức vào ngày 5/2 âm lịch.
Trong lễ hội, thanh niên trai gái bắt đầu vui hội hái hoa, sôi nổi với
những trò diễn độc đáo. Âm vang nhộn nhịp của tiếng pí, tiếng khèn,
tiếng trống chiêng. Con trai thổi khèn, con gái dập dìu múa điệu
Thẩm Lé, điệu múa dành riêng cho việc đi hái hoa ban. Các chàng

trai thi nhau trèo lên các cây ban hái hoa. Một cây có khi 5, 6 người
trèo lên. Ở bên dưới, các cô gái lấy cái ớp (gần giống cái giỏ) đón
những bông hoa thả xuống. Anh chàng nào có ý với cô gái nào thì
thả vào chỗ cô đó. Các cô cũng vậy, ưng anh nào thì cố mà đón lấy
hoa của anh đó.
• Lễ hội xên bản, xên mường hay lễ hội cầu an là một lễ hội của người
đồng bào dân tộc Thái, Tây Bắc, cúng người lập nên bản làng. Tưởng
nhớ đến các vị thần linh đã khai sáng ra Mường - cách gọi tên vùng
đất nơi người Thái đang sinh sống, cầu mong cho người Thái được
ấm no, hạnh phúc...
Người Thái Tây Bắc thường tổ chức lễ hội này ở đầu nguồn sông
suối, nơi cung cấp nước cho toàn Mường. Tuy nhiên, người Thái Đen
ở Mường Lò (Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái) lại tổ chức ở một khu rừng cấm
của Mường, nơi có gốc đa to nhất, xung quanh là chỗ "yên nghỉ" của
những người đã khuất. Ở Mường Lò, ông mo Nghè (mo Mường),
người trông coi thần quyền cho chủ Mường và Hội Phụ lão đứng ra
tổ chức lễ hội Xên Mường. Tại đây, lễ Xên Mường phải có áo của con
trai thuộc dòng dõi quý tộc gốc hay người đương chức làm vật tế.
(Ngày nay, chức danh quý tộc không còn nữa nên người Thái lấy áo
của một vị lãnh đạo xã làm vật tế). Lễ vật do người dân toàn Mường
đóng góp, có thể mổ từ hai đến bốn con trâu. Riêng người Thái ở Yên
Châu, tỉnh Sơn La thì tế trâu trắng. Điều lạ là, con trâu để Xên
Mường phải do chính mo Nghè đi tìm, ông thích con nào thì chỉ con
đấy, không cần biết con trâu đó của nhà ai. Người ta bảo khi bị ông
mo chỉ gậy vào, con trâu đứng yên đến mức gần như bị thôi miên,
người giúp việc cho ông chỉ việc dắt trâu về nơi tổ chức lễ hội. Cỗ
cúng thường gồm ba mâm nhưng phải đảm bảo có thịt trâu chín,
gạo và rượu. Ông mo khấn bảy lần, mời các vị thần, tổ tiên về dự lễ
và phù hộ cho dân Mường được ấm no, sung túc, cuộc sống an vui.
Các trò chơi trong lễ hội Xên Mường thường là:

Xoè vòng theo nhịp








Ném còn. Trước khi bắt đầu, người Thái lập đàn tế còn dưới chân
cột còn cao 15m-20m. Lễ vật gần giống Xên Mường, chỉ khác là có
thêm hàng trăm quả còn trên đàn tế. Tham gia trò này chủ yếu là
nam thanh niên, ai ném rách tâm điểm trên đỉnh cột còn sẽ được coi
là người hùng của hội...
Múa các điệu dân gian.
Lễ hội gội đầu hay lễ hội Lúng ta là một lễ hội của đồng bào Thái
trắng. Đánh dấu thời điểm qua năm, rũ bỏ cái cũ, đón nhận cái mới.
Lễ hội gội đầu được tiến hành từ trưa ngày cuối cùng trong năm.
Trước đó hàng tuần đã vo gạo nếp lấy nước. Nước gạo được đổ vào
cất nồi cất giữ cả tuần hoặc lâu hơn, để càng chua càng tốt. Đó là
nước gội dành cho đàn bà con gái. Nước tắm thường là nước thơm
của cây mùi già. Còn đàn ông nước gội là bồ kết. Người ta nướng bồ
kết rồi bẻ ra ngâm vào nước đun sôi, mọi người đều mặc áo váy đẹp.
Phụ nữ trong mặc cóm khẩu, áo ngắn trong là khẩu nọi ngoài còn
khoác Slửa luông (một loại áo dài của người Thái) vải đen, từ hai vai
có hai dải màu buông xuống trước ngực trông rất điệu đà. Ngày nay
slửa luông cũng có người may cải tiến thắt đáy ở eo lưng, không
thẳng vạt như các áo cổ xưa. Đàn ông thì mặc giản dị hơn, áo mới
vải đen, nút vải, đầu quấn khăn màu tối.
Thầy mo chuẩn bị, bao kiếm của tổ tiên, vai vác cây súng kíp, thông

seng ở thắt lưng (thông seng là cái túi nhỏ có trang trí hoa văn bằng
chỉ ngũ sắc) trong đựng của quí như tiền vàng bạc. Thông seng được
coi như túi ngọc quí đeo bên người, là vật đạn bắn không thủng
Việc sau cùng diễn ra bên dòng sông là giặt rũ tất cả quần áo váy
cho sach sẽ trước khi ra về để hoàn tất lễ gội đầu tất niên.
Lễ hội Hạn Khuống là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống
của đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc bao gồm nhiều thể loại (hát, kể
chuyện) trong khung cảnh ấm cúng và tao nhã. Thường được tổ
chức sau vụ thu hoạch vào tháng 11 hàng năm.
Lễ hội này thường được tổ chức trên khoảng đất rộng ở bản, thanh
niên nam nữ dựng sàn, sàn cao khoảng 1,5m, có hàng rào bao quanh
bằng phên mắt cáo, chỉ có một cửa ra vào. Cuộc vui mở vào đêm bên
đống lửa sàn. Thanh niên, nam nữ đến hát hò, làm quen, vui chơi, thi
tài... Nam nữ hát đối đáp với nhau đến sáng mới chia tay nhau. Đêm
hôm sau họ lại tiếp tục ca hát, vui đùa, trò chuyện.
Lễ hội này được tổ chức vào đầu mùa mưa của tháng 3 âm lịch để tạ
ơn ông Then, Bà Then và cầu mưa, cầu mùa, cầu phúc, cầu lộc cho
cho gia đình và bản Mường.
Lễ hội Then Kin Pang là nét sinh hoạt tâm linh độc đáo đã có từ rất
lâu đời. Đây được xem là nghi lễ mang tính tôn giáo của người dân
tộc Thái trắng ở Khổng Lào (Phong Thổ - Lai Châu) về vị thần là các
ông Then, bà Then.




-

Người Thái trắng quan niệm rằng phía trên thế giới thực của con
người là thế giới của vua Trời và cõi trời cũng là một Mường, trong

đó có các tướng lĩnh của vua trời là các Then.
Lễ hội Then Kin Pang còn là nơi tái hiện những trò chơi dân gian đặc
sắc của người Thái trắng như ném còn, đẩy gậy, kéo co, đặc biệt là lễ
hội té nước bên dòng sông Nậm So.
Hằng năm vua Trời phái các vị Then xuống hạ giới để cứu giúp bà
con. Khi bắt đầu mùa mưa đến, “lộc trời” sẽ tưới cho mùa màng cây
cỏ, cho vạn vật đâm chồi nảy lộc, gột rửa những điều kém may mắn,
xua tan đi bệnh tật làm cho bản Mường trở nên hạnh phúc và may
mắn hơn.
Lễ hội Cầu mưa hay lễ hội Xến Xó Phốn là một lẽ hội của người đồng
bào dân tộc Thái, Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. là lễ hôi giá trị về phong
tục tập quán, tín ngưỡng cho mọi người trong bản.Mọi người đi hát
cầu mưa ở khắp các nhà trong bản, rồi rước đuốc vòng quanh bản.
Thường tổ chức từ ngày 01/04 đến 28/04 Âm lịch, vào những đêm
trăng có quầng đỏ quầng vàng - điềm báo trời đại hạn kéo dài.
Phần lễ: Cúng thần linh cai quản mưa nắng, mang yếu tố tâm linh để
dạy bảo con người. Lễ hội đông nhất là nam nữ thanh niên. Còn lớp
người trung niên và già cả thì ở nhà để sẵn sàng đón tiếp đoàn hát
cầu mưa. Đoàn hát thường đông tới năm sáu chục người. Ai cũng tự
sắm sửa đủ mũ, nón đội đầu và áo mưa (áo tơi lá cọ). Mọi người tự
giác xếp hàng hai ở một bãi rộng trong làng.
Phần hội: Dẫn đầu đoàn hát có một người lĩnh xướng, người thứ hai
cầm một cái sàng gạo. Bà Mè mải cũng thường là người cao tuổi
đóng vai trò chính, dẫn đoàn người đi đến các nhà xin lễ vật. Họ chọn
nhà nào có bà già cao tuổi nhất bản đến đầu tiên. Khi tới sân nhà cụ
bà, đoàn người dừng lại, đội ngũ chỉnh tề. Người lĩnh xướng gọi
vọng lên trên nhà mời cụ bà ra cầu thang làm lễ cầu mưa. Dứt lời
mời, cả đoàn người hưởng ứng bằng lời hát cầu mưa
Sau khi đi khắp lượt các nhà trong bản, đoàn trở lại nơi xuất phát để
châm đuốc. Mỗi người thắp một bó đuốc trên tay, họ diễu hành hàng

một vòng quanh bản, sau đó kéo nhau ra suối nước. Tất cả số đuốc
được chụm lại hai, ba đống bên bờ suối. Lửa đuốc sáng rực cả một
góc trời. Họ liền chia ra từng tốp nam, nữ đứng mặt đối mặt với
nhau, để thi tát nước "vàng" nước "bạc" vào người, vào mặt nhau.
Khi ai nấy đều ướt sũng, mới chịu tan đêm hội về nhà mình.

Văn học: Do người Thái có chữ viết riêng nên kho tàng văn học dân gian
như truyền thuyết, ca dao, truyện thơ, văn học, dân ca… và một số luật lệ
còn được lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép
trên giấy bản hoặc trên lá cây. Một số tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như
“Xống chụ xon xao”, “Khun Lú, Nàng ửa”


-

-

Tục lệ cưới hỏi: Khi chàng trai muốn vợ thì người con trai nhờ mẹ đẻ và
một vài bà trong họ đến nhà cô gái làm một vài thủ tục gọi là Lòng
Luông
Lòng Luông: là mấy bà chưa mang lễ vật, chỉ đến nhà cô gái xin cho con
trai mình được đi về (mà ngày nay gọi là xin đi lại) để tìm hiểu. Sau một
thời gian, họ nhà trai tổ chức một đòn có lễ vật: gà, lợn, rượu, gạo… đến
nhà cô gái, đoàn này do một ông mối (làm) dẫn đầu và giao tiếp gọi là
pay đu, có dòng họ gộp hai giai đoạn này làm một gọi là Lòng luông đu
châu.
Pay đu: Nội dung mời bên ngoại (họ của mẹ cô gái) về xin ý kiến, xin cho
đôi nam nữ có điều kiện tìm hiểu. Sau một thời gian từ 3-4 tháng, gia
đình và họ nhà gái chỉ nhận lời cho gần gũi, chứ chưa nhận lời cho lấy
nhau. Tiếp đó là thủ tục mới gọi là To pác.

To Pác: cũng là một đoàn nhà trai mang lễ vật đến nhà gái làm cỗ mời
hai họ (thực chất là 4 họ). Sau đó họ nhà gái công khai hỏi đôi nam nữ
về nguyện vọng xây dựng gia đình. Giai đoạn trên họ nhà gái bàn bạc đi
đến nhất trí cho lấy hay không, nên gọi là To Pác (đo và đánh dấu). Sau
To Pác là Khưới quản. Có vùng gọi giai đoạn này là: Ôm sáo (chứng
minh cho cô gái tìm hiểu về mình).
Khưới quản: Người con trai đến ở nhà cô gái, được cùng ăn, làm vệc
nhưng ngủ một chỗ riêng gần sàn quản, gọi là khưới quản. Giai đoạn
này khoảng 1 năm cô gái vẫn có quyền tiếp bạn trai khác. Tuyệt đối
người khưới quản không được lén lút ngủ với cô gái, nếu có (nhất là
chửa) sẽ bị phạt rất nặng. Sau một năm, nhà trai làm thủ tục gọi là Xông
Phắc phá.
Xông Phắc Phá (đem bao dao cho chú rể): nhà trai làm một bao dao mới
(có cả dao) đem theo lễ vật: lợn, gà, cá nướng, thịt chua, gạo, rượu làm
cỗ mời nhà gái ăn, từ 10 giờ sáng đến tận tối (gọi là công ơn). Trong
bữa cơm công ơn này có Khoóng Phác nói (gửi nhỏ), Khoóng Phác luống
(gửi lớn). Đây là một hình thức gửi rể cho nhà gái, họ có lời chúc, lời
khuyên đôi trai gái sắp thành vợ chồng, lời khuyện răn là những câu ca
dao, tục ngữ.
Người ta dạy cô dâu, chú rể bằng văn vần và kết hợp cho một số tiền
nhỏ làm vốn, đạt vào một cái đĩa, gọi là Phan khẩu xó (Bàn cơm xin). Ở
đây là xin phúc, xin lời răn dạy, xin nhận họ hàng. Ở nghi lễ này đôi nam
nữ được chấp nhận là vợ chồng. Họ được dọn nhà mình, (biểu hiện bằng
sự mừng vui được đón cô dâu về nhà chồng), một đoàn trai tráng
khiêng gánh chăn, đệm và các vật phẩm họ nhà gái tặng như dụng cụ
nhà bếp bát, chậu, nồi xoong về đến nhà chồng người ta làm lễ tổ tiên
cho co dâu nhập gia. Nhà trai lại tổ chức một bữa cỗ đông vui chào hai
họ và bè bạn. Sau đó là tục mời uống rượu cần, nhà trai có một đoàn từ
5-6 người biết cách sắp xếp ngôi thứ hai họ, giỏi mời chào cầm tay vào
chum rượu uống theo đôi một hoặc 4 đến 5 đôi.

Tục lệ ma chay:


Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy,
đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".
Con người có sinh ra, lớn lên, già và chết (sinh, lão, bệnh, tử) trong đó
chết và mai táng là một thủ tục phức tạp và rườm rà nhất trong các
phong tục của người Thái...
Ma chay của người Thái rất phức tạp, sau khi một người qua đời thì
công tác chuẩn bị là bước đầu tiên, tiếp theo là nghi lễ, cuối cùng là an
táng.
Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra
rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).
Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
2. Văn hóa tộc người Mường
- Đồng bào dân tộc Mường ở Việt Nam với khoảng hơn 1 triệu người tập
trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình. Người Mường ở Tây Bắc sống tập
trung ở các thung lũng hai bờ sông Đà (Phú Thọ, Sơn La, Ba Vì, Hòa
Bình).
- Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á), rất
gần với tiếng Việt
2.1. Văn hóa vật chất:
- Văn hóa sản xuất: Người Mường sống định canh định cư ở miền núi, nơi
có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn.
Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ
yếu. Trước đây, người Mường trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp
là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình
người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa
nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công

tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ
Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo.
- Văn hóa cộng đồng:
• Nhà ở:
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn
đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú
Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia
đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà
sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng
gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.
Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, địa bàn
cư trú tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi
đất ven sông, ngòi, dưới chân các dãy núi hay trên các đồi gò thấp.
Làng bản mường sống tập trung thành từng chòm, từng xóm, ẩn
khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh nhà. Các bản
mường thường có khoảng từ 20 đến 30 nóc nhà, và nếu bản to thì có
thể nhiều hơn nữa. Bản làng thường dựng nơi gần nguồn nước, gần
đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy vậy, bản làng của


người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được bao
bọc bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con
đường mòn nhỏ quanh co tạo cảm giác dễ nhầm, dễ lạc. Và đối với
người Mường, họ không coi trọng việc dựng nhà lập bản sao cho
thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ đó mà muốn vào bản làng hay nhà
của người Mường thường phải băng qua con đường nhỏ nối làng
với đường chính hoặc lội qua những con suối, ngòi.
Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và chứng kiến những
sự kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không
chỉ có ý nghĩa đối với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã

hội, không chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ
nghỉ, mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Người Mường rất trọng hướng nhà, vì vậy, hướng nhà phải do một
thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của gia chủ. Họ quan niệm
làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và may mắn đến cho gia đình
Những cây gỗ được chọn làm cột, sau khi lắp mộng, dựng khung,
được chôn thẳng xuống những hố đã đào sẵn sâu khoảng 20 – 30
cm. Tục chôn cột nhà, ngoài dụng ý cho vững chắc khung nhà khi lợp
mái, làm sàn, làm vách, còn có ý nghĩa tâm linh, thể hiện cho sự hoà
hợp âm dương, một biến thể của tín ngưỡng phồn thực. Cho đến nay,
đa số người Mường đã thay đổi tục chôn cột nhà bằng cách nâng cột
lên mặt đất và kê lên những phiến đá chống mối mọt. Tuy nhiên cột
nhà của người Mường Thanh Sơn không được gia công bào gọt
nhiều như cột nhà của người Thái và người Mường ở Hoà Bình. Nếu
cột nhà của người Thái Sơn La được xẻ, bào, đẽo cho vuông thành,
thì cột nhà của người Mường Thanh Sơn chỉ bào lớp vỏ ngoài và để
tròn.
Người Mường dùng con xỏ bằng tre, con then bằng gỗ, đinh kèo
bằng gỗ… để đóng thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt mây, giang hoặc
tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà sàn
của người Mường được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng, đục
đẽo mà thành. Đòn tay (tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn tay cái
có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào đầu cột cái gọi là cái khoá kèo.
Mái nhà lợp bằng lá cọ hoặc bằng cỏ gianh. Những cây nứa ngộ (loại
nứa to và dày) vàng óng được lựa chọn kỹ để pha nan kẹp lá (như
cái gắp dùng để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những kẹp lá cọ được
đưa lên mái buộc thẳng vào dui mè. Đây là cách lợp mái nhà theo
tục truyền thống còn tồn tại phổ biến cho đến ngày nay. Tuy vậy ở
một số nơi, người Mường đã thay cách lợp nhà. Lá cọ được đưa lên
lợp vào dui mè mà không cần kẹp nữa. Mái nhà sàn khum khum hình

mai rùa.
Nhà của người Mường thường ba đến năm gian. Những gia đình
đông con thì nhà lên đến bảy – mười hai gian. Những ngôi nhà như




vậy ngày nay còn rất ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn bên
trái để bắc cầu thang và máng nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ cầu
thang lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của
ngôi nhà, là nơi xuất phát những tục lệ đối xử hành vi của con người
với ngôi nhà.
Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ trong nhà không
được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như
hôn lễ, ma chay thì chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi
ăn uống. Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế theo gian gốc) dành cho
nam giới ngủ nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp.
Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt có chạn bát, để đồ
dùng gia đình, nơi sửa soạn cơm nước
Trang phục:
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm
mỹ trên trang phục.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài
khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng,
đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ
chầu.
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc
thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu
cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn
thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi tóc.

Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài
khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải.
Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo.
Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa,
yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở
ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và
cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang
sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo
hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh
ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay
dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không
phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy
nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với
phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy
kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi
mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong
cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ
và khu vực láng giềng (trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh
hưởng văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ).






Tổ chức cộng đồng: Tho hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người
Mường là chế độ lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch,
Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang
cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.

Ẩm thực:
Người Mường rất thích ăn thức ăn có vị chua: củ kiệu, quả cà muối
chua với cá; rau cải muối dưa, quả đu đủ muối dưa tép; rau sắn
muối dưa cá; lá lồm nấu thịt trâu, bò; lá bểu, lá chua khao nấu cá
đồng, cá suối; muối thịt trâu, tiết bò ăn vào mùa nào cũng thích hợp.
Đặc biệt, trong góc bếp của mỗi gia đình Mường không thể thiếu
những hũ măng chua – nguồn thức ăn quanh năm sẵn có nơi núi
rừng. Măng chua có thể xào nấu với cá, thịt gà, vịt, nước măng chua
kho thịt trâu, kho cá, chấm rau sống hay ngâm ớt tươi.
Vị đắng cũng là vị mà người Mường rất ưa thích. Măng đắng, lá,
hoa, quả đu đủ không chỉ là những món ăn thường ngày mà con là
món để thờ phụng trong nhiều nghi lễ dân gian. Ngoài ra còn có rau
đốm, lá kịa, vừa là thức ăn, vừa là thuốc đau bụng. Đặc biệt, ruột và
dạ dày con Don vừa là vị thuốc chữa đau dạ dày vừa là món ăn quý
hiếm.
Gắn với vị cay, người Mường có món Ớt nổi tiếng. Ớt được băm lẫn
với lòng cá hay đầu, tiết luộc, ruột cắt nhỏ của con già, vịt. Băm nhỏ
cho tất cả lên màu nâu sẫm, cắt nhỏ vài loại rau thơm trộn vào là
được món ớt.
Người Mường thích bày cỗ trên lá chuối trong tất cả những bữa cỗ
cộng đồng như lễ hội, cưới xin, tang ma hoặc lễ cúng lớn trong năm;
về cách bày trí món ăn : phần ngọn và mép lá tượng trưng cho
Mường Sáng- mường của người sống, phần gốc lá và mang lá tượng
trưng cho Mường Tối- Mường ma, mường của người chết.( quy tắc:
người vào, ma ra) tức là khi dọn cooxx cho người sống, phần ngọn lá
hướng vào trong phần gốc lá hướng ra ngoài, khi don cỗ cho người
ma thì ngược lại.
Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị
đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc
vui tập thể.

Người Mường thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ.
Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá trải đều cho khỏi nát trước khi ăn.
Món rau đồ được ăn kèm mới nước chấm ớt lòng cá. Nước chấm
được làm khá cầu kỳ, là sự kết hợp của nhiều nguyên liệu đầy màu
sắc: màu vàng của gừng, màu đỏ của ớt, cà chua, màu xanh của thì
lá hành lá, màu trắng của mẻ.
Trên mâm cỗ cúng vào ngày giỗ, ngày lễ tết của người Mường không
thể thiếu món cá. Món cá được chế biến thành nhiều món nhưng
món cá đặc trưng của người Mường được gọi là ốt đồ. Cá được ướp








với nhiều loại gia vị như muối, tiêu, gừng giã nhỏ. Củ xả, ớt thái thật
nhỏ, gừng giã nhuyễn được trộn lẫy với nhau rồi nhồi vào bụng cá.
2.2. Văn hóa tinh thần
- Tín ngưỡng:
Người mường theo đạo Phật,Thiên Chúa. nhưng có sự khác biệt ở
người theo đạo Phật là mọi nghi lễ đều phải có chủ lễ là thầy mo chủ
trì.- Lễ hội:
Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Sắc bùa, hội xuống
đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8
âm lịch), lễ cơm mới...
Hát sắc bùa hay xéc bùa (có nghĩa là xách cồng) là lễ hội lớn của
người Mường, đặc biệt là người Mường miền Hòa Bình, diễn ra hàng
năm vào ngày Tết cổ truyền của dân tộc Mường. Đây là một hình

thức diễn xướng dân gian, gắn với một số nghi lễ trong nông nghiệp
nhằm cầu mong một năm mới phát tài thịnh vượng, đất đai màu
mỡ, mùa màng bội thu, con người may mắn và dồi dào sức khỏe.
Thời gian tổ chức hội từ mùng một tết trở đi, kéo dài một tuần lễ, có
khi đến nửa tháng. Theo tục lệ của người Mường, phường bùa sẽ đi
thăm nhiều nhà và hát những lời chúc tết.
Nét đặc sắc và cuốn hút của loại hình diễn xướng dân gian này là tất
cả mọi hành động, cử chỉ, thái độ đều biểu hiện qua lời hát. Mọi trình
tự diễn ra trong suốt buổi hát sắc bùa đều có câu hát tương ứng,
người ta không phải dừng lại để nói hay hướng dẫn. Hát mở cổng,
hát chúc mừng, hát xin lên nhà, hát đồng ý, hát cảm ơn… Độc đáo
nhất là màn hát đối đáp của phường bùa và chủ nhà, thể hiện cái tài
và khả năng ứng tác của cả hai bên. Những câu hát đều do sự ngẫu
hứng của cả hai bên trên nền tảng của truyền thống dân ca Mường
và thực tế bối cảnh tại nơi xảy ra cuộc sắc bùa.
Lễ hội xuống đồng (khuống mùa) của người Mường: Đây là một lễ
hội rất phổ biến của người Mường xưa, giống như lễ hội lồng tồng
của người Tày- Nùng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang…mục đích
của lễ hội là để cầu cho mùa màng của một năm mới thịnh vượng,
may mắn. đồng thời, việc thực hành những nghi lễ cầu mùa cũng là
dịp để người Mường nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và bày tỏ những ước
vọng của mình về một cuộc sống tươi đẹp và yên bình. Lễ hội này
thường diễn ra vào dịp đầu xuân, như vùng Mường Bi, xóm Lũy
huyện Tân Lạc, vùng mường Chiềng, Mường Tôm, xã Tân Lập, huyện
Lạc Sơn….
Lễ hội Đâm đuống hay chàm đuống của dân tộc Mường; Theo tiếng
Mường "đuống" là máng gõ để giã lúa và "chàm" là đâm. Thực chất
là hình thức giã gạo nhưng giã gạo trong lễ hội, có tính chất tổ chức
và nghệ thuật. Thường tổ chức vào tết Nguyên đán, thường kết hợp
với các lễ hội trong năm mới khác.







Trong lễ hội, người phụ nữ nhiều tuổi nhất trong nhà đứng đầu cối,
giã ba tiếng mở màn. Thành ba tiếng "Kênh, kenh, kinh", làm sao giã
thành ba âm thanh trên là một đặc điểm của nghệ thuật. Chày của
người khai mạc như thế gọi là "chày cái". Sau đó đến con gái và cháu
gái giã trong nhà, gọi là "chày con" và "chày cháu". Nhịp điệu phải
giữ đúng, cùng hòa âm nhịp nhàng với hàng trăm chày khác. Người
Mường quan niệm âm thanh "Kênh, kenh, kinh" của cối đuống, là
điệu hát "Vui xuân mới, vui xuân mới" hoặc "cơm cơm trắng, cơm
cơm trắng". Theo nhịp âm thanh đâm đuống mau hay chậm mà
tiếng chày chuyển điệu sang âm thanh khác nhau, có nhịp hai xen
nhịp ba. Khi nhịp đôi, tất cả chày trong làng đều cùng đổi, chẳng hạn
kêu "kênh, kinh, kênh, kinh" hay "kênh kênh kinh, kênh kinh" "kinh
kinh, kinh kinh".
Lễ hội đoọc moong hay hội đi săn thú rừng là một lễ hội của người
đồng bào dân tộc Mường. Đoọc nghĩa đen là đâm, mở rộng nghĩa là
săn. Ngôn ngữ Tày - Thái cổ có một âm tương tự là toọc nghĩa là
đóng, mở rộng nghĩa là trồng. Moong còn gọi là Muông, là từ chỉ các
loài thú 4 chân. Hội Đọc Moong là hội đi săn các loài thú rừng.
Thường diễn ra ngày 6 tháng giêng, cách tính ngày của người
Mường xưa lùi một ngày so với người Việt.
Trong ngày hạ nêu có lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng). Sau lễ mọi người
bắt đầu vào rừng hái lượm và săn bắt thú. Người trong Mường
không phân biệt trẻ già trai gái, ai có có sức khỏe, cùng kéo nhau đi.
Một người săn trùm săn cùng các cụ già chọn điểm săn. Mọi người

bắt đầu vào cuộc săn, tiếng cồng săn, tiếng hò reo, tiếng chó sủa, tạo
không khí tưng bừng. Thú rừng bị dồn dần vào một nơi, chỉ đợi thú
chạy vào tầm ngắm là nổ sung. Cuộc săn chấm dứt bằng hiệu lệnh
cồng, các con thú được khiêng đến một miếu lớn bằng gỗ, dựng ở
xóm Lý, thờ Đức Tản Viên. Cùng mổ con thú săn được dâng lễ tế
Thánh Tản. Thầy mo thay mặt mọi người, làm lễ khấn Thánh Tản
phù trợ mùa màng tươi tốt. Nhỡ không được thú gì, dân Mường tỏ ý
buồn cho việc xuất hành đầu năm. Đành phải chọn một con bò hay
thú rừng tế Thánh Tản. Sau đấy, họ mổ con vật ra lấy thịt chia đều
cho tổng số người và chó.
Ý nghĩa: Lễ hội đi săn thành ngày hội văn hóa chứa đựng nhiều yếu
tố sinh hoạt cộng đồng hấp dẫn như đánh chiêng, leo núi, vui hò,
uống rượu cần, thi tài bắn nỏ, bắn súng, đâm lao... giúp con người
Mường hiểu biết lẫn nhau và sống gắn bó với nhau hơn trong một
cộng đồng.
Trò chơi dân gian:
Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò
chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném
còn, v.v... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức


-

-

-

linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện
lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò
đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

• Văn nghệ dân gian:
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có
các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ.
Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát
trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường, ngoài ra
còn nhị, sáo trống, khèn lù
Văn học dân gian:
• Đẻ đất đẻ nước
Đẻ đất đẻ nước là bộ sử thi lớn, kể về gốc tích và công cuộc đấu
tranh của người Mường ở thời đại rất xa xưa, chứa đựng những
quan niệm người Mường cổ về việc hình thành trời đất, tạo lập thế
giới.
• Chim Ây, Cái Ứa
Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình,
dân gian Mường ở Hòa Bình còn lưu giữ và truyền kể những huyền
thoại về sự xuất hiện dân tộc mình dưới dạng những áng Mo (những
truyền thuyết đó được lưu truyền chủ yếu dưới dạng các bản mo hát
với phiên bản dài ngắn khác nhau).
Ngoài ra còn có nhiều truyền thuyết khác như: truyền thuyết về đức
thánh Tản Viên, truyền thuyết Đẻ Giang…
Tục lệ cưới xin
Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn
bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo
thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ
nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu
đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè
mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít
khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo),
trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô
dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2

vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái
đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà
trai biếu cô dì, chú bác.
Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ,
ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Khi trong nhà có người sinh nở, người
Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một
tuổi mới đặt tên.
Ma chay
Khu mộ đá Đống Thếch ở Kim Bôi, Hòa Bình, tương truyền là nơi chôn
cất các quan lang người Mường)
Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào
khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài


người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào
trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy
rồng bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cái trong nhà
không khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang
ông bà, cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt ma.
Khi người con trai trong gia đình ấy chống gậy tre thì gia đình ấy có bố
mất, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.
Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế
quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải
mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng
trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa,
tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía
trước đặt một chiếc ghế mây.
III.


Vai trò của văn hóa Thái, Mường trong sự hình thành
văn hóa vùng Tây Bắc
Nhìn chung, vùng Tây Bắc là nơi cư trú của hai tộc người chính là người Thái
và người Mường. Vì vậy, văn hóa Thái Mường có ảnh hưởng lớn đến việc hình
thành văn hóa vùng Tây Bắc cũng như ảnh hưởng đến văn hóa các tộc người
khác trong vùng. Đời sống kinh tế- văn hóa- xã hội gắn bó và hòa đồng với thiên
nhiên, các ngành nghề thủ vông tinh sảo, phản ánh sáng tạo của văn hóa của
mỗi tộc người . Kho tàng tri thức dân gian phong phú được đúc kết qua nhiều
thế hệ liên quan đến cá hoạt động sản xuất, làm ăn, bảo vệ môi trường thức sự
là tài sản quý trong hành trang của mỗi tộc người, làm nên bản sắc tộc người.
Văn hóa dân gian phong phú đa dạng , giàu bản sắc góp phần tạo nên vùng văn
hóa Tây Bắc đặc trưng rõ nét



×