Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Luận văn " ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á - ÂU " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.75 KB, 110 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
4



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA
TIẾN TRÌNH ASEM TRONG
VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN
HỆ Á - ÂU
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
5

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KHU VỰC HOÁ VÀ LIÊN KẾT KINH
TẾ KHU VỰC TẠI CHÂU Á-CHÂU ÂU
4
I. Những vấn đề cơ bản về khu vực hoá
4
1. Khu vực hoá là gì? 4
2. Những hình thức biểu hiện của khu vực hoá từ trước đến nay 6
2.1. Thoả thuận tự do thương mại 7
2.2. Đồng minh thuế quan 8
2.3. Thoả ước đầu tư 9
3. Mặt tích cực và tiêu cực của khu vực hoá 10
3.1. Mặt tích cực của khu vực hoá 10
3.1.1. Thúc đẩy thương mại 11


3.1.2. Thiết lập các khối kinh tế chuẩn bị liên kết đa phương 11
3.1.3. Tăng cường hợp tác và an ninh 12
3.2. Mặt tiêu cực của khu vực hoá 14
3.2.1. Chệch hướng thương mại 14
3.2.2. Sự liên kết đang phái gia tăng 15
3.2.3. Hậu quả liên quan đến toàn cầu hoá 16
3.2.4. Đe doạ của các ngoại lệ 16
3.2.5. Chi phí giao dịch 17
4. Mối quan hệ giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá 17
II. Một số các liên kết kinh tế khu vực chủ yếu ở khu vực Á-Âu 19
1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN 19
2. Liên minh châu Âu-EU 25
3. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương-APEC 28
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
6

CHƯƠNG II: ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC
THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á-ÂU

33
I. ASEM 33
1. Hoàn cảnh ra đời 33
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM 34
2.1. Mục tiêu 34
2.2. Nguyên tắc hoạt động
35
2.3. Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM 36
3. Những cơ hội và thách thức của ASEM trong thời gian tới 45
3.1. Những cơ hội 45
3.2. Những thách thức 45

II. Tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu 46
1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu 46
2. Hợp tác kinh tế ASEM 48
2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác 48
2.1.1. Mục tiêu
48
2.1.3. Nguyên tắc
49
2.2. Lĩnh vực hợp tác 49
2.2.1. Thuận lợi hoá thương mại 50
2.2.2. Chương trình hành động xúc tiến đầu tư 54
2.2.3. Xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp 56
2.2.4. Viễn cảnh ASEM 57
2.2.5. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác 58
CHƯƠNG III: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM
60
I. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 60
1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 60
1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập 60
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế
quốc tế
62
2. Vài nét về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 66
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
7

3. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
71
3.1. Những cơ hội đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 71

3.2. Những thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
74
II. Việt Nam trong tiến trình ASEM 76
1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM 76
2. Những hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong ASEM 77
3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM 80
3.1. Những cơ hội 80
3.2. Những thách thức 81
III. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM 82
1. Về nhận thức, tư tưởng 82
2. Về xây dựng nội dung tiến trình ASEM 84
3. Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước 85
4. Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tiến trình
ASEM
87
5. Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia
trong tiến trình ASEM
90
KIẾN NGHỊ-ĐỀ XUÂT
92

KẾT LUẬN

PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các rào cản thương mại trong ASEM
Phụ lục 2: Danh mục các dự án hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ
Phụ lục 3: Các biện pháp đầu tư hiệu quả nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
Phụ lục 4: Viễn cảnh ASEM


TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
8

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KHU VỰC HOÁ VÀ
LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC TẠI CHÂU Á-CHÂU ÂU
I. Những vấn đề cơ bản về khu vực hoá
1. Khu vực hoá là gì ?
Ngay những năm đầu của thập niên 70, các học giả đã bắt đầu trăn trở về những
sự kiện kinh tế diễn ra trên thế giới. Và không cần chờ đến đầu thập niên 80 hay
90 của thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về vấn đề khu vực hoá ngày càng
trở nên rõ nét khi các liên kết kinh tế khu vực được hình thành ngày một nhiều
như Khu vực tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Liên minh EU…
Theo kinh tế học cổ điển về lợi thể so sánh, hầu hết các quốc gia đều có thể có
lợi khi trao đổi buôn bán với các nước khác
1
. Thực tế cũng chứng minh rằng tự
do hoá thương mại giúp cho các quốc gia phát triển và từ đó giúp cho nền kinh
tế của quốc gia đó tăng trưởng. Chính vì vậy, các quốc gia theo dòng chảy này
tự nguyện tham gia vào cơ chế tự do hoá thương mại quốc tế dưới sự bảo trợ của
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Mục đích cuối cùng của cơ chế này là giảm rào cản thương
mại trên cơ sở các bên cùng có lợi.
Khu vực hoá cũng được hình thành trên nguyên lý tương tự. Sự khác biệt đầu
tiên của khu vực hoá so với toàn cầu hoá chính là nhằm giảm rào cản thương
mại giữa các nước trong cùng một khu vực. Hình thức khu vực hoá có thể dề
thấy nhất là các Khu vực mậu dịch (Regional Trade Area-RTA). Trong khu vực

mậu dịch tự do các nước có thể được hưởng những ưu đãi thương mại do các

1
David Ricardo, Nguyên lý về Kinh tế chính trị và Thuế (1987)
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
9

nước trong cùng khu vực tự thoả thuận. Điều này thường xảy ra là do các nước
trong cùng một khu vực thường có sự gần gũi về mặt địa lý và do đó thường
buôn bán với nhau một khối lượng lớn hàng hoá. Vì vậy các nước nằm ngoài
khu vực sẽ không được hưởng những ưu đãi như các nước trong một khu vực.
Vì vậy khu vực mậu dịch là một trong những ngoại lệ trong các nguyên lý cơ
bản dễ thấy nhất của WTO, cho phép các quốc gia thành viên được hưởng đãi
ngộ quốc gia (Most Favored Nations - MFN). Theo MFN, tất cả các quốc gia
thành viên trong WTO được đối xử như nhau hay không có sự phân biệt đối xử
giữa các quốc gia. Tuy nhiên, trong khu vực mậu dịch nguyên tắc này có sự thay
đổi. Chẳng hạn, giả sử Mexico đánh thuế hoa hồng ở mức 10%. Theo MFN,
Mexico phải đánh mức thuế hoa hồng như nhau đối với tất cả các thành viên của
WTO. Tuy nhiên, do Mexico ký Hiệp định Tự do hoá thương mại Bắc Mỹ
(North American Free Trade Agreement-NAFTA) với Canada và Hoa Kỳ,
Mexico có thể đánh một mức thuế hoa hồng thấp hơn 10% cho Canada và Hoa
Kỳ.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý một điều rằng một khi khu vực mậu dịch được thiết
lập thì tổng luồng thương mại được hưởng ưu đãi bên trong khu vực mậu dịch
không phải lúc nào cũng lớn như trong ví dụ trên. Thứ nhất, nhiều mức thuế đã
được ấn định trong khung của MFN tại mức zero. Thứ hai, bởi vì người ta
thường có khuynh hướng loại bỏ các phần tử nhạy cảm trong khu vực mậu dịch
chẳng hạn như nông nghiệp, điều này có thể làm giảm tới mức tối thiểu mức ưu
đãi có thể đạt được. Một vài nước thậm chí đã chọn hướng loại bỏ thoả thuận tự
do thương mại vì mức thuế trong MFN còn thấp hơn so với chi phí để có thể

trang trải các gánh nặng về thủ tục và luật lệ hành chính của nước sở tại. Hơn
nữa, hầu hết các khu vực mậu dịch đều có thời kỳ chuyển đổi khoảng 10 năm để
cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm mang tính nhạy cảm hơn và trì hoãn
bất kì ảnh hưởng thực tế nào đối trong một khoảng thời gian đáng kể.
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
10

Nhìn chung, khu vực hoá còn được ưa chuộng hơn toàn cầu hoá nếu xét về
chính trị.
2. Các hình thức biểu hiện của khu vực hoá từ trước đến nay
Tháng 3 năm 2002, có tới 168 khu vực mậu dịch đã được hình thành và đi vào
hoạt động trên toàn thế giới. Xét về mặt lịch sử, khu vực hoá lần đầu tiên xuất
hiện vào những năm 1950 và được khuấy động bởi sự hình thành của Cộng đồng
chung châu Âu (EU) vào năm 1957. Tuy nhiên vào lúc đó, liên kết kinh tế khu
vực không vượt khỏi lãnh địa châu Âu. Trên thực tế, khu vực hoá “thực sự” mới
được hình thành cách đây trong vòng 10 năm trở lại đây. Chẳng hạn, WTO được
thành lập vào tháng 1 năm 1995, 125 khu vực được công bố có trong danh sách
của WTO với mức công bố trung bình hàng năm là 15. Cũng chính tại thời điểm
WTO được thành lập, khu vực hoá càng ngày càng phát triển. Đây cũng là điểm
đối lập cơ bản khi so sánh khu vực hoá khi WTO ra đời với tiền thân GATT
2

vào giai đoạn trước năm 1955. Các hình thức khu vực hoá ngày càng đa dạng,
thậm chí có những nước là thành viên của một vài liên kết kinh tế khu vực. Vì
thế, có thể nói khu vực hoá đã và đang trở thành một nhân tố kết nối toàn cẩu.
Vể mặt địa lý và lịch sử, khu vực hoá bắt nguồn từ châu Âu, gần 60% liên kết
khu vực do WTO công bố vào cuối năm 2000 là các nước châu Âu.
Những liên kết khu vực ngày nay được biết đến nhiều nhất là: EU, Hiệp hội Tự
do thương mại châu Âu (the European Free Trade Association-EFTA), Hiệp
định tự do thương mại Bắc Mỹ (the North American Free Trade Agreement-

NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South East Asian
Nations - ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade
Area-AFTA) và nhiều tổ chức khác.

2

Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
11

Một điểm quan trọng nữa cần lưu ý là các liên kết kinh tế khu vực không chỉ là
một hiện tượng giới hạn đối với các nước phát triển mà còn lan rộng tới các
nước đang phát triển. Trên thực tế, các nước đang phát triển chiếm tới 30-40%
tổng số các liên kết kinh tế khu vực hiện đang hoạt động. Trong các vòng đàm
phán, các nước đang phát triển tìm cách nới rộng hợp tác với nhau. Tuy nhiên,
trong các cuộc thương lượng gần đây, các khu vực mậu dịch tự do được hình
thành giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đây thực sự là một
khuynh hướng mới. Chẳng hạn như sự liên kết giữa Jordan với Hoa Kỳ, Mexico
và EU… là những ví dụ điển hình.
Thậm chí giữa các nước đang phát triển, khu vực hoá cũng có sự khác biệt đáng
kể. Khu vực hoá ở các nước Tây Á, Đông Nam Á, Mỹ Latin cũng có sự khác
biệt lớn nếu đem so sánh với khu vực hoá ở Châu Phi. Các nước châu Phi khi
tạo nên liên kết khu vực thường chú trọng vào các hiệp định chung về thuế quan
và các thị trường chung, và thời gian để diễn ra liên kết khu vực thường từ 20-30
năm. Thường thì châu Phi không có các liên kết kinh tế khu vực dựa trên các
mối quan hệ song phương. Ngược lại, các nước Tây Á và Đông Nam Á ngày
nay quan tâm hơn tới mục tiêu thành lập các khu vực mậu dịch tự do.
Khoảng cách địa lý cũng đóng một vai trò quan trọng đối với khối lượng thương
mại giao dịch cũng như việc hình thành nên các liên kết khu vực. Chẳng hạn
như trường hợp của châu Phi và Nam á, 95% xuất khẩu của các khu vực này là
từ khu vực bên ngoài. ở bán cầu phía Tây, thương mại của hầu hết các nước Mỹ

Latinh cũng khá đa dạng. Nếu không tính đến Mêhicô, khoảng 55% xuất khẩu
của Mỹ Latinh được xuất khẩu sang nửa còn lại của bán cầu. Điều này chứng tỏ
những ưu tiên do thương mại đem lại có thể vượt ra khỏi giới hạn địa lý. Một vài
ví dụ có thể là: Mêhicô-Israel, Canađa-Chilê, Hàn Quốc-Chilê.
2.1. Thoả thuận Tự do Thương mại (Free Trade Agreement-FTA)
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
12

Thoả thuận tự do thương mại theo WTO/GATT đặc biệt được hiểu là một khu
vực trong đó bao gồm ít nhất 2 lãnh thổ hải quan trở lên được hình thành khi
thuế và các quy định ngặt nghèo về thương mại được loại bỏ một cách đáng kể
3
.
Tháng 3/2002, hình thức phổ biến nhất của khu vực mậu dịch là các Thoả thuận
tự do thương mại- chiếm tới 70% . Trong số này, khoảng hơn nửa số Thoả thuận
tự do thương mại này là các thoả thuận song phương giữa 2 nước. Chính vì vậy,
Thoả thuận tự do thương mại đại diện cho giai đoạn đầu của khu vực hoá so với
Hiệp định chung về thuế quan.
Hình thức khu vực mậu dịch tự do với mục đích đạt được các thoả thuận về tự
do hoá thương mại không có những đòi hỏi mang tính rườm rà trong quá trình
hội nhập nên được hình thành một cách dễ dàng hơn và ngày càng trở nên phổ
biến. Khu vực mậu dịch tự do vì thế tạo động lực cho khu vực hoá phát triển như
một khối thống nhất kể từ khi WTO được thành lập vào năm 1995. Nhìm chung,
các chuyên gia cho rằng khu vực mậu dịch tự do vẫn phổ biến nhất ở châu Âu
trong khoàng 5 năm tới. Hiện nay, cũng cần lưu ý một điều rằng khu vực mậu
dịch tự do chủ yếu được hình thành giữa các nước phát triển và đang phát triển
dựa trên theo hướng Bắc-Nam hơn là theo hướng cổ điển Bắc-Bắc, Nam-Nam.
Có thể thấy một trong những khu vực mậu dịch tự do Bắc-Nam thành công nhất
điển hình là NAFTA.
Khu vực mậu dịch tự do cũng thường có các quá trình hoà giải. Vì vậy, quy trình

hoà giải tiến tới hình thành khu vực hoá thường hoặc là bản sao của quy trình
hoà giải của WTO hay nếu đã được hoà giải sớm thì nó có thể làm dịu bớt
những gánh nặng hành chính do WTO đem lại. Một vấn đề khác cần chú trọng
là các cơ quan hoà giải được thành lập dưới khu vực mậu dịch thường bị chia
theo số thành viên của các quốc gia, do đó, cơ hội hoà giải bị hạn chế.
2.2. Đồng minh thuế quan (Custom Union)

3
Điều XXIV, Đoạn 8(b), GATT 1994
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
13

Trong khu vực mậu dịch, Đồng minh thuế quan tiến một buớc xa hơn so với
Khu vực mậu dịch tự do. Đồng minh thuế quan không chỉ đòi hỏi việc cắt giảm
một cách đáng kể mức thuế bên trong các quốc gia thành viên mà còn tạo ra một
mức thuế riêng làm hài hoà chính sách thương mại đối với các quốc gia không
phải là thành viên
4
. Một trong những ví dụ điển hình về Đồng minh thuế quan
ngày nay vẫn còn tồn tại là Liên minh châu Âu EU. Trong điều kiện các mức
thuế đều do GATT quy định, đồng minh thuế quan đòi hỏi một mức thuế chung
bên ngoài để đảm bảo rằng mức thuế này giảm xuống mức thấp nhất và là mức
thuế ưu đãi nhất khi có đồng minh thuế quan. Từ đó, các quốc gia thành viên sẽ
có thể tự do hoá cơ chế thương mại một cách đáng kể để có thể đạt đến một mức
thuế chung. Có thể lấy một ví dụ cụ thể trong khu vực đồng minh thuế quan như
EU để minh hoạ. Nước hoa được nhập khẩu vào khu vực EU từ các quốc gia
không phải là thành viên của EU cũng sẽ chịu một mức thuế như đối với các
quốc gia thành viên.
Chính vì lí do này, thời gian cần thiết để thương lượng mức thuế chung cho tất
cả các quốc gia sẽ làm cho việc quá trình hình thành các đồng minh thuế quan

thường mất nhiều thời gian hơn để thương lượng. Thông thường đồng minh thuế
quan thường chiếm khoảng 9% trong khu vực mậu dịch. Vì thế, quy trình này
thường được xem như một giai đoạn phát triển hơn của hội nhập kinh tế tiến tới
tự do hoá thương mại dựa trên các quan hệ đa phương. Từ cơ sở nghiên cứu này
nhiều người cho rằng để toàn cầu hoá cần hạn chế các khu vực mậu dịch tự do
một cách tối đa đồng thời khuyến khích hơn nữa các Đồng minh thuế quan.
2.3. Thoả ước đầu tư
Một hình thức khác của khu vực hoá là các Thoả ước đầu tư. Dưói hình thức
này, đầu tư của các quốc gia và các công ty từ một quốc gia thành viên sẽ được
hưởng một mức đãi ngộ chung theo nguyên tắc NT và MFN. Mức đãi ngộ này

4
Điều XXIV, Đoạn 8 (a), GATT 1994
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
14

không chỉ được hưởng ở giai đoạn phải thực hiện các nghĩa vụ như nghĩa vụ sử
dụng sản phẩm nội địa hay nghĩa vụ phải xuất khẩu các sản phẩm trong nước. Vì
vậy, thoả ước đầu tư không chỉ được đàm phán dựa trên cơ sở song phương và
đa phương giữa một vài bên tham gia mà còn chủ yếu nhấn mạnh vào đầu tư.
Theo Thoả ước đầu tư. hầu hết các bên tham gia còn đưa ra ưu đãi đối với một
số ngành đối với các quốc gia được hưởng đãi ngộ quốc gia-MFN. Những ưu
đãi đối với một số ngành thường được tạo ra nhằm phục vụ lợi ích chính trị và
làm giảm sự ảnh hưởng của NT và MFN do luật của quốc gia đó mang lại.
Những ưu đãi này thường được dành cho các ngành như hàng không, vận tải
biển, ngân hàng, bảo hiểm, điện.
Thoả ước đầu tư hiển nhiên nhấn mạnh tới các quy tắc đối với nước đầu tư.
Những quy tắc đầu tư của các nước chủ đầu tư tất nhiên phải phù hợp với thông
lệ quốc tế. Nói một cách khác các quy tắc này phải phục vụ cho lợi ích chung
của cộng đồng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nếu vi phạm quy tắc

này, các nước chủ đầu tư sẽ phải bồi thường một khoản tiền tuỳ theo quy định
một cách tức khắc, kịp thời và hiệu quả. Đối với các khoản hồi hương, đầu tư
phải đảm bảo được phép chuyển một cách không hạn chế theo đồng tiền tự do
chuyển đổi. Đối với tranh chấp, các quốc gia và các công ty liên quan tới việc
tranh chấp đầu tư phải được đưa ra trọng tài quốc tế mà không cần xem xét tới
việc xét xử tại các toà án trong nước.
Mặc dù những sụ khác biệt so với Đồng minh thuế quan và Khu vực mậu dịch tự
do nhưng do có sự tương đồng về mục đích Hiệp ước đầu tư thực sự vẫn là hình
thức giúp khu vực hoá phát triển. Các Thoả ước đầu tư mang tính chất song
phương vẫn được xem như chất xúc tác của sự hợp tác chung và nhiều khu vực
mậu dịch tự do song phương.
3. Mặt tích cực và tiêu cực của khu vực hoá
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
15

3.1. Mặt tích cực của khu vực hoá
3.1.1. Thúc đẩy thương mại
Một trong những mặt tích cực của khu vực hoá có thể thấy một cách rõ nét là
hiệu quả của nó trong việc thúc đẩy thương mại. Thương mại của một nước
được thúc đẩy đặc biệt nước đó có lợi thế so sánh về một sản phẩm đặc trưng
nào đó đối với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ Braxin có lợi thế so sánh
về các sản phẩm làm bằng da so với các nước khác cùng khu vực như Chilê và
Argentina thì Chilê và Achentina sẽ phải giảm mức thuế về các sản phẩm làm
bằng da cùng mức với mức thuế đã có sản trong khu vực đó, tức là ngang bằng
với mức thuế của Braxin. Từ đây, có thể nói rằng thương mại đã được thúc đẩy
nhờ khu vực hoá vì Braxin từ đó sẽ có lợi từ việc từ việc xuất khẩu những sản
phẩm làm bằng da mang tính cạnh tranh hơn sang Chilê và Achentina. Với cách
hiểu này, lợi thế so sánh của một nước trong khu vực cũng sẽ thúc đẩy tự do
hoá thương mại. Như vậy, thúc đẩy tự do thương mại có thể được xem là một
trong những mặt tích cực nhất của khu vực hoá, và đặc biệt nó đem lại nhiều lợi

ích cho các quốc gia có lợi thế so sánh.
3.1.2. Thiết lập các khối kinh tế chuẩn bị liên kết đa phương
Theo dòng chảy lịch sử có thể thấy việc đàm phán thương mại đa phương bản
thân nó đã bao gồm những khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian để có thể thực
hiện. Điều này càng khó khi các thành viên của WTO ngày càng nhiều. Kể từ
vòng đàm phán Kennedy năm 1967, gần 100 quốc gia đã trở thành thành viên
của GATT/WTO. Theo cấp số nhân của con số này, số lượng sản phẩm, dịch vụ
và các vấn đề liên quan đến việc đàm phán và những khó khăn thực tế sẽ gặp
phải là không thể đo được. Chính vì lí do này, việc thiết lập các khối kinh tế như
Liên minh châu Âu, châu Mỹ và châu á là rất cần thiết và hiệu quả để có thể đạt
tới mục đích cuối cùng là tự do hoá thương mại toàn cầu. Bằng cách này, việc
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
16

thương lượng để đạt được tự do hoá thương mại sẽ được tiến hành dễ dàng và
nhanh hơn rất nhiều.Chẳng hạn như việc đàm phán ba bên thì hiển nhiên sẽ đơn
giản hơn so với 150 quốc gia cùng nhau ngồi vào bàn đàm phán và mỗi nước
thuộc 150 quốc gia này lại đưa ra những lợi ích và chương trình nghị sự khác
nhau của mình.
Sự nhất trí trong cùng một khu vực được tiến hành trên cơ sở song phương và đa
phương sẽ tạo đà cho cho tự do hoá thương mại. Nhiều người cho rằng những
vấn đề phức tạp mang tính chính sách chẳng hạn như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ, chiến lược cạnh tranh, tiêu chuẩn kỹ thuật, nguồn thu của chính phủ…nên
được giải quyết trên cơ sở nhất trí và theo cùng một hướng hơn là theo sở thích
và nguyện vọng khác nhau của nhiều quốc gia. Tại đây, khu vực hoá đóng vai
trò là một nhân tố thức đẩy sự tăng trưởng cũng như cầu cho việc xuất khẩu đối
với các quốc gia thuộc cùng một khối.
Theo một cách hiểu khác, những ưu đãi do khu vực hoá đem lại cũng có thể giúp
cho việc thiết lập một cơ chế bên trong cho hệ thống thương mại đa phương.
Nhiều quốc gia vướng phải những rào cản chính trị trong việc thiết lập tự do hoá

thương mại. Những quốc gia này sẽ cảm thấy dễ dàng hơn trong việc đàm phán
với các nước trong cùng khu vực so với các nước xa cách về mặt địa lý. Điều
này cũng dễ hiểu vì việc đàm phán đối với một quốc gia khác trong cùng một
khu vực thường đạt được sự tương đồng về nhiều mặt trong đó có cả những vấn
đề về chính trị. Một khi những quốc gia này vượt qua những trở ngại về chính trị
thì họ có thể dễ hoà mình mở cửa thúc đẩy quá trình đàm phán đa phương.
Ngoài việc cắt giảm thuế quan, việc tăng cường các hàng rào phi thuế trên toàn
cầu cũng khẳng định cho việc hội nhập khu vực là một trong những con đường
nhiều quốc gia theo đuổi và lựa chọn. Các hàng rào phi thuế khó có thể thương
lượng và vì vậy thông qua hiểu một cách thấu đáo những vấn đề thuế các quốc
gia có thể hội nhập một cách dễ dàng hơn. Những nước trước đây đã từng không
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
17

tán thánh khu vực hoá như Mỹ giờ đây bắt đầu thay đổi quan điểm của mình và
khẳng định rằng những lợi ích tổng thể do khu vực hoá đem lại thông qua việc
thiết lập các khối kinh tế sẽ thúc đẩy tự do hoá thương mại đa phương.
3.1.3. Tăng cường hợp tác và an ninh
Hội nhập kinh tế khu vực thông qua khu vực hoá được coi là một công cụ giúp
cho việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Ví dụ như Liên Xô cũ trước đây, sự sụp đổ về
mặt chính trị dần dần được phục hồi nhờ sự liên kết kinh tế khu vực và liên kết
kinh tế khu vực đóng vai trò như một sợi dây liên kết giúp cho việc duy trì
thương mại và quan hệ của các nền cộng hoà khác nhau. Hiện nay, Nga,
Kazakhanstan, Belarus, Kyrgyzstan và Tạiikistan là các thành viên của Hiệp
định chung về thuế quan có tên là Cộng đồng Kinh tế á-Âu (Eurasian Economic
Community-EURASEC) được ký kết vào năm 2000. Khi các quốc gia càng liên
kết chặt chẽ với nhau bao nhiêu, sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn, nhờ đó, các
quốc gia này sẽ phải cùng nhau giữ gìn hoà bình và tăng cường an ninh. Như
vậy, xét về quan hệ quốc tế, sự bất ổn về chính trị thường bắt nguồn từ những
xung đột khu vực giữa các nước láng giềng với nhau do có sự bất đồng về tôn

giáo, lịch sử và văn hoá. Bằng cách thúc đẩy sự ổn định về chính trị trong khu
vực trước, các quốc gia có cơ sở vững chắc cùng nhau hợp tác để đạt được
những lợi ích về kinh tế. Đây cũng là một trong những bước quan trọng nhất
trong việc hoạch định các chính sách tự do hoá thương mại đa phương.
Một trong những mặt tớch cực của khu vực hoỏ cú thể thấy một cỏch rừ nột là
hiệu quả của nú trong việc thỳc đẩy thương mại. Thương mại của một nước
được thúc đẩy đặc biệt nước đó có lợi thế so sánh về một sản phẩm đặc trưng
nào đó đối với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ Braxin có lợi thế so sánh
về các sản phẩm làm bằng da so với các nước khác cùng khu vực như Chilê và
Argentina thỡ Chilờ và Achentina sẽ phải giảm mức thuế về cỏc sản phẩm làm
bằng da cựng mức với mức thuế đó cú sản trong khu vực đó, tức là ngang bằng
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
18

với mức thuế của Braxin. Từ đây, có thể nói rằng thương mại đó được thúc đẩy
nhờ khu vực hoá vỡ Braxin từ đó sẽ có lợi từ việc từ việc xuất khẩu những sản
phẩm làm bằng da mang tính cạnh tranh hơn sang Chilê và Achentina. Với cách
hiểu này, lợi thế so sánh của một nước trong khu vực cũng sẽ thúc đẩy tự do
hoá thương mại. Như vậy, thúc đẩy tự do thương mại có thể được xem là một
trong những mặt tích cực nhất của khu vực hoá, và đặc biệt nó đem lại nhiều lợi
ích cho các quốc gia có lợi thế so sỏnh.
3.2. Mặt tiêu cực của khu vực hoá.
3.2.1. Chệch hướng thương mại
Đối lập với thúc đẩy thương mại, chệch hướng thương mại lại là một khuynh
hướng được xảy ra đồng thời với quá trình khu vực hoá. Chệch hướng thương
mại sẽ xảy ra khi một quốc gia có lợi thế so sánh nhưng không thể sử dụng được
lợi thế so sánh của mình. Cùng một ví dụ, có thế thấy nếu Braxin có lợi thế so
sánh về các sản phẩm làm bằng da nhưng Chilê và Achentina lại cùng nhau liên
kết và buôn bán thì chệch hướng thương mại sẽ xảy ra với Braxin khi Chilê mua
các sản phẩm làm bằng da của Achentina thay vì Braxin. Điều này hoàn toàn có

thể xảy ra khi các sản phẩm da của Achentina được xuất khẩu sang Chilê không
bị đánh thuế trong khi đó các sản phẩm da của Braxin vẫn đánh một mức thuế
nhất định. Hiển nhiên Braxin cho dù có lợi thế so sánh về sản phẩm da đến đâu
thì trong trường hợp này rất có thể không thể cạnh tranh được với các sản phẩm
da của Achentina.
Hình thức chệch hướng thương mại hoàn toàn đối lập với những nguyên tắc về
tự do hoá thương mại tổng thể. Chệch hướng thương mại bóp méo sự phân bổ
nguồn lực. Các nhà sản xuất kém hiệu quả trong cùng một khu vực lại có thể
được hưởng lợi từ việc các nhà sản xuất kém hiệu quả nằm ngoài sự liên kết đơn
lẻ. Như thế, có thể thấy việc so sánh để thấy được lợi ích của khu vực hoá đem
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
19

lại do thúc đẩy thương mại hay chệch hướng thương mại là một công việc khó
có thể lượng hoá được. Hiển nhiên, lợi ích mà khu vực hoá đem lại cho các quốc
gia chỉ có thể nằm ở việc thúc đẩy thương mại.
Tuy nhiên, lợi ích có được từ liên kết kinh tế khu vực thường thông qua thúc đẩy
thương mại thực sự được cuờng điệu do xét về tổng thể, mức thuế chung đã
được giảm một cách đáng kể. Chẳng hạn như sau Chiến tranh thế giới II, mức
thuế trung bình đã giảm từ 40% xuống còn dưới 4% sau vòng đàm phán
Uruguay năm 1994. Tương tự, triển vọng tăng cường thương mại dường như
cũng không được như mong muốn vì sự tương đồng về tài nguyên thiên nhiên
của các quốc gia mang những nét chung về địa lý trong cùng một khu vực.
3.2.2. Sự liên kết đảng phái gia tăng
Khu vực hoá cũng được coi là một mối đe doạ lớn đối với toàn cầu hoá. Tự do
hoá thương mại thường xảy ra dần dần ở khu vực hoá, tuy nhiên nếu không có
sự nỗ lực của tất cả các quốc gia thành viên thì cũng khó có thể đạt tới đích cuối
cùng. Khó có những liên kết kinh tế khu vực nào mà các quốc gia thành viên tự
nó chịu nhân nhượng để đạt tới thoả hiệp chung mong muốn. Khi một liên kết
khu vực càng lớn bao nhiêu, quyền lợi nó mang lại cho các quốc gia càng nhiều

bấy nhiêu và điều này khó để đạt tới sự nhất trí của các thành viên. Các nước
nằm trong cùng một khu vực sẽ đạt được lợi ích ít hơn khi hội nhập sâu hơn
trong khối. Liên minh châu Âu được coi là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, đây
cũng là một khối ngoại lệ vì các quốc gia thành viên trong khu vực này cùng
chia xẻ một hệ thống duy nhất về quy mô, tài nguyên, lịch sử và chính trị.
Hơn nữa, mặc dù được coi là một sự lựa chọn tốt cho công chúng, tự do thương
mại không tránh khỏi những vấn đề khó giải quyết mang tính bản chất do khu
vực hoá đem lại. Những quốc gia buộc phải tham gia vào khu vực mậu dịch tất
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
20

nhiên sẽ có ít động lực thúc đẩy khu vực đó phát triển. Khi khu vực đó càng
được mở rộng, nó sẽ tìm kiếm sự nhân nhượng từ những thành viên mới.
Một vài nước ở châu Phi và Trung Á cùng một lúc tham gia vào nhiều khu vực
mậu dịch đa phương. Ngoài sự khó khăn để có thể duy trì tư cách hội viên ở các
khối này, các nước này khó có thể giúp góp phần củng cố khu vực vì những
quốc gia này nhiều khi tham gia vào khối đó không đảm bảo được mục tiêu chủ
đạo mà khối đó vươn tới mà chỉ chạy theo mục đích riêng của mình. Tương tự
như vậy, các quốc gia với cùng mục tiêu và chính sách ngoại giao sẽ tìm thấy
những cơ hội từ đối tác của mình. Và như vậy, sẽ có những quốc gia còn lại nằm
ngoài lề, bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Từ thực tế này, nhiều bè phái, đảng phái sẽ
xuất hiện nằm ngoài sự mong đợi.
Thậm chí khi các nước phát triển và đang phát triển cùg nhau ký kết cùng tham
gia vào một khối, khối này cũng sẽ bị thống trị bởi các quốc gia có thế lực kinh
tế. Như vậy, nhìn chung có thể nói rằng khu vực hoá chia nhỏ thế giới ra làm
nhiều mảnh và nó làm cho việc thiết lập môi trường hợp tác thương mại đa
phương trở nên khó khăn.
3.2.3. Hậu quả mang lại liên quan tới toàn cầu hoá
Dù có ẩn chứa nhiều điều hứa hẹn, toàn cầu hoá vẫn có những mặt trái và gây ra
không ít khó khăn. Nhiều người tin rằng toàn cầu hoá làm tăng khoảng cách

giữa những nước giàu và nghèo và thậm chí làm tăng khoảng cách trong cùng
một quốc gia. Toàn cầu hoá cho phép cá công ty xuyên quốc gia có thể sử dụng
tính kinh tế theo quy mô của mình để lợi dụng những quốc gia khác yếu hơn. Nó
cũng đem đến nguy cơ về sự phụ thuộc của các quốc gia khác. Chính vì thế,
trong thế giới tổng là hằng số người ta thường nói rằng lợi ích của quốc gia này
chính là sự mất mát của quốc gia khác. Từ sự nghiên cứu này có thể thấy khu
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
21

vực hoá là một nhân tố giúp cho quá trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng hơn
và khuyếch đại những điểm yếu của toàn cầu hoá.
3.2.4. Đe doạ của các ngoại lệ
Các thoả hiệp ưu đãi thương mại là một sự lựa chọn thứ hai cần xem xét đến.
Mục đích cuối cùng của các quốc gia vẫn là tự do hoá thương mại cho các quốc
gia trên cơ sở toàn cầu hoá. Tuy nhiên, các khu vực mậu dịch có thể thấy vẫn là
ngoại lệ quan trọng duy nhất của quy tắc MFN của WTO. Nếu như tự do hoá
thương mại đa phương là mục đích cuối cùng thì những bước tiến mang tính
chất khu vực không còn nghi ngờ là cách thức làm chậm tiến độ toàn cầu hoá.
Theo cách này khu vực hoá sẽ dẫn tới những chi phí không cần thiết do những
nỗ lực về nguồn lực cho đàm phán và duy trì việc thực hiện những thương lượng
đã được thoả hiệp ở mức khu vực hoá sẽ là không cần thiết vì nó hiển nhiên sẽ
được đề cập trong các vòng đàm phán mang tính quốc tế toàn cầu.
Tương tự, nếu xem xét một cách kĩ lưỡng và tỉ mỉ thì có thể thấy WTO đã đề
cập tới các vấn đề đáng được tranh cãi như an ninh, môi trường, y tế, bảo tổn,
nông nghiệp. Khu vực mậu dịch đưa ra ngoại lệ sâu hơn từ MFN đối với các sản
phẩm và dịch vụ cho các nước thành viên tham gia. Như thế, khu vực hoá chỉ
đưa thêm vào ngoại lệ mang tính chất mang tính rộng hơn đối với các nguyên
tắc chung của WTO, do đó làm giảm mức tiến triển và quyến lực của WTO cũng
như những hứa hẹn về việc giải quyết các vấn đề đa phương.
3.2.5. Chi phí giao dịch

Thoả hiệp ưu đãi thương mại thương mại thường gây ra những chi phí giao dịch
không cần thiết. Trước hết, do các công ty thường tìm cách để đáp ứng đủ các
điều kiện đặt ra cho các quốc gia thuộc chung một khu vực để được hưởng
những ưu đãi khá phức tạp này. Những đảm bảo để có thể được hưởng những
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
22

điều kiện này thường đòi hỏi một thời gian dài, phức tạp và thông thường dẫn
tới các lãng phí các chi phí thương mại.
4. Mối quan hệ giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá
Trong quan hệ với toàn cầu hoá, khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến
tới toàn cầu hoá. Mặt khác, xu thế toàn cầu hoá hiện nay nó phản ánh một thực
trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài nước trước
những nguy cơ, những tác động tiêu cực do toàn cầu hoá đặt ra. Như vậy, xét về
ngắn hạn dường như khu vực hoá đối nghịch với toàn cầu hoá, nhưng xét về dài
hạn thì chính khu vực hoá là bước chuẩn bị để thực hiện toàn cầu hoá.
Động lực gia tăng xu thế khu vực hoá trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ mục
đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các quốc gia
trong mỗi nhóm khu vực. Đồng thời, xu thế khu vực hoá còn được đẩy mạnh bởi
chính xu thế toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẽ vượt trước cả việc hoàn thiện những
định chế toàn cầu để quản lý quá trình này. Toàn cầu hoá kinh tế về bản chất là
đi đến tự do hoá các yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích
của các dân tộc. Tuy vậy do những khác biệt về trình độ phát triển, về nguồn lực
sản xuất đã đưa đến những lợi ích khác nhau khi tham gia vào quá trình này. Để
khắc phục điều đó các quốc gia có những điểm tương đồng tìm đến nhau để tạo
lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau những điều kiện thuận lợi hơn các quy định
quốc tế hiện hành. Như vậy về trình độ hợp tác hoá khu vực hiện nay cao hơn so
với toàn cầu hoá kinh tế.
Việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực xét về tương lai chính là cơ sở cho việc
thực hiện toàn cầu hoá kinh tế và cũng vì vậy chừng nào còn tồn tại các tổ chức

kinh tế khu vực thì chưa có thể toàn cầu hoá, tự do hoá hoàn toàn. Sửa đổi hàng
loạt của các tổ chức khu vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ chức khu
vực trên cơ sở bổ sung các thành viên hay hợp nhất các tổ chức khu vực chính là
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
23

bước tiến ngày càng gần hơn đến tự do hoá trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, có
thể nói khu vực hoá chỉ là tạm thời, nó ra đời trên cơ sở một trình độ phát triển
nhất định của toàn cầu hoá, là bước tất yếu trên đường đi tới toàn cầu hoá. Hợp
tác kinh tế khu vực càng phát triển sẽ là điều kiện và động lực cho toàn cầu hoá
kinh tế.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đều những xu hướng tất yếu, nó xuất hiện và gia
tăng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là khoa học công
nghệ. Điều này cũng có nghĩa là tự do hoá thương mại quốc tế và khu vực cũng
là yêu cầu của phát triển. Vấn đề đặt ra là tự do hoá thương mại ra sao? Tiến
trình và cách thức tiến hành như thế nào để tận dụng được những mặt tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của những xu thế trên.



II. Một số các liên kết kinh tế khu vực chủ yếu ở khu vực Á-Âu
1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có nhiều
biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những thay
đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên
trong mỗi nước. (Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam- Đông Dương diễn ra ác
liệt, lôi kéo một số nước Đông Nam Á vào trận chiến. Anh rút khỏi phía Đông
Kênh Xuy-ê. Tổng thống Pháp De Gaulle sang Phnôm Pênh đưa khẩu hiệu
“trung lập hoá Đông Nam Á”, ở Trung Quốc “cách mạng văn hoá” phát triển tới
đỉnh cao và ảnh hưởng cả đến các nước Đông Nam Á có cộng đồng người Hoa

đông đảo. Liên Xô đang vận động hình thành một hệ thống “an ninh tập thể
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
24

Châu Á”. Nội bộ các nước ASEAN còn phức tạp, mâu thuẫn, tranh chấp nhau,
nhất là giữa Phi-lip-pin-Malaysia, Singapore-Malaysia, Malaysia -TháiLan ).
Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức khu
vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và
phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN.
ASEAN được thành lập bởi Tuyên bố Bangkok-Thái Lan. Khi mới thành lập
ASEAN bao gồm 5 nước là Inđônêxia, Malaysia, Philipine, Singapore và Thái
Lan. Năm 1984, Brunêi gia nhập và trở thành thành viên thứ 6 của ASEAN.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội này. Ngày
23/7/1997 kết nạp Lào và Mianmar. Ngày 30/4/1999 kết nạp thêm Campuchia,
hoàn thiện ASEAN 10.
 Bản tuyên bố Bangkok thể hiện ba mục tiêu lớn của Hiệp hội là:
 Hợp tác kinh tế và xã hội giữa các quốc gia thành viên với niềm tin tưởng
rằng sự tăng cường về kinh tế là nguồn gốc của tiến bộ xã hội và văn hoá.
 Hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực bằng việc triệt để tôn trọng công
bằng và ưu tiên luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và
nghiêm chỉnh tuân theo các nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc.
 Hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực khác
Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của
các nước phương Tây và giành được độc lập dân tộc vào các thời điểm khác
nhau sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa
lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và
văn hoá, tạo nên một sự đa dạng cho Hiệp hội.
Khu vực ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với các khu
vực khác trên thế giới, nếu tính trước khủng hoảng năm 1997 thì ASEAN được
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang

25

coi là tổ chức khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
mức phát triển kinh tế giữa các quốc gia Đông Nam á vẫn chưa đồng đều và vẫn
chưa thoát khỏi những khó khăn do cuộc khủng hoảng năm 1997 cũng như sự
kiện 11/9 mang lại.
 Kể từ khi thành lập, ASEAN đã có những dấu mốc quan trọng đánh dấu
những sự kiện lớn:
 Tuyên bố Kuala Lumpur (11/1997): là tuyên bố đầu tiên về thiết lập Khu
vực hoà bình, Tự do và Trung lập ở Đông Nam á.
 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất (2/1976)
Tại Hội nghị này, các vị đứng đầu chính phủ ASEAN đã ký hai văn kiện
quan trọng:
 Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) khẳng
định 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
 Tuyên bố về sự hoà nhập ASEAN: cam kết cùng phối hợp để đảm bảo
sự ổn định của khu vực cũng như tăng cường sự hợp tác kinh tế, văn
hoá, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN.
 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ hai (8/1977)
Hội nghị đạt được hai kết quả quan trọng là chính thức thành lập cơ chế
đối thoại giữa ASEAN với các nước công nghiệp phát triển. Lần đầu tiên
những người đứng đầu chính phủ của ba nước Nhật Bản, Austraylia, New
Zealand đã tham gia đối thoại với ASEAN sau Hội nghị chính thức.
 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ ba (12/1987)
Hội nghị đã thông qua và ký kết nhiều văn bản quan trọng như:
 Tuyên bố Manila 1987
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
26

 Nghị định thư Manila sửa đổi

 Hiệp ước khuyến khích và đảm bảo đầu tư ASEAN
 Nghị định thư về mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo thoả thuận ưu đãi
thương mại ASEAN
 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ tư (1/1992)
Hội nghị nhấn mạnh trọng tâm vào tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác
kinh tế ASEAN. Hội nghị đã thông qua những văn kiện và quyết định
quan trọng sau:
 Thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 2006
 Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN
 Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
 Hội nghị cấp cao lần thứ năm (12/1995)
Hội nghị đã có những quyết định và văn bản quan trọng sau:
 Nâng cao hợp tác chuyên ngành lên tầm cao mới, ngang với hợp tác
chính trị-an ninh và kinh tế thông qua phát triển con người, đoàn kết xã
hội để đạt được sự thịnh vượng chung cho toàn khu vực.
 Rút ngắn thời gian hiệu lực AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm, thậm
chí có thể hoàn thành trước thời hạn 2003 và mở rộng hợp tác ASEAN
sang lĩnh vực mới như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực đầu tư
ASEAN…
 Ký kết Hiệp ước về một khu vực Đông Nam á phi vũ khí hạt nhân, là
một văn kiện quan trọng tiến tới xây dựng Đông Nam á thành một khu
vực hoà bình ổn định.
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
27

 Thoả thuận họp Hội nghị Cấp cao chính thức 3 năm một lần và 2 Hội
nghị Cấp cao không chính thức giữa 2 ký Hội nghị Cấp cao chính thức.
Tiếp đến là Hội nghị cấp cao không chính thức được họp hàng năm tại các
quốc gia ASEAN.
 Về cơ cấu tổ chức:

Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay là kết quả của một quá trình hoàn thiện
từng bước song song với việc phát triển của tổ chức ASEAN trong gần 30
năm qua. Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:
 Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/Chính phủ ASEAN (ASEAN
Summit)
 Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)
 Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)
 Hội nghị Bộ trưởng các ngành
 Các Hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc tương đương
 Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting-JMM)
 Tổng thư ký ASEAN
 Uỷ ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee-ASC)
 Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting-SOM)
 Cuộc họp các quan chức cao cấp khác
 Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consulative Meeting-JCM)
 Các cuộc họp của ASEAN với các Bên đối thoại
 Ban thư ký ASEAN quốc gia
Khãa luËn tèt nghiÖp D¬ng H¬ng Giang
28

 Uỷ ban ASEAN ở nước thứ ba
 Ban thư ký ASEAN
 Về nguyên tắc hoạt động chính của ASEAN
 Các nguyên tắc nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên với bên
ngoài:
 Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn viẹn lãnh thổ và
bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
 Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình,
không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
 Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;

 Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân
thiện;
 Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
 Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.Các nguyên tắc điều phối hoạt
động của hiệp hội
 Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội
 Nguyên tắc nhất trí (consensus): một quyết định chỉ được coi là của
ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài nhưng đảm
bảo được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên.
 Nguyên tắc bình đẳng (equality): thể hiện ở việc không phân biệt quốc
gia lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, tất cả đều bình đẳng với nhau trong

×