Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC


ĐÀO HỒNG ANH

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN HỮU TIẾN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 602 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.NGUYỄN ĐỨC HẠNH

Thái Nguyên, năm 2016


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực chưa từng được công
bố trong một công trình khoa học nào khác.

Thái Nguyên,ngày 29 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Đào Hồng Anh


Xác nhận

Xác nhận

của trƣởng khoa chuyên môn

của ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS. TS Nguyễn Đức Hạnh


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Văn – Xã hội trường
Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã
tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp Cao
học K8C - Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện để tôi có cơ hội học tập và
nghiên cứu khoa học.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn
Đức Hạnh - người thầy rất nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền
thụ cho tôi nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa
học trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã
luôn động viên, khuyến khích và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 29 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn


Đào Hồng Anh


iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan ....................................................................................... i
Lời cảm ơn .......................................................................................... ii
Mục lục .............................................................................................. iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ........................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 4
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 5
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 5
Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN HỮU TIẾN TRONG
VĂN HỌC TỈNH CAO BẰNG .......................................................... 6
1.1. Đặc điểm về tự nhiên – xã hội tỉnh Cao Bằng ....................................... 6
1.2. Khái lược về văn hoá tỉnh Cao Bằng ..................................................... 9
1.2.1. Khái niệm văn hoá .............................................................................. 9
1.2.2. Khái niệm bản sắc văn hoá ............................................................... 12
1.3. Văn hoá và bản sắc văn hoá của tỉnh Cao Bằng .................................. 14
1.4. Văn học địa phương tỉnh Cao Bằng ..................................................... 18
1.4.1. Diện mạo, đội ngũ, tác giả, tác phẩm ................................................ 18
1.4.2.Thành tựu và hạn chế ......................................................................... 20
1.5. Vị trí tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến trong văn xuôi tỉnh Cao Bằng ... 26
1.5.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác ............................................................ 26
1.5.2. Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Hữu Tiến ........................................ 27

1.5.3 Tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến trong văn xuôi tỉnh Cao Bằng .... 30
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TIỂU THUYẾT NGUYỄN
HỮU TIẾN ........................................................................................ 35
2.1. Đề tài và chủ đề của tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến ............................. 35


iv
2.2. Cảm hứng nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến ........... 38
2.2.1. Cảm hứng lịch sử dân tộc.................................................................. 38
2.2.2. Cảm hứng thế sự, đời tư .................................................................... 41
2.3. Bản sắc văn hóa Tày trong tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến................... 46
2.3.1. Văn hóa lễ hội ................................................................................... 46
2.3.2. Văn hoá nhà sàn, văn hoá chợ........................................................... 48
2.3.3. Văn hóa tang ma và đám cưới thể hiện vẻ đẹp nghĩa tình của con
người miền núi ............................................................................................ 51
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TỰ SỰ CỦA TIỂU THUYẾT
NGUYỄN HỮU TIẾN......................................................................... 58
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến . 58
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện truyền thống theo thời gian tuyến tính 58
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện với một số dấu hiệu hiện đại ......... 63
3.2. Các kiểu nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến....... 68
3.2.1. Kiểu nhân vật thánh thiện ................................................................. 68
3.2.2. Kiểu nhân vật bi kịch ........................................................................ 72
3.2.3. Kiểu nhân vật tha hóa........................................................................ 74
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến.... 76
3.3.1. Xây dựng nhân vật thiên về miêu tả ngoại hình, hành động và ngôn ngữ . 76
3.3.2. Đời sống nội tâm của nhân vật chủ yếu được khắc họa bằng lời nửa
trực tiếp........................................................................................................ 79
3.4. Giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến . 82
3.4.1. Giọng điệu nghệ thuật ....................................................................... 82

3.4.2. Ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến......................... 89
KẾT LUẬN ....................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 98


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Văn học Việt Nam hiện đại nói chung, văn học địa phương các tỉnh
miền núi phía Bắc nói riêng là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nền văn
học Việt Nam hiện đại. Những cây bút xuất sắc của văn học địa phương thuộc
các tình miền núi phía Bắc không chỉ góp phần tạo nên diện mạo riêng cho
Văn học địa phương mình, mà còn đóng góp to lớn vào thành tựu chung của
nền văn học nước nhà. Quá trình nghiên cứu, phê bình về mảng văn học địa
phương nói riêng, về bộ phận văn học thiểu số Việt Nam nói chung tuy đã
được tiến hành từ lâu nhưng còn nhiều bất cập và chưa tương ứng với tầm
vóc, giá trị cùng những đóng góp của đối tượng nghiên cứu này.
Bởi vậy, chúng tôi thực hiện đề tài đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn
Hữu Tiến với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé để bổ sung vào “khoảng
trống” trong công tác nghiên cứu phê bình văn học về văn học địa phương nói
riêng, về bộ phận văn học thiểu số Việt Nam nói chung.
2. Nguyễn Hữu Tiến là một cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học địa
phương tỉnh Cao Bằng, đồng thời ông còn là một gương mặt có những đóng
góp vào thành tựu chung của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Nhưng hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về sáng tác
của nhà văn này. Trong khi đó công tác giảng dạy và học tập phần văn học địa
phương của tỉnh Cao Bằng hiện còn rất lúng túng vì thiếu tài liệu, sách hướng
dẫn giảng dạy phần văn học địa phương trong toàn tỉnh.
Thực hiện đề tài này nếu thành công, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp

thêm một tài liệu tham khảo bổ ích trong công tác dạy và học phần văn học
địa phương cho tất cả các trường trung học cơ sở tại tỉnh Cao Bằng.
3. Tại trường Đại học sư phạm – Đại học Thái Nguyên, học phần
Văn học thiểu số Việt Nam hiện đại đã được giảng dạy trong ngành ngữ


2
văn, nghiên cứu về tiểu thuyết của nhà văn người Tày Nguyễn Hữu Tiến,
chúng tôi mong muốn đóng góp thêm một tư liệu tham khảo cho những ai
yêu thích, quan tâm, muốn tìm hiểu bộ phận văn xuôi dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Hữu Tiến là cây bút văn xuôi, tham gia hoạt động trong hội
Văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng với trên 30 năm cầm bút. Ông viết nhiều,
viết sung sức với các thể loại khác nhau từ thơ đến truyện ngắn, tiểu thuyết,
phê bình văn học... và đạt được những giải thưởng khác nhau. Tuy có nhiều
đóng góp với văn học địa phương Cao Bằng nói riêng, với văn học các dân
tộc thiểu số nói chung nhưng hiện nay các công trình nghiên cứu, các đề tài
luận án, luận văn viết về ông và những sáng tác chưa có.
Viết về Nguyễn Hữu Tiến, phần lớn là các bài viết rời lẻ mang tính chất
giới thiệu và phê bình về những sáng tác cụ thể, tập trung chủ yếu là các bài
viết về truyện ngắn, về thơ của Nguyễn Hữu Tiến trong những năm gần đây.
Đó là các bài viết của các tác giả đăng trên các báo như baocaobang.vn: Phan
Đức Lộc với Lắng đọng “Những cây rơm ở Ngọc Khê” của Hữu Tiến, (Ngày
11/12/2013); Phương Mai với Sắc màu cuộc sống trong “Mưa nắng mình
em” của Hữu Tiến (Ngày26/10/2014), Thuý Hằng: Nhà văn Hữu Tiến – Giữ
bền tình yêu với cội nguồn văn hoá Tày (Ngày 19/02/2015), Bế Phương Mai:
Cùng đọc “Ghi chép dọc đường” của nhà văn Hữu Tiến (Ngày 14/5/2016).
Những bài viết này bên cạnh việc giới thiệu tác phẩm truyện ngắn, thơ của
Nguyễn Hữu Tiến cũng đã chú ý phân tích và phê bình nhưng mới chỉ đi sâu

vào phân tích nội dung của tác phẩm mà tác giả muốn giới thiệu. Cũng đã có
một vài bài viết nhận định về đặc điểm thơ văn Nguyễn Hữu Tiến như tác giả
Thuý Hằng, Phan Đức Lộc... Ở những bài viết này, người viết chỉ ra những
yếu tố tiêu biểu, nổi trội trong các sáng tác của nhà văn, đó là sự thể hiện hết


3
sức sinh động những nét bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc Tày nói riêng
và của các dân tộc thiểu số miền núi miền Bắc nói chung trong từng tác phẩm.
“Dòng đời” và “Hữu hạn” là hai tiểu thuyết tiêu biểu của Nguyễn Hữu
Tiến. “Hữu hạn” cũng là tiểu thuyết đoạt giải ba tại Lễ tổng kết Cuộc thi viết
về đề tài công nhân và công đoàn giai đoạn 2010 - 2014 do Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tháng
9/2014, tại Hà Nội. Nhận định về tiểu thuyết này, đã có hai bài viết phê bình
của các tác giả Thuý Hằng và Đoàn Ngọc Minh. Tác giả Thuý Hằng giới
thiệu về tác giả Hữu Tiến với những đặc sắc về nội dung tác phẩm gắn với
yếu tố văn hoá Tày thể hiện ở ngôn ngữ tác phẩm. Đoàn Ngọc Minh cũng có
cùng quan điểm về đặc điểm này trong tiểu thuyết “Hữu hạn” của Nguyễn
Hữu Tiến. Tác giả còn chú ý khai thác yếu tố giọng điệu nghệ thuật và chủ đề
của tác phẩm. Mặc dù vậy, những nhận xét này mới chỉ dừng ở mức độ khái
quát tổng hợp với tính chất giới thiệu nhiều hơn phê bình, chưa chỉ ra cụ thể
những chi tiết thể hiện giọng điệu của nhà văn trong tác phẩm.
Ở những bài viết kể trên, các tác giả đã có những nhận định cơ bản về
Nguyễn Hữu Tiến. Tuy nhiên, đi sâu phân tích các yếu tố đặc điểm làm nên
thành công của tác phẩm và diện mạo của nhà văn như yếu tố cốt truyện, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, chủ đề tác phẩm... thì vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và chuyên sâu. Vì vậy, luận văn là công trình
nghiên cứu đầu tiên về tiểu thuyết của tác giả Nguyễn Hữu Tiến trên cả
phương diện nội dung và bút pháp nghệ thuật.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá những đặc điểm về nội
dung, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật....Những đặc điểm về hình thức
nghệ thuật như kết cấu nghệ thuật, nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật,
giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến.


4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu tiểu thuyết “Dòng đời” – Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc 2007 và tiểu thuyết “Hữu hạn”- Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân 2012 của nhà văn Nguyễn Hữu Tiến.
Chúng tôi còn mở rộng so sánh tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến với
tiểu thuyết của một số nhà văn dân tộc thiểu số khác như tiểu thuyết của Vi
Hồng, Cao Duy Sơn, Ma Trường Nguyên....
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích
Tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến để chỉ
ra cá tính sáng tạo đặc sắc nổi bật của nhà văn này, từ đó khẳng định đóng
góp của nhà văn người Tày Nguyễn Hữu Tiến với thành tựu chung của văn
xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Đóng góp một tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác dạy và học văn
học địa phương trong trường trung học cơ sở thuộc tỉnh Cao Bằng.
4.2. Nhiệm vụ
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
về đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến. Từ đó, chúng tôi tìm hiểu đặc
điểm nội dung, nghệ thuật và thấy được giá trị tư tưởng của tác phẩm. Trên cơ
sở phân tích, đánh giá, luận văn khẳng định đóng góp quan trọng của Nguyễn
Hữu Tiến đối với sự phát triển văn học địa phương tỉnh Cao Bằng nói riêng
và văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại
2. Phương pháp nghiên cứu tiếp cận thi pháp học
3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành (xã hội học, văn hoá học…)


5
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu văn học như
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn của chúng tôi là công trình nghiên cứu toàn diện đầu tiên
về những đặc điểm ở phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của
tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến. Qua đó, chúng tôi khẳng định cá tính sáng
tạo độc đáo và đóng góp của nhà văn vào thành tựu của văn học địa
phương tỉnh Cao Bằng nói riêng, của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cấu trúc với ba chương
Chương I: Tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Tiến trong bộ phận văn học địa
phương tỉnh Cao Bằng.
Chương II: Đặc điểm nội dung của tiểu thuyết Nguyễn Hữu Tiến
Chương III: Đặc điểm nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Nguyễn Hữu
Tiến
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


6
Chƣơng 1


TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN HỮU TIẾN
TRONG VĂN HỌC TỈNH CAO BẰNG
1.1. Đặc điểm về tự nhiên - xã hội tỉnh Cao Bằng
Đặc điểm về tự nhiên
Là tỉnh miền núi vùng cao biên giới, xa các trung tâm kinh tế lớn của
vùng Đông Bắc và cả nước nhưng Cao Bằng lại có nhiều cửa khẩu ,trong đó
có cửa khẩu quốc gia Tà Lùng. Đây là lợi thế quan trọng, tạo điều kiện cho
tỉnh giao lưu kinh tế với bên ngoài, nhất là Trung Quốc.
Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.690,72 km², chiếm 2,12% diện tích cả
nước, là cao nguyên đá vôi xen với đất, có độ cao trung bình trên 200m, vùng
sát biên có độ cao từ 600 – 1.300 so với mặt nước biển. Núi rừng chiếm hơn
90% diện tích toàn tỉnh, đất bằng để canh tác chỉ có gần 10%. Dân số hiện
nay là 519.802 người.Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc), có đường biên giới dài 333 km, phía Tây giáp tỉnh Hà Giang và Tuyên
Quang, phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn, phía Đông Nam giáp tỉnh Lạng Sơn.
Địa hình của tỉnh khá phức tạp với độ cao trung bình so với mặt biển
trên 300m, thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Địa hình của
tỉnh được chia thành 3 vùng rõ rệt: Vùng địa trũng (vùng trung tâm) có địa
hình khá bằng phẳng, bao gồm đồi thấp xem kẽ các cánh đồng tương đối
rộng, phân bố chủ yếu ở huyện Hòa An, thành phố Cao Bằng và các xã phía
Nam huyện Hà Quảng; Vùng núi đất: chạy từ phía Tây Bắc huyện Bảo Lạc,
qua huyện Nguyên Bình xuống phía Tây Nam huyên Thạch An. Là vùng có
địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, có đỉnh núi cao gần 2000m, như Phja Dạ
(Bảo Lâm) 1980, Phja Oắc (Nguyên Bình) 1931m. Vùng đá vôi: chạy từ phía
Bắc dọc theo biên giới Việt - Trung, vòng xuống phía Đông Nam của tỉnh, tập
trung chủ yếu ở các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Thông Nông, Trùng Khánh,
Hạ Lang, Quảng Uyên, Phục Hòa. Về địa thế, tỉnh Cao Bằng có độ dốc cao,



7
đặc biệt là ở những nơi có nhiều núi đá, có tới 75% diện tích đất đai có độ dốc
trên 250.
Khí hậu Cao Bằng mang tính nhiệt đới gió mùa lục địa núi cao và có
đặc trưng riêng so với các tỉnh miền núi khác thuộc vùng Đông Bắc. Có tiểu
vùng có khí hậu á nhiệt đới. Đặc điểm này đã tạo cho Cao Bằng những lợi thế
để hình thành các vùng sản xuất cây, còn phong phú đa dạng, trong đó có
những cây đặc sản như dẻ hạt, hồng không hạt, đậu tương có hàm lượng đạm
cao, thuốc lá, chè đắng… mà nhiều nơi khác không có điều kiện phát triển.
Tài nguyên đất: Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 140.942 ha đất có khả
năng phát triển nông nghiệp, chiếm 21% diện tích tự nhiên. Phần lớn đất
được sử dụng để phát triển cây hàng năm, chủ yếu là cây lương thực, cây ăn
quả, cây công nghiệp còn ít. Hiệu quả sử dụng đất còn thấp, hệ số sử dụng
đất mới đạt khoảng 1,3 lần. Đất có khả năng phát triển lâm nghiệp có
khoảng 408.705 ha, chiếm 61,1% diện tích tự nhiên, trong đó rừng tự nhiên
khoảng 248.148 ha, rừng trồng14.448 ha, còn lại là đất trống, đồi núi trọc.
Tài nguyên rừng: Hiện trên địa bàn tỉnh chủ yếu là rừng nghèo, rừng
non mới tái sinh, rừng trồng và rừng vầu nên trữ lượng gỗ ít. Rừng tự nhiên
còn một số gỗ quý như nghiến, sến, tô mộc, lát nhưng không còn nhiều, dưới
tán rừng còn có một số loài đặc sản quý như sa nhân, bạch truật, ba kích, hà
thủ ô và một số loài thú quý hiếm như: gấu, hươu, nai, và một số loài
chim…Rừng ở Cao Bằng có nhiều loại cây quý hiếm có giá trị kinh tế cao
cũng như giá trị nghiên cứu khoa học, đã phát hiện được 27 loài thực vật quý
hiếm ghi trong sách đỏ Việt Nam như cẩu ích, bổ cốt toái, dẻ tùng sọc trắng,
hoàng đàn, thông pà cò, ngũ gia bì gai,... hệ thống vật rừng khá phong phú,
theo kết quả điều cho thấy ở Cao Bằng có khoảng 196 loài, trong đó có một
số loài quý hiếm như: Khỉ mặt đỏ, cu li lớn, vượn đen, voọc đen má trắng, cáo
lửa, sói đỏ, gấu ngựa, rái cá, báo hoa mai, hươu xạ, sơn dương, tê tê, sóc
bay...



8
Tài nguyên khoáng sản: Cao Bằng có nguồn tài nguyên khoáng sản đa
dạng, đến cuối năm1999, trên địa bàn tỉnh đã đăng ký 250 mỏ và điểm quặng
với 22 loại khoáng sản. Đáng kể nhất là quặng sắt trữ lượng hàng nghìn triệu
tấn, nhiều mỏ tiềm năng như vàng, đôlômít, thạch anh, antimon, vofram…
Tiềm năng nước mặt tỉnh Cao Bằng trung bình năm khoảng 10,5 tỷ m3,
trong đó phần từ bên ngoài chảy vào là 5,4 tỷ (Trung Quốc chảy sang là 3,5 tỷ
m3, sông Nho Quế chảy từ Hà Giang là 1,9 tỷ m3) và lượng dòng chảy trên
tỉnh Cao Bằng đạt 5,1 tỷ m3. Nói chung tài nguyên nước của tỉnh Cao Bằng
còn khá dồi dào, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Hệ thống sông
suối đa dạng: Sông Bằng, Sông Gâm, Sông Quây Sơn… Các sông của tỉnh
Cao Bằng có nhiều tiềm năng cho sử dụng mục đích thủy điện.
Dân số tỉnh Cao Bằng là 517.900 người(năm 2013), mật độ dân số 77
người/km2. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân tộc, đông nhất là dân tộc Tày chiếm
42,54%; dân tộc Nùng chiếm 32,86%; dân tộc Dao chiếm 9,63%; dân tộc
Mông chiếm 8,45%; dân tộc Kinh chiếm 4,68%; dân tộc Sán Chay chiếm
1,23%; dân tộc Lô Lô chiếm 0,39%; dân tộc Hoa chiếm 0,033%; dân tộc Ngái
chiếm 0,013%; các dân tộc khác chiếm 0,18%.
Tỉnh Cao Bằng bao gồm 01 thành phố và 12 huyện: Trong đó có 201
đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. Tỉnh Cao Bằng cùng với tỉnh
Lạng Sơn thời nhà Lý-nhà Trần được gọi là châu Quảng Nguyên. Vùng đất
này (Lạng Sơn và Cao Bằng) chính thức phụ thuộc vào Đại Việt từ năm 1039,
đời vua Lý Thái Tông, sau khi nước này chiến thắng Nùng Trí Cao. Sau khi
thất thủ Thăng Long năm 1592 nhà Mạc chạy lên Cao Bằng và xây dựng
vùng đất này để chống lại nhà Lê Trịnh cho đến 1677 mới chấm dứt.
Nằm ở phía bắc vùng Việt Bắc, nơi địa đầu Tổ quốc, Cao Bằng được
thiên nhiên ưu đãi những tiềm năng du lịch phong phú. Cao Bằng có núi,
rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ,
nguyên sinh. Khu vực thác Bản Giốc là một thắng cảnh đẹp.Thác nằm trên

dòng chảy của sông Quây Sơn, thuộc xã Ngọc Khê, huyện Trùng


9
Khánh.Động Ngườm Ngao (hang hổ), thuộc xã Đàm Thủy, huyện Trùng
Khánh là thế giới của nhũ đá thiên nhiên gồm hàng nghìn hình khối khác
nhau, có cái như đụn gạo, đụn vàng, đụn bạc, hình voi, rồng, hổ báo, mây trời,
cây cối, hoa lá, chim muông. Ngoài ra phải kể đến hồ núi Thang Hen ở huyện
Trà Lĩnh.
Cao Bằng là vùng đất có truyền thống cách mạng lâu đời, là nơi cội
nguồn của cách mạng Việt Nam cùng với thiên nhiên, khí hậu đã tạo nên một
vẻ nên thơ hữu tình cho non nước Cao Bằng. Những ngọn núi hùng vĩ, những
thanh âm trong trẻo của tiếng suối róc rách, âm vang của khúc hát sli, hát lượn
đã tạo cảm hứng sáng tác cho các nhà văn, trong đó có Nguyễn Hữu Tiến. Hình
ảnh những đọn nước, núi rừng hoang dã bao quanh các xóm làng, chở che cho
đồng bào dân tộc Tày in dấu trong từng ánh nhìn, trong từng suy nghĩ của nhà
văn và tạo nên những cảm xúc sâu lắng cho từng trang viết của ông.
1.2. Khái lƣợc về văn hoá tỉnh Cao Bằng
1.2.1. Khái niệm văn hoá
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Từ tương ứng với văn hóa theo ngôn ngữ của phương Tây có nguồn
gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa:
(1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng. Từ văn hóa
trong tiếng Việt là từ gốc Nhật, người Nhật dùng từ này để định nghĩa cách
gọi văn hóa theo phương tây.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học,
nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn
hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác:
văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả

đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn
hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.


10
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến
theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận
trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh
thần mà bao gồm cả vật chất.
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa.
Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội
được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Khái niệm về văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt,văn hóa được
dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt
để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng thì văn
hóa bao gồm tất cả từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại cho đến tín ngưỡng,
phong tục, lối sống...
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản
Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật
chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử".
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà
Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan
niệm về văn hóa:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội. Văn


11
hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh
thần (nói tổng quát); Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; Văn
hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa,
được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống
nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn...
Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn
hóa – vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất
cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi
nào có con người nơi đó có văn hóa.
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, PGS.TSKH Trần
Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: Văn
hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.
Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài

người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn” [26, tr.431]
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể và phi
vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.


12
1.2.2. Khái niệm bản sắc văn hoá
Trong những năm gần đây, cùng với khái niệm văn hoá, các tác giả còn
quan tâm đến một khái niệm gần gũi nữa là bản sắc văn hoá. Bản sắc văn hoá
được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về văn hoá Việt
Nam. Nhưng cho tới nay, khái niệm này hầu như vẫn chưa tìm được sự đồng
thuận cao độ. Nhìn chung các tác giả đều cho rằng, bản sắc văn hoá là những
nét đặc sắc nhất, độc đáo nhất của nền văn hoá, một số tác giả lại cho rằng
bản sắc văn hoá phải là những nét đẹp đẽ nhất, tinh hoa nhất của một nền văn
hoá. Xét từ phương diện từ nguyên thì bản có nghĩa là cơ bản, bản chất; sắc
là màu sắc, sắc thái. Bản sắc chính là những gì đặc trưng nhất, căn bản nhất
của một sự vật, hiện tượng, nó chính là cơ sở để phân biệt sự vật, hiện tượng
đó với những sự vật, hiện tuợng khác khác loại và cùng loại. Như vậy, bản sắc
văn hoá phải là những nét đặc trưng, độc đáo và cơ bản nhất để nhận diện một
nền văn hoá và để phân biệt nền văn hoá này với một nền văn hoá khác.
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất,
màu sắc riêng tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc
thái, đặc tính, đặc thù riêng của sự vật đó. Trong thực tế, khi nói "bản sắc"
thường là nói tới cái riêng, cái rất riêng của một sự vật để phân biệt nó với các
sự vật khác trong thế giới khách quan.
"Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận
khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là
cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu
hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Cách tiếp cận thứ hai

này có tính hợp lý hơn bởi khái niệm "bản sắc" được nhận thức trên cả 2 mặt:
mặt bản chất bên trong và mặt biểu hiện bên ngoài và giữa hai mặt đó có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, mặt bên trong phản ánh tính đồng
nhất, bản chất của một lớp đối tượng sự vật nhất định và mặt bên ngoài phản
ánh những dấu hiệu, những sắc thái riêng của sự vật để làm cơ sở phân biệt sự
khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác.


13
Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc.
Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói
đến dân tộc, bản sắc dân tộc. Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá
trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển
trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản
sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền
vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và
biến đổi hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đây thì khái niệm bản sắc văn hóa
vẫn là một khái niệm vô định, vì nói tới văn hóa là nói tới con người và nói
tới những dân tộc cụ thể đã sinh ra, duy trì và phát triển nó. Vì vậy, chỉ khi
tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân tộc thì ý nghĩa của nó mới được thể hiện
một cách trọn vẹn.
Nếu tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ những giá
trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử thì bản
sắc văn hoá dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc
sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với
dân tộc khác. Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh
hồn, cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt
về chất” giữa dân tộc này với dân tộc khác. Tại Hội nghị liên chính phủ về
các chính sách văn hóa họp ở Venise, F.Mayor - nguyên Tổng giám đốc
UNESCO đã đưa ra ý kiến về khái niệm văn hóa trên cơ sở nhấn mạnh tính đặc

thù của bản sắc văn hoá dân tộc: Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến
tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Trong quan hệ quốc tế,
bản sắc văn hóa dân tộc được xem như cái “thẻ căn cước”, là cốt cách của mỗi
dân tộc thể hiện trên mọi phương diện quan hệ ngoại giao về kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá là yếu tố mang
sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc vượt qua những thử thách của lịch


14
sử, bởi vì bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh
hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc
trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững
được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong
quá trình phát triển. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc đã và đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng và có những giải
pháp cụ thể trong quá trình phát triển.
1.3. Văn hoá và bản sắc văn hoá của tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng, xứ sở của những cọn nước, của các suối nguồn trong vắt và
những cô gái áo chàm. Không chỉ nổi tiếng gạo trắng, nước trong, đây còn là
một vùng văn hoá đa dạng, phong phú vởi sự tiếp xúc, giao hoà và hội tụ văn
hoá của nhiều dân tộc anh em tạo nên một nền văn hóa đa sắc tộc, đa sắc thái.
Các dân tộc tiêu biểu ở Cao Bằng bao gồm Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Kinh,
Mông và dân tộc Hoa. Bên cạnh những nét chung về văn hóa cộng đồng, mỗi
dân tộc đều có những di sản văn hóa truyền thống độc đáo của riêng mình làm
cho kho báu văn hóa Cao Bằng phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc
và kết tinh nên những giá trị nhân văn cao đẹp. Người Tày chiếm số lượng
khá lớn trong tỉnh Cao Bằng. Nét đặc sắc về văn hoá của người Tày được thể
hiện trong những làn điệu Lượn, Hát then, Lượn Slương, Lượn cọi, Lượn

ngạn, múa Sluông, múa chầu, cây đàn tín, Phướng lỵ. Dân tộc Nùng, sống
đan chen trên các địa dư cùng người Tày. Dân tộc Nùng có nhiều tộc, căn cứ
vào ăn mặc và tiếng nói để phân biệt: Nùng Inh, Nùng An, Nùng Lòi, Nùng
Giang v.v.. Người Nùng có múa quạt, múa khăn, cây nhị và bộ xóc đồng lục
lạc... Dá hai là một dạng tuồng cổ của đồng bào có lịch sử cách hơn 300 năm
đang được phục hồi trong giai đoạn hiện nay. Dân tộc Dao ở Cao Bằng lại có
bản chất cần cù lao động, sống chủ yếu ở vùng đồi núi thấp, vừa làm nương,
vừa làm ruộng, phong tục tập quán còn nặng nề. Đặc trưng tộc Dao ở Cao
Bằng là Dao tiền và Dao đỏ. Người Dao có múa Chuông, múa trống. Dân tộc
H‟Mong hầu hết sống trên triển núi đá cao, vùng sâu, vùng xa, tập trung đông


15
ở Bảo Lạc, Ba Bể, Thông Nông, Hà Quảng; sống du canh du cư, đốt rẫy làm
nương, chủ yếu trồng ngô. Người H‟Mông có múa ô, múa khèn ống trúc bè
ngang, khèn lá, khèn môi.
Trong vùng văn hóa Cao Bằng, ta có thể bắt gặp những nét đặc sắc văn
hóa của các dân tộc thiểu số khác nhau, nhưng do có sự đoàn kết trong cuộc
sống lao động, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ quê hương trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc, nên vùng văn hóa Cao Bằng đã được hình thành, đa
thanh, đa sắc thái mà vẫn thống nhất. Quá trình cộng cư lâu dài bên nhau của
các dân tộc đã dẫn đến sự giao lưu văn hóa, thống nhất trong bản sắc văn hóa
miền núi, thể hiện ở các phương diện văn hóa: tính tự trị và tính cố kết cộng
đồng ở các làng bản, đời sống tâm linh với tư duy đa thần giáo, văn học dân
gian vừa mộc mạc vừa tinh tế gắn bó và phản ánh chân thật đời sống của cư
dân vùng cao, tư duy trực cảm cùng cách nói giàu so sánh ví von qua các sự
vật hiện tượng chỉ có ở miền núi. Như về văn học dân gian, nổi bật nhất có
thể kể đến là huyền thoại khởi nguyên luận của người Tày “Báo Luông, Slao
Cải”, cặp vợ chồng to lớn ấy đã sinh ra 100 người con (một nửa trai và một
nửa gái). Huyền tích “Báo Luông, Slao Cải” đã cắt nghĩa một cách cụ thể,

mạch lạc rõ ràng, lô gic, hệ thống, đầy ấn tượng về sự hình thành con người
và nghề nông, sự khởi đầu cuộc sống con người Cao Bằng trên miền non
nước, sánh ngang huyền thoại Mường Hươu Sao (Ngu Cơ) - Cá Chép (Long
Wang) và huyền thoại Việt Tiên (Âu Cơ) - Rồng (Lạc Long). Truyền thuyết
“Cẩu chủa cheng Vùa” (Chín chúa tranh Vua) cũng thật độc đáo, cảm hóa
lòng người.Truyền thuyết đề cập đến nhân vật lịch sử là Thục Phán vào
khoảng cuối đời Hùng Vương, thế kỷ III trước Công nguyên. Người đã có
công hợp nhất nước Nam Cương và Văn Lang thành nước Âu Lạc, đóng đô ở
Cổ Loa, Đông Anh (Hà Nội). Truyền thuyết là sở cứ bước đầu chỉ cho chúng
ta thấy hiện thực về một vùng đất lịch sử, một con người lịch sử, một kinh đô
Nam Bình huy hoàng.


16
Về kho tàng truyện kể, bên cạnh những câu truyện dã sử, dân tộc nào
cũng có các thể loại cổ tích, ngụ ngôn..., cùng với các thể loại văn vần phong
phú như tục ngữ, đồng dao, câu đố. Mỗi dân tộc đều có tiếng nói riêng của
mình, đặc biệt người Tày đã sáng tạo ra chữ Nôm với các tác phẩm văn học
thành văn đề cập đến nhiều phương diện tri thức về y tế, địa lý, phong tục tập
quán, lịch sử, lịch thời gian; hiện còn lưu giữ 85 văn bản chữ Nôm Tày tại
viện Hán Nôm.
Văn học dân gian Cao Bằng giàu âm hưởng dân ca dân tộc nhất. Thông
thường chúng ta hay gặp nhất là các thể loại dân ca của người Tày, Nùng,
trước hết phải kể đến dân ca nổi tiếng Then Tính với nhiều làn điệu và thể
loại đặc trưng với 2 dòng then chính là then miền Đông và then miền Tây.
Then miền Đông thường gọi là dàng (nam hát), ngược lại then miền Tây (pựt,
then) là nữ hát. Hát Then là loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp gồm: ca,
nhạc, múa và diễn trò. Đặc điểm nổi bật của hát Then Cao Bằng là tính nhân
dân của nó. Then được hát ở nhiều nơi, nhiều lúc, người ta hát trong nghi lễ,
trong sinh hoạt, nam cũng như nữ, rất nhiều người biết đàn và hát rất điệu

nghệ. Hát Then đã thành một yêu cầu quan trọng đối với đời sống văn hóa
tinh thần của dân tộc Tày ở vùng này. Từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945)
trở về đây, hát Then được biến hóa gọi là Then mới; nhất là từ năm 1960 đến
nay, âm nhạc Then biến hóa dần theo phương châm dân tộc, khoa học và đại
chúng; do nhu cầu phản ánh cuộc sống mới đã có nội dung mới, âm nhạc mới.
Hát Then với nhạc cụ đàn tính biểu hiện hình tượng âm thanh, âm điệu độc
đáo của nền dân ca dân tộc Tày được bà con yêu thích vì nó mang yếu tố âm
nhạc dân gian, tồn tại mãi với thời gian. Hát Then có nhiều chủ đề nhưng nét
độc đáo nhất của lượn Then là những bài hát Then về tình yêu, khi là những
khúc hát tỏ tình thiết tha, chân thành, khi lại là những khúc hát thể hiện nỗi
buồn xót xa, day dứt trước cảnh chia tay, xa cách đẫm nước mắt. Hai cung
bậc tình cảm này là điểm đầu và cũng là điểm kết cho một mối tình không
thành duyên. Và đó chính là điểm nổi bật nhất mà tác giả dân gian Tày muốn


17
nhấn mạnh trong các khúc lượn Then về tình yêu đôi lứa. Ví như, các chàng
trai Tày luôn tìm cho mình một cái cớ để bày tỏ tình cảm của mình với người
yêu qua những khúc lượn Then nhẹ nhàng, trong sáng mà ý nhị:
Gió chẳng ngừng thổi mãi đèo cao/Cá chẳng rời vực nào nước
sạch/Bướm chẳng rời hoa nhật bách xuân/Mong đôi ta kết thân gắn bó.
Yêu thương gắn liền với nhung nhớ, hạnh phúc và đau thương. Có lẽ
đây đã là quy luật bất thành văn trong tình yêu. Tình yêu không chỉ mang đến
cho con người ta vị ngọt nồng cháy mà con đem tới những nỗi buồn vô tận,
những ngang trái khổ đau khi chia ly, khi tình yêu tan vỡ. Lượn Then lúc này
gần như trở thành mảnh đất tinh thần để con người dốc bầu tâm sự, gửi gắm
tâm trạng buồn thương, chua xót trước cảnh biệt ly:
Chia tay anh như bỏ thắt lưng/Nước mắt tràn rơi đều chan chứa
...
Bữa ăn nhìn đôi đũa nhớ mình/Cầm bát tưởng như hình tồn tại.

Yêu càng sâu sắc thì nỗi nhớ càng vời vợi, càng khắc khoải và không
sao lấp đầy. Đối với người con gái khi yêu, sự chia ly và xa cách khiến mọi
thứ như trở nên vô vị, tẻ nhạt:
Nuốt cơm như là nuốt rác/Canh thì có vị chát như sung/Nhớ trong lòng
miệng không thể nói/Ngồi mâm là nhớ tới bạn hiền.
Để rồi, cái nghịch lý xót xa hợp - tan đã vô tình tạo nên sự cách trở cho
đôi lứa, khiến nỗi đau thêm chồng chất trong trái tim mong manh của người
con gái Tày. Họ như muốn dày vò trách móc, lại vừa muốn níu kéo người
thương trong nỗi buồn mênh mang vô vọng:
“Em nhắc anh đôi câu hãy nhớ/Anh trở về vui thú đêm ngày/Xin đừng
có quên em vất vả/Không em, anh còn có gia đình/Chỉ có em một mình một
bóng/Em mong anh trông ngóng ngày đêm/Ước gì chim cùng xây một tổ/Rời
xa nhau thổ lộ nỗi buồn”. [30, tr. 3]. Đó là hát Then của người Tày và dân tộc


18
H‟mông cũng có tiếng hát Gầu plềnh (Tiếng hát tình yêu) mang âm hưởng
dân ca dân tộc miền núi độc đáo:
Trước cửa nhà em có cây lanh mọc/Ong có nơi về đậu/Em làm thân
con gái bảy năm theo mẹ theo cha/Anh có nơi qua lại
“Em nắm tay anh nắm cho vững/Anh cầm tay em cầm cho chặt/Ta yêu
nhau đằm thắm như khóm ngải xanh tươi…”[30, tr. 3].
Về sli, lượn cũng rất đa dạng thể loại, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là chưa
kể đến mảng dân ca lễ hội và các lễ nghi khác đều dày thi ca. Mỗi thể loại dân ca
còn hàm chứa nhiều làn điệu với số lượng thật đáng nể. Trải qua sự thử thách của
thời gian cùng những biến thiên dữ dội của lịch sử, dân ca của mỗi dân tộc vẫn tồn
tại như ngọn lửa hồng trong bếp nhà sàn, gửi trao từ thế hệ này qua thế hệ khác để
bảo tồn lưu giữ vẻ đẹp tâm hồn, bản sắc riêng của từng dân tộc. Quá trình tích hợp
và tiếp biến văn hóa ấy đã và đang diễn ra âm thầm nhưng sâu rộng, tính liên văn
hóa tạo nên sự thống nhất trong bản sắc văn hóa vùng nhưng vẫn bảo lưu sự đa

dạng văn hóa của các tộc người cộng cư trong vùng văn hóa ấy.
1.4. Văn học địa phƣơng tỉnh Cao Bằng
1.4.1. Diện mạo, đội ngũ, tác giả, tác phẩm
Cao Bằng là mảnh đất biên cương địa đầu tổ quốc, là vùng đất giàu
truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng và văn hoá. Trải qua hàng
ngàn năm nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã kề vai sát cách cùng nhân dân cả
nước xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Khi phong trào cách mạng
phát triển mạnh mẽ, văn thơ trở thành phương tiện quan trọng trong công tác
tuyên truyền của Đảng. Đặc biệt, khi lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn Cao Bằng
làm căn cứ địa cách mạng càng lên cao. Văn thơ yêu nước và cách mạng
trong giai đoạn này có một vai trò to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trước năm 1945 có các tác phẩm văn thơ sáng tác ở Cao Bằng tại một số xã
thuộc huyện Hà Quảng, Nguyên Bình, Hoà An, thị xã Cao Bằng và thủ đô Hà
Nội bằng cả tiếng Hán, tiếng Tày – Nùng, tiếng Mông và tiếng Dao. Ngoài ra


19
còn có một số tác phẩm viết dưới dạng văn xuôi. Văn học thời kỳ này chia
làm hai giai đoạn:
Tác phẩm văn học thời kỳ trước năm 1930: Nội dung tác phẩm thời kỳ
này là phản ánh hiện thực khách quan diện mạo xã hội, khơi gợi tinh thần yêu
nước thương nòi. Văn học thời kỳ này là của các tác giả người địa phương.
Thời kỳ 1930-1945: Văn học thời kỳ này phát triển phong phú về số
lượng, nâng cao về chất lượng, nhất là từ sau năm 1941, khi đồng chí Nguyễn
Ái Quốc sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước trở về và
sáng lập báo Việt Nam độc lập; chính vì vậy, những sáng tác thơ văn ở Cao
Bằng thời kỳ này là dòng thơ văn tiêu biểu nhằm mục đích tuyên truyền vận
động mọi đối tượng trong xã hội từ thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, những
người cao tuổi, binh lính… vùng dậy đấu tranh giành độc lập cho nước nhà.
Những tác phẩm văn học này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống của nhân dân

các dân tộc Cao Bằng bởi tính dung dị dễ hiểu, tính đại chúng thông qua thể
hò vè, dân ca và nhiều tác phẩm được sáng tác bằng tiếng dân tộc. Thơ ca đã
thấm sâu vào lòng quần chúng, biến thành sức mạnh cùng toàn dân làm nên
chiến thắng Cách mạng tháng Tám 1945.
Từ sau khi giải phóng, thống nhất đất nước, đội ngũ tác giả, tác phẩm
văn học tỉnh Cao Bằng có sự gia tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Trên cả bình diện thơ ca, tiểu thuyết, truyện... luôn có sự góp mặt đông đảo
của các tác giả mà phần lớn họ là người dân tộc thiểu số nên hình ảnh văn học
luôn gắn liền với việc miêu tả thiên nhiên hùng vĩ, phản ánh đời sống, phong
tục, tập quán quê nhà. Nhiều nhà văn nổi tiếng và có những đóng góp đáng kể
cho sự phát triển của văn xuôi địa phương nói riêng và văn học dân tộc miền
núi nói chung như: thế hệ đầu tiên là các nhà văn Vi Hồng, Hoàng Triều Ân;
thế hệ thứ hai tiếp nối có những cây bút tiêu biểu như Cao Duy Sơn, Hữu
Tiến, Đoàn Lư, Trần Thị Mộng Dần, Nguyễn Văn Bính, Đoàn Ngọc Minh,
Mông Văn Bốn, Nông Quốc Lập…


20
1.4.2.Thành tựu và hạn chế
Về văn xuôi
Ở Cao Bằng khoảng tám mươi phần trăm các tác giả văn xuôi là người
dân tộc Tày. Hầu hết họ dùng tiếng Việt làm phương tiện biểu đạt, trong khi
đó, tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ. Do vậy trước tiên họ phải vượt qua
“cửa ải” ngôn ngữ rồi mới có thể nghĩ đến việc sáng tạo tác phẩm.Về lĩnh vực
ngôn ngữ, các nhà văn người Kinh gắng một thì các nhà văn dân tộc thiểu số
phải cố gắng gấp mười lần. Khảo sát một số truyện ngắn của một số tác giả,
như: Triều Ân, Cao Duy Sơn, Hữu Tiến, Đoàn Lư, Trần Thị Mộng Dần,
Nguyễn Văn Bính, Đoàn Ngọc Minh, Mông Văn Bốn, Nông Quốc Lập…, có
thể thấy ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Cao Bằng có những đặc điểm
chính: Ngôn ngữ trần thuật mang bản sắc văn hóa miền núi; kết hợp giữa tả và

kể; đan xen giữa lời người trần thuật và lời nhân vật.Ngôn ngữ trần thuật
mang bản sắc văn hóa miền núi trong các truyện ngắn Cao Bằng được các tác
giả chú tâm khai thác từ tên nhân vật cho đến địa danh đều là của miền núi.
Ta có thể thấy rõ điều này thông qua nhân vật do nhà văn sáng tạo nên. Chẳng
hạn nhà văn Triều Ân có A Pá, Trế Pèng, Xúa…; nhà văn Đoàn Ngọc Minh
có Ò Piu, Tẻ Nự; nhà văn Hữu Tiến có Thùng Chòi, Mùi Nái; Nông Quốc
Lập có Lão Tức Thâu… Về địa danh có thể liệt kê ra đây một số tên đất, tên
làng như Cô Sầu, bản Phiềng, Phja Oắc. Nhà văn Triều Ân đã đưa những địa
danh có thật vào trong truyện: …Lần đầu tiên xa thị xã, bà lên huyện vùng
cao với tấm lòng háo hức. Bà nhớ các nơi đi qua: Tĩnh Túc, Cao Sơn, Cao
Lù, Lũng Pán... Chỉ cần đọc qua tên nhân vật và địa danh thôi, bạn đọc cũng
có thể nhận biết câu chuyện xảy ra ở miền núi rồi. Trong quá trình sáng tạo,
các tác giả thỉnh thoảng sử dụng nguyên cả câu thành ngữ, tục ngữ Tày. Ví dụ
như: “Phỏ khỏ ước ngần muôc tẳm thai”(Tạm dịch: Kẻ nghèo thèm có bạc
vàng đến chết), Nông Quốc Lập dùng trong truyện ngắn Trở về chốn cũ.
Hoặc câu “Chạy sói lại gặp lang” có xuất xứ từ câu thành ngữ Tày “Ni slưa


×