Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

So sánh đặc điểm kiến trúc và hệ thống bài trí tượng thờ trong các ngôi chùa truyền thống việt nam ở ba miền bắc – trung – nam (có bảng so sánh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.56 KB, 55 trang )

Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm
Đề tài nghiên cứu: So sánh đặc điểm kiến trúc và hệ thống bài trí tượng
thờ trong các ngôi chùa truyền thống Việt Nam ở ba miền Bắc – Trung – Nam
(có bảng so sánh).

BỐ CỤC
1.

TỔNG QUAN VỀ CHÙA VIỆT NAM

1.1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC NGÔI CHÙA VIỆT QUA CÁC
THỜI KỲ
1.3. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM QUY HOẠCH, KIẾN TRÚC CỦA
NGÔI CHÙA VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
1.4. BẢNG SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC VÀ HỆ THỐNG
BÀI TRÍ TƯỢNG THỜ TRONG CÁC NGÔI CHÙA TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM Ở BA MIỀN BẮC – TRUNG – NAM.
2.

ĐẶC ĐIỂM CHÙA MIỀN BẮC

2.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
2.2. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
2.3. BÀI TRÍ TƯỢNG PHẬT
3.

ĐẶC ĐIỂM CHÙA MIỀN TRUNG

3.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
3.2. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC


3.3. BÀI TRÍ TƯỢNG PHẬT
4.

ĐẶC ĐIỂM CHÙA MIỀN NAM

4.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
4.2. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
4.3. BÀI TRÍ TƯỢNG PHẬT
5.

ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1


1.

TỔNG QUAN VỀ CHÙA VIỆT NAM

1.1.

GIỚI THIỆU CHUNG

Chùa Việt Nam thường là một quần thể kiến trúc gồm những "ngôi nhà"
được sắp xếp cạnh nhau, hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí của "ngôi
nhà" mà người ta chia thành những kiểu kiến trúc chùa khác nhau. Tên các kiểu
kiến trúc chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần
giống với mặt bằng kiến trúc chùa.
Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, chùa

Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (chùa Thầy và chùa Láng ở Hà
Nội thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông), thờ tam giáo (Phật - Lão –
Khổng), thờ Trúc Lâm Tam Tổ (Yên Tử),…
Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ “chiền”. Một số
người cho rằng từ “chiền” có thể có gốc từ từ "cetiya" của tiếng Pali
hay "caitya" trong tiếng Phạn, cả hai được dùng để chỉ điện thờ Phật.
Theo câu tục ngữ Việt Nam “Đất vua, chùa làng”, các ngôi chùa
đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một
việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa
thường chịu sự chi phối bởi quan niệm phong thủy. “Xây dựng chùa
phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không,
hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải
cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long
báu, hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà, chầu bái. Đó là đất dương cơ
ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái.
Nếu đảo kỵ, thì mạch nước lại vào phía trước. Trước mặt có minh
đường hay không có đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề,
thế là đất tốt…’
Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen
thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói…Nhưng người ta thường
dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng như
2


tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong
mọi tầng lớp dân cư, gọi là của “công đức”. Người ta tin là sẽ được
hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng
chùa. Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ
tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng được ghi ở các bàn thờ
bằng đá hoặc ở trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân

đèn…trong một danh sách dài
Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là
những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống dân làng quê Việt Nam.
Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.
Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một
quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối
vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia
thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống
được đặt theo các chứ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.
Chùa chữ Đinh, có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà
đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà
tiền đường phía trước. Chùa chữ Công là chùa có nhà chính điện và
nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau và được nối
với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có
nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống.
Chùa chữ Tam là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường
được gọi là chùa Hạ. Chùa Kim Liên ở Hà Nội, chùa Tây Phương ở Hà
Tây có dạng bố cục như thế này. Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là
kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước
với nhà hậu đường (có thể nhà thổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành
một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng
điện hay các công trình kiến trúc ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có
dạng phía trong hình chữ Công, còn phía ngoài có khung bao quanh
3


như chữ Khẩu hay như ở chữ Quốc. Đây là các dạng bố cục của các
công trình kiến trúc chính. Chùa kiểu chữ Công là phổ biến hơn cả.
Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có
hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được

xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở TP.Hồ Chí Minh mang
trong mình cả nhũng nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu
của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều. Ngoài ra,
trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị
sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư
và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan. Kiến trúc
chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời
kỳ lịch sử khác nhau, không gian khác nhau, và còn b ị chi phối bởi
phong cách kiến trúc địa phương. Ở miền Nam, chùa kiểu chữ Ta m
phổ biến hơn ở miền Bắc. Người Mường làm chùa bằng tre đơn giản,
chùa của người Khmer chịu ảnh hưởng của chùa Cămpuchia và Thái
Lan, chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiển trúc riêng…
Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt
Nam. Là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có
nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại.
Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông. Qua tam quan là
đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh ,
hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi
chùa. Diện tích của sân phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm
riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có những ngọn tháp được
xây dựng ở đây như chùa Dâu, chùa Thiên M ụ. Từ dưới sân chùa, lớp
kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi tiền
đuờng, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một
số bậc thềm. Ở nhà bái đường có để đặt một số tượng, bia đá ghi sự
tích ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam
4


quan không xây gác chuông. Giữa bái đường chính là hương án, nơi
thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây.

Số gian của bái đường túy thuộc vào quy mô của chùa, nhỏ nhất là 3
gian, thông thường là 5 gian. Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa
bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm để cho
ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất
của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện
thờ Phật ở Việt Nam. Chạy song song với chính điện, nối chính điện
với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một ngôi nhà ba gian.
Qua nhà chính điện, theo hướng hành lang là đến nhà tăng đường (hay
còn gọi là nhà hậu đường) cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở
một số chùa trong miền Nam liền kề sát sau nhà chính điện, ngay sau
phía bàn thờ.
Trong thực tế, bố cục và cấu trúc chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một
số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền phật
hậu Thần phổ biến ở miền Bắc. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa
có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có
chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt,
như chùa Dâu ở Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định. Nhưng ở một số
chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn
Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, chùa Bồ Đà ở Bắc Giang

1.2.

SỰ PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC NGÔI CHÙA VIỆT NAM

QUA CÁC THỜI KỲ
Xã hội biến động dẫn đến những thay đổi nhất định trong bộ mặt
kiến trúc dân tộc. Ðối với kiến trúc chùa cũng không nằm ngoài quy
luật đó, nghệ thuật trang trí, tạo hình nâng cao, phong cách kiến trúc
từng thời kỳ có nhiều biến đổi, mỗi thời kỳ lại mang dáng dấp và thể
hiện một cách rõ ràng dấu ấn của xã hội đương thời.

5


Có hai loại kiến trúc Phật giáo quan trọng, đầu tiên là công trình
thờ cúng gồm tháp hoặc ngôi chùa, thứ đến là các công trình phụ trợ
phục vụ cho con người. Chùa từ xưa được định nghĩa là nơi thờ Phật,
nơi cầu kinh lễ Phật của tín đồ một làng hay một vùng nhưng nay thì
chức năng của chùa ngày càng phát triển với các nhu cầu khác nhau
của người tu hành và Phật tử cũng như của các địa phương.
-Từ đầu Công nguyên - thế kỷ IV : Giai đoạn đầu, Phật giáo chỉ
là những am miếu thờ Phật, tương đối gần gũi với những điện thờ tổ
tiên theo tín ngưỡng nguyên thuỷ mà người Việt rất mực coi trọng. Hệ
thống các ngôi chùa Tứ Pháp hiện nay là những ngôi chùa khởi thuỷ
cho việc Phật giáo từ ấn Ðộ, trực tiếp du nhập vào Việt Nam.
- Thế kỷ V - IX : Cho đến thế kỷ V - VI, thư tịch cho biết trên
đất Giao Châu có đến 20 chùa tháp. Ðến cuối thế kỷ VI, cho đến hết
thời kỳ Bắc thuộc, ngững ngôi chùa không để lại dấu vết gì ngoài ghi
chép vắn tắt của thư tịch.
- Thế kỷ X : Dưới những thời kỳ tự chủ của nhà Tiền Lý, nhà
Ngô, nhà Ðinh, Tiền Lê, tuy Phật giáo thịnh nhưng do thời gian tồn
tại của các triều đại không dài nên không dựng chùa xây tháp nhiều.
-Thời Lý : Dựa vào thực địa và thư tịch có thể chia chùa thời Lý
làm 4 loại khác nhau, loại thứ nhất là kiểu chùa dựng trên 1 cây cột
(chùa Một Cột). Chùa loại 2 là chùa có quy mô lớn kiêm hành cung để
vua nghỉ ngơi khi du ngoạn. Loại chùa thứ ba không có tháp, không có
hành cung nhưng cũng rất lớn, phát triển theo chiều sâu theo trục thần
đạo và nâng cao dần, khu điện thờ bố cục gần giống mặt bằng của
tháp. Cuối cùng là các chùa nhỏ nằm trong thôn xóm cơ bản chỉ là cái
am cho nhà sư tu dưỡng, và sau đó được mở mang trong khuôn khổ
gọn nhỏ.

Dưới thời Lý, chùa tháp dạng Ðại hoặc Trung Danh lam được
kiến tạo rất nhiều và tương đối đồ sộ so với các thời kỳ sau. Rất nhiều
6


tháp được xây dựng như tháp Tường Long, Chương Sơn, Long Ðọi,
Linh Xứng... Dạng kiến trúc này có thể dựa theo việc bố trí Tháp mà
phân thành hai loại:
+ Loại tháp là trung tâm, những cây tháp thời kỳ này là kiến trúc
chính của toàn cảnh chùa và chính thức là điện thờ Phật, trong lòng
tháp có đặt tượng Phật, tháp thường xây trên lưng chừng hoặc giưã
đỉnh núi, lấy núi làm nền để tôn thêm vẻ bề thế của mình. Các kiến
trúc phụ làm tăng phòng được bố trí xung quanh cây tháp.
+ Dạng kiến trúc nữa có thể kể đến nhờ vào tư liệu khảo cổ học là
chùa hình chữ tam với các cấp nền khác nhau. Ví dụ chùa Tiên Du
Phật tích tại Bắc Ninh, lớp nền thứ nhất bày tượng các con giống, lớp
thứ hai đặt các tăng phòng, lớp thứ ba xây tháp thờ Phật.
Thời Lý, bài trí tượng thờ chỉ dựa theo thư tịch cổ. Theo tấm bia
chùa Diên phúc mô tả khi ấy, điện thờ Phật có hình vuông. Cao nhất
thờ Quan Thế Âm, hai bên có Văn Thù, Phổ Hiền đứng chầu. Bậc dưới
thờ Tứ vị Thiên vương, hai bên điện thờ có hành lang đặt bát Bộ Kim
Cương, phía ngoài có tam quan thờ Hộ pháp, thờ Thổ thần và sư tổ.
Ngoài tháp thờ Phật thì thời này chỉ còn di vật khảo cổ được là những
chân tảng và nền cho thấy sự ra đời của các điện thờ Phật bằng kết
cấu gỗ.
-Thời Trần ( XIII - XIV): ở thời kỳ đầu, chùa tháp được xây
dựng dưới sự chỉ đạo của hoàng cung. Thờ Phật được thờ trong một
điện thờ riêng, cây tháp không còn chức năng thờ Phật nữa mà trở lại
tính chất là mộ chí của các nhà tu hành đạo Phật. Và khác với thời Lý
ở một điểm nữa, tháp thời Trần được bố trí trước điện thờ Phật, với

chức năng là biểu tượng của nhà Phật. Thời Trần cũng như thời Lý,
chùa tháp thường được lựa chọn những địa thế trên đồi lớn, núi cao để
xây dựng. Vị trí những ngôi chùa xây dựng thời kỳ đó chẳng những xa
lánh cuộc sống trần tục mà còn gợi nên không khí trầm mặc, thanh
7


tịnh và u nhã phù hợp với sự thiêng liêng của Thần Phật mà nhu cầu
tôn giáo đòi hỏi. Nói chung, theo thư tịch cũ, phần lớn các ngôi chùa
Bắc Bộ được khởi dựng từ thời Lý, Trần. Sau đó được xây dựng lại,
mở rộng quy mô, trùng tu lớn thời Mạc, Hậu Lê.
Từ thời Trần, kiến trúc gỗ đã có những bằng chứng khảo cổ tồn
tại. Một số Phật điện và tháp thời Trần còn khá nguyên vẹn cho đến
thời nay. Nền điện thờ Phật cao và hình vuông (phát triển từ tháp thờ
Phật thời trước). Tháp không đóng vai trò trung tâm như thời Lý nữa
mà trở thành yếu tố phụ thêm. Ví dụ chùa tháp Phổ Minh (Nam Ðịnh),
tháp Bình Sơn chùa Then (Vĩnh Phúc), tháp Tr ần Nhân Tông chùa
Hoa Yên... thường được xây trước ngôi chùa. Ðến cuối Trần, chùa
làng phát triển mạnh. Chùa gồm điện thờ Phật, sư Tổ, các phòng tăng,
các tháp mộ ở hai bên và phía sau điện thờ.
Ðiện thờ Phật thời Trần thường là kiến trúc gỗ có nền là hình
vuông và thời Trần còn xuất hiện kiến trúc kiểu chuôi vồ. Kết cấu
kiến trúc hình vuông có 4 cột to ở giữa, tạo thành bộ vì theo kiểu giá
chiêng gồm 1 câu đầu tỳ lực lên hai đầu cột cái. Bên trên câu đầu là
hai trụ trốn thấp đỡ một rường bụng, hai trụ giá chiêng phía trên cùng
có thể ôm một ván bưng chạm trổ hình lá đề với những phù điêu rồng,
tiên nữ. Giữa 4 cột cái và 12 cột quân xung quanh là những bức cốn.
Hình ảnh kết cấu kiến trúc này có thể gặp ở vì nóc cùng các bức cốn
thượng điện tại chùa Thái Lạc ( Hưng Yên) và thượng điện chùa Bối
Khê (Hà Tây).

- Thời Lê Sơ: Phật giáo bị hạn chế trong nhà nước phong kiến Lê
Sơ, nhà nước ngăn cấm việc dựng chùa, đúc chuông, tạc tượng mà đẩy
mạnh xây dựng cung điện đền đài, lăng mộ, văn miếu... mang nặng tư
tưởng Nho giáo.
-Thời Mạc: Kiến trúc chùa mới có điều kiện phục hồi sau khi bị
suy tàn trong thời kỳ Lê Sơ. Kiến trúc Phật giáo thời Mạc có phong
8


cách gần gũi với thời Trần. Ví dụ ở chùa Cói (quán Hưng Thánh Vĩnh Phúc) đã bị chiến tranh phá huỷ thì xưa có kết cấu kiến trúc dựa
trên 4 cột cái ở giữa, tạo thành 2 bộ vì giá chiêng đỡ mái. Bốn cột cái
nối ra các cột quân và cột hiên bằng những cốn và xà nách tạo thành
dạng kiến trúc một gian hai chái, 4 mái hình vuông. Cuối thế kỷ XVI,
kiểu chùa " nội công ngoại quốc" bắt đầu xuất hiện (dựa theo văn bia
chùa Phúc Lâm - Hà Tây). Bộ vì theo kiểu chồng rường, bẩy hiên
nhưng tạo cho ngôi chùa có vẻ thoáng đãng hơn và nhẹ nhàng hơn so
với thời Trần. Nhiều ngôi chùa làng được xây dựng và trùng tu như
chùa Thượng Trưng, chùa Hạ (Vĩnh Phúc), chùa Ninh Hiệp, chùa Ða
Tốn (Gia Lâm), chùa Bối Khê, chùa Hương Trai ( Hà Tây)...
- Bước vào thế kỷ XVII: ngôi chùa nội công ngoại quốc có thể
coi là đỉnh cao của truyền thống dựng chùa bằng vật liệu gỗ của người
Kinh. Nhiều thiền sư ở Trung Quốc sang nước ta truyền đạo tạo nên
một bức tranh kiến trúc mang nhiều dáng vẻ Trung Quốc. Ví dụ chùa
Bút Tháp ra đời, là công trình kiến trúc tổng hoà được các chất liệu gỗ
đá tạo nên một kiến trúc Phật giáo quy mô mang đậm những nét kiến
trúc Trung Quốc.
Phần lớn chùa ở Ðàng Ngoài được xây dựng thời gian này với quy
mô lớn dưới sự bảo trợ cùa chúa Trịnh hay các vương phi trong phủ
chúa. Kỹ thuật kiến trúc gỗ đã phát triển tạo nên các cụm nhà chữ
công, chữ khẩu, ngôi chùa nội công ngoại quốc là dạng chùa phổ biến

nhất. Kiến trúc chùa kiểu này có thể thấy ở những ngôi chùa thời đó
gồm chùa Bút Tháp, chùa Keo, chùa Mía... Nói chung, thời kỳ nay
kiến trúc chùa đã phát triển đến mức cao nhất với quy mô bề thế nhất
mà hiện còn đến ngày nay.
Trong khi đó, chùa Miền Trung bắt đầu được xây dựng dưới sự
ủng hộ của chúa Nguyễn như chùa Sùng Hoá ở Phú Vang, Bảo Châu ở
Trà Kiệu, Kính Thiên ở Quảng Bình... Chùa Thiên M ụ được chúa
9


Nguyễn Hoàng cho khởi dựng năm 1601 đến đời chúa Nguyễn Phúc
Chu mới hoàn thành (1691). Do ảnh hưởng quan niệm của Bà La Môn
giáo với đất vuông ở giữa, xung quanh là biển, 4 góc có 4 vị thiên
vương chống đỡ nên chùa thường bố trí theo dạng chữ khẩu gồm 4 toà
nhà bao quanh một sân ở giữa. Ví dụ như chùa Thập Tháp Bình Ðịnh
được lập bởi Thiền sư Nguyên Thiều ( người Trung Hoa) năm 1665
gồm 4 toà: chính điện, phương trượng, tây đường, đông đường.
- Thời Tây Sơn: Sang thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam
tiến sâu vào khủng hoảng trầm trọng. Cuối thế kỷ XVIII, Quang Trung
đã đập tan các tập đoàn phong kiến Nguyễn và Trịnh, Lê, tiêu diệt
Xiêm, Thanh, giữ vững nền độc lập của tổ quốc. Hai ngôi chùa theo
lối chữ tam tiêu biểu cho kiến trúc Phật giáo thời kỳ này được xây
dựng lại trên nền cũ, đó là chùa Kim Liên năm 1792, chùa Tây
Phương năm 1794 với đặc điểm nổi bật là sự dung hoà giữa hai tư
tưởng Phật và Nho. Khu tam bảo ba nếp chữ tam thông thoáng, đến
thời Nguyễn được xây bịt theo kiểu chữ Công. Hình thức kiến trúc hai
mái chồng diêm tạo sự nhẹ nhàng và thông thoáng, điêu khắc phong
phú và mang đậm tính triết lý.
- Trong thời Nguyễn: ở thời Nguyễn, ngoài một số ít ngôi chùa
của nhà nước tập trung ở Huế thì hầu hết các ngôi chùa còn lại là của

làng, xây dựng rải rác và được dựng lên bằng kinh phí do quyên góp
và công đức của địa phương. Chủ yếu, thời Nguyễn tổ chức tu sửa
những chùa đã có từ thời Lê với các dạng chùa nội công ngoại quốc,
khu tam bảo hình chữ đinh, chữ công...
Thời này, kiến trúc chủ yếu vẫn dựa vào mô hình sẵn có từ thời
trước nhưng có những sự pha trộn của nghệ thuật các nước khác. Ðến
thời kỳ cuối Nguyễn, các công trình dạng đầu hồi bít đốc là phổ biến.
Nhiều công trình tuy khung gỗ vẫn theo lối cổ truyền nhưng đầu hồi
được xây gạch cùng các cột vuông bằng gạch thay thế cho cột hiên
10


bằng gỗ các thời kỳ trước, thể hiện xu hướng kết cấu dựa trên những
vật liệu vững chắc hơn. Thời kỳ này ghi nhận sự pha trộn giữa kiến
trúc hai dòng văn hoá á - âu. Nhiều công trình xuất hiện các trụ gạch
và vòm cuốn như chùa Hưng Ký - Hai Bà, Hà Nội. ảnh hưởng của kiến
trúc Trung Hoa cũng được thể hiện qua hình thức trang trí nội và
ngoại thất của chùa (ví dụ chùa Cầu Ðông, chùa Hưng Ký Hà Nội).
Chùa Bắc Bộ được xây dựng không nhiều, chỉ chủ yếu được trùng
tu và xây thêm hạng mục mới. Các hình điêu khắc thờ này ít mang
tính dân gian, nghệ thuật thì chuộng hình thức và mang tính lai tạp
nhiều hơn. Xu hướng đơn giản hoá trong trang trí chùa làng thời kỳ
này là nổi bật, nhiều ngôi chùa được xây dựng chỉ để mang trong
mình giá trị tâm linh và văn hoá, mà giá trị kiến trúc và nghệ thuật ít
được coi trọng. Thành phần kiến trúc trở nên thanh mảnh hơn, thân
nhà được nâng cao so với tầng mái. Trang trí thường thấy ở dạng bào
trơn, soi gờ chạy chỉ và chạm trổ ít với các đề tài chủ yếu là tứ linh,
tứ quý....
Song song với các dạng cung điện, lăng mộ, chùa miền Trung
nhất là Huế được xây dựng rầm rộ. Chùa Miền Nam bắt đầu được khởi

dựng nhiều trong thời kỳ vua Nguyễn và đến những năm gần đây liên
tiếp diễn ra những cuộc trùng tu lớn hoặc xây mới hoàn toàn.
- Thời kỳ 1945 - nay: Thời kỳ 1945-1975, chùa ngoài Bắc hầu
như không được xây dựng mà nhiều chùa còn sử dụng vào mục đích
khác như trường học, kho, uỷ ban... Trong khi đó, ở trong Nam hàng
loạt chùa mọc lên với kiến trúc nhiều tầng, diện tích chiếm đất nhỏ,
khác biệt với truyền thống từ trước đến nay.
Sau năm 1975, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đời sống
người dân vất vả, kiến trúc Phật giáo cũng bị lãng quên. Sau nă m
1986, khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, công tác nghiên cứu
được thực hiện có hiệu quả. Kiến trúc Phật giáo trở thành các di sản
11


văn hoá của dân tộc, nhiều chùa được sửa sang, trùng tu và xây mới
trên khắp đất nước.
1.3.

KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM QUY HOẠCH, KIẾN TRÚC

CỦA NGÔI CHÙA VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
Nhìn chung, chùa Việt Nam hầu như không còn ngôi chùa nào giữ được
dáng dấp từ buổi đầu xây dựng. Hầu hết đều bị biến đổi theo các đợt trùng tu.
Tuy nhiên, kiến trúc truyền thống Việt Nam dù thuộc thời kỳ nào hay vùng
miền nào cũng đều mang những đặc trưng như hoà hợp với môi trường, hoàn
cảnh kinh tế văn hoá xã hội của địa phương. Ai làm nghiên cứu kiến trúc cổ
cũng thấy rằng, đặc điểm và giá trị các công trình truyền thống được thể hiện rõ
nhất qua tiến trình hình thành lâu dài và phát triển tại khu vực Bắc Bộ. Do đó
trong phần này, chủ yếu nghiên cứu những đặc điểm cơ bản chùa đồng bằng
Bắc Bộ, một số chùa xây dựng kiểu kết cấu truyền thống bằng gỗ tại miền

Trung và Nam Bộ từ năm 1945 về trước.
Các đặc điểm nổi bật của kiến trúc chùa tháp từ thời Lý trở đi đã trở thành
tiêu chí xuyên suốt cho kiến trúc truyền thống các thời kỳ sau tạo nên một nét
riêng Việt Nam. Các đặc điểm đó là địa hình vừa đẹp vừa tiện lợi, bố cục cân
xứng và hài hoà, sử dụng vật liệu phong phú và chọn lọc nhằm đạt được sự bền
chắc của công trình và nghệ thuật trang trí hoàn hảo.
1.3.1. Ðặc điểm về vị trí, thế đất và phong cảnh.
Phần này được nhìn nhận theo quan niệm truyền thống Việt Nam và theo
quan điểm của Phật giáo.
- Ngôi chùa thường được xây dựng ở những nơi có cảnh đẹp, sơn thuỷ hữu
tình. Tổ hợp không gian chùa luôn tuân theo nguyên tắc khép kín mang tính hệ
thống, tạo ra một không gian biệt lập với khu dân cư nhưng không quá cách xa
để thuận tiện cho việc tu dưỡng của tăng ni và giáo hoá chúng sinh. Những
công trình trên cao dễ tạo được cảnh quan đẹp mắt. Nhiều di tích còn lại hiện
nay đều được xây dựng trên núi, đồi.

12


- Cảnh quan chùa có thể coi là một không gian thiên nhiên trong đó ngôi
chùa như một nhân tố chính tô điểm cho không gian và ngược lại, các yếu tố
trong không gian bao quanh chùa như cây cối, mặt nước, núi non... phụ trợ cho
kiến trúc ngôi chùa tạo nên một thể thống nhất, biểu cảm và hài hoà. Ðó là đặc
trưng chính yếu của chùa Việt truyền thống, ngôi chùa thường yên ả, xinh đẹp
và hoà mình với thiên nhiên.
- Hướng công trình chính thường như sau:
+ Hướng Tây là hướng về đất Phật (Thiên Trúc) và hướng về nơi tịch diệt.
Là hướng ổn định nhất hợp với quy luật vận hành của âm dương. Ðây là hướng
chính của các ngôi chùa cổ ở Bắc Ninh như Dâu Keo, Mãn Xá, Phật Tích, Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Ðiện. Chùa Hoè Nhai, chùa Chân Tiên ( Hà

Nội) là những ngôi chùa hướng chính Tây.
+ Ða phần các chùa được làm theo hướng Nam (hướng Ðông Nam đến
Tây Nam), vì đó là hướng mát mẻ về mùa hè, tránh rét về mùa đông. Còn theo
Phật giáo thì hướng Nam trong sáng, đồng nhất với trí tuệ, mà Phật giáo lấy trí
tuệ đó để diệt trừ " Vô minh". Còn theo văn hoá Trung Hoa thì hướng Nam là
hướng các vị Bồ tát, thần linh thường quay về để nghe rõ các nỗi đau khổ của
con người để mà cứu giúp. (Chùa Phước Tường ở thành phố Hồ Chí Minh).
Một số hướng khác như Tây Nam ( chùa Bà Tề - Hà Tây, chùa Nam Dư
Thương - Thanh Trì), hướng Ðông Nam như chùa Huỳnh Cung (Thanh Trì),
chùa Tình Quang (Gia Lâm).\
+ Một số chùa quay hướng Ðông (nhất là các chùa Tiểu thừa Khơme Nam
Bộ) vì cho rằng hướng này là hướng của thần tới. Ví dụ chùa quay hướng Ðông
có chùa Nguyên Xá (Từ Liêm). Ngoài ra hướng Bắc là hướng không tốt về mặt
khí hậu và theo Phật giáo, nó tượng trưng cho sự đen tối. Một số chùa quay
hướng Bắc do có thể chứa đựng một sự tích riêng.
1.3.2. Bố cục khuôn viên và không gian các dạng chùa điển hình.
- Ðối với các dạng chùa xây dựng tại những khu vực tương đối bằng
phẳng, mặt bằng chùa thường dàn trải theo một trục dọc hoặc hướng vào một
13


tâm điểm. Nguyên tắc bố cục chung là cân bằng, quy củ hoặc tự do một cách có
hệ thống dễ tạo được sự trang nghiêm cho công trình. Trục thần đạo và tổ hợp
công trình đăng đối thể hiện được ba chiều cảnh quan, gợi nên sự cân bằng và
ổn định. Các lớp kiến trúc được dàn theo tuyến ngang và phân bố hai bên trục
xuyên tâm này tương đối cân bằng, các lớp nhà ngang liên tục cắt trục dọc tạo
cảm giác sâu hơn về không gian.
- Chùa thường được ngăn cách với khu vực dân cư bằng nhiều giải pháp,
tường bao, nhà hành lang, vườn hoặc hồ nước. Ví dụ dãy hành lang như ở chùa
Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Keo... vừa có chức năng thờ cúng lại vừa là chỗ để

chuẩn bị cỗ chay, đồng thời cũng là thành tố liên kết, vây xung quanh chùa
thành một khuôn viên nhà Phật. Các công trình kiến trúc Phật giáo trong thành
phố, để bảo đảm các cổ vật được gìn giữ và mang lại sự yên tĩnh cho công
trình, đồng thời tránh sự lấn chiếm, người ta sử dụng hệ thống tường bao quanh
để ngăn cách ví dụ như chùa Hoè Nhai, chùa Hưng Ký (Hà Nội).
- Các lớp kiến trúc được bố trí khiến cho người lễ chùa có cảm giác đi từ
cuộc đời trần tục đến nơi linh thiêng, từ thấp đến cao. Các thành phần kiến trúc
mềm mại, nối tiếp và hoà quyện vào nhau. Tựu chung lại, nguyên tắc xây dựng
chùa tháp từ thời Mạc về sau luôn theo quy tắc khép kín, biệt lập với thế giới
bên ngoài, tạo ra một không gian tôn giáo thiêng liêng. Tuy nhiên, ở trong
không gian khép kín đấy, mối tương quan hài hoà chính là sự hoà nhập đường
nét kiến trúc với các yếu tố thiên nhiên. Ðã vào trong khuôn viên chùa, thì các
kiến trúc đều được làm theo dạng mở, kiến trúc chuyển tiếp nhau dần dần.
- Ta thấy Phật điện thường là một trung tâm cao hơn, với ý nghĩa vào chùa
là lên với Phật, nói lên sự tiếp nối truyền thống xây dựng chùa thờ Phật từ
những thế kỷ đầu Công nguyên, đó là từ hình tượng những cây tháp thờ Phật
vươn cao. Cái đẹp bên trong Chùa gồm hệ thống tượng pháp, kiến trúc kết hợp
với cái đẹp bên ngoài của hình dáng kiến trúc cụ thể, với cảnh quan môi trường
xung quanh được lĩnh hội bởi những người mong muốn cảm nhận được cái
Chân Thiện Mĩ sâu xa của đạo Phật.
14


- Kiến trúc luôn có bố cục mang tính ẩn dụ, biểu tượng, chứa đựng triết lý
phương Ðông từ nội dung đến hình thức. Về không gian, kiến trúc chùa nói
chung đều gần gũi với người dân. Không gian kiến trúc các công trình trong
sáng đơn giản và phong phú đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của công năng sử
dụng mang tính chất công cộng. Không gian được tổ chức linh hoạt, cơ động,
thích ứng với tính chất sử dụng đa năng và kết hợp của nhiều loại hoạt động đa
dạng đòi hỏi sự tập trung người đông đảo.

1.3.3. Kết cấu Phật điện
a. Kết cấu chịu lực:
Các thành phần trong kết cấu chịu lực chính là:
- Cột: Kết cấu cột gia công từ một cây gỗ nguyên, khác với công trình
Trung Quốc là ghép nối. Cột có dáng " Ðầu cán cân, chân quân cờ" trong các
kiến trúc cổ bằng gỗ cổ truyền. Tỷ lệ thức cột đã được các nhà nghiên cứu đi
trước cho rằng nếu cột được chia làm 10 phần thì đường kính cột nở ra ở 1/4
chiều cao cột tính từ dưới lên. Ðường kính trên đỉnh bằng 6/10, đường kính
dưới chân cột bằng 8/10 đường kính chỗ to nhất. Tuy nhiên thức cột này
thường gặp nhất trong cột đình, chùa thời Lê ở đồng bằng Bắc Bộ lúc đỉnh cao
về nghệ thuật gỗ phát triển.
- Bộ vì: Cấu trúc bộ vì truyền thống Việt Nam biến đổi theo thời gian và
không gian bao gồm vì nóc, vì nách. Vì nóc là khoảng liên kết giữa hai cột cái
và vì nách là liên kết giữa hai cột cái và quân.
- Xà: liên kết các cột theo chiều dọc để giằng cố định như xà thượng, xà
hạ.
- Bẩy, kẻ đỡ mái: Bẩy hoàn toàn nằm ngang: gặp ở chùa Tây Phương: cả
ba toà thượng, trung và hạ điện đều chồng diêm hai tầng. Sức nặng của kiến
trúc trong trường hợp này dồn từ mái xuống cột hiên mái trên sau đó tất cả lực
dồn xuống xà nách dưới, làm điểm tựa đòn bẩy cho kẻ hiên mái dưới.
b. Kết cấu bao che:

15


Chùa thường có 4 mái ( 2 mái chính và 2 mái phụ), 2 mái, chồng diêm 2
tầng 8 mái... Mặt phẳng mái được tạo bởi nhiều dạng ngói, phổ biến nhất ở
ngoài Bắc là ngói vẩy cá, ngói mũi hài. Lớp ngói này được đặt trên 1 hoặc 2
lớp ngói chiếu (ngói lót). Hệ thống ngói lót được cố định bằng mè, mặt phẳng
mái được tạo ra bởi các thanh rui mỏng, nằm vuông góc với thân hoành.

Tường bao che dường như là mới xuất hiện khi nhu cầu về sự tách biệt
không gian tâm linh ra khỏi cuộc sống đời thường xuất hiện. ở hầu hết các di
tích vật liệu tường được sử dụng phổ biến là gạch nung, gạch hỗn hợp vôi đất.
1.3.4. Vật liệu và kỹ thuật xây dựng.
a. Vật liệu:
- Thời Lý, với vật liệu gạch đá, kiến trúc đã cho phép hình thành nên
những cây tháp nhiều tầng. Theo thư tịch, nhiều ngôi tháp có ảnh hưởng vật
liệu và phương thức xây dựng từ người Chămpa. Ðó là những viên gạch với độ
nung đủ để chạm khắc trang trí ngay trên bề mặt viên gạch, và chất kết dính rất
mỏng. Ðặc biệt là tháp Báo Thiên còn được xây dựng với kim loại đồng. Thời
Trần kế thừa các vật liệu thời Lý với kiến trúc gỗ, gạch đá và đất nung.
- Các công trình truyền thống thường sử dụng vật liệu gỗ ( thường gặp gỗ
lim, gỗ đinh, gụ, táu... cho hệ thống kết cấu khung cột, hệ thống cửa, rui
hoành... Ðá thường được sử dụng là đá nguyên khối từ đá ong, đá sa thạch, đá
xanh... sử dụng trong nền, bậc cấp, chân tảng.
- Vật liệu đất nung được sử dụng và chế tác thành các sản phẩm đáp ứng
các mục đích sử dụng khác nhau. Ví dụ, mái các công trình lợp ngói lòng máng
như âm dương, ngói ống ... và mái lợp ngói bản như ngói mũi hài, vẩy rồng,
vẩy hến, ngói di, ngói liệt là dạng mái nhiều lớp, dưới cùng là lớp ngói lót, trên
là các lớp ngói chính được xen chồng lên nhau để che mưa nắng. Tường tại các
công trình hiện nay thường là tường gạch nung, gạch hỗn hợp vôi đất, đá ong.
Gạch bát được sử dụng để lát nền sân, hiên... Gạch trang trí phủ ngoài mặt
tường, tháp, gạch nung sành để làm tháp mộ, gạch xây cột vuông...
16


- Ðối với kết cấu bê tông bắt đầu thấy xuất hiện từ cuối Nguyễn thời kỳ
thuộc Pháp, điển hình là cụm di tích Hưng Ký và trang trí trên mặt đứng hay
trên kết cấu đều được làm bằng sứ, gỗ và ghép liền với mặt bê tông của kết cấu.
1.3.5. Kỹ thuật xây dựng.

- Ðộ bền vững là một đặc trưng chính của các công trình kiến trúc chùa
cổ. Bí quyết làm cho các kiến trúc gỗ bền vững, bên cạnh việc chọn vật liệu (gỗ
to, gỗ tốt, đá cứng hay gạch nung già) mà đó là cả sự tính toán hợp lý của người
xưa về cả hình học, vật lý, cả về mỹ thuật và kỹ thuật thi công xây dựng. Ðó là
giá trị về tính toán cho kiến trúc luôn nằm trong thế cân bằng và ổn định.
- Trong kiến trúc gỗ nước ta, nhân tố cơ bản chống đỡ kiến trúc là các bộ
vì. Bộ vì được hình thành bởi các cây cột, hệ thống liên kết cột và là sự kết hợp
hài hoà hai yếu tố là lòng nhà và độ chảy của mái nhà. Sau đó, người ta nối các
vì với nhau bằng hệ thống xà ăn mộng qua các cột. Lực ép và sức nặng của
toàn bộ mái nhà dồn xuống các đầu cột. Các câu đầu, xà nách, kẻ, bẩy, các đầu
dư, đầu nghé hợp lý cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ cân bằng và
gánh đỡ kiến trúc của bộ vì.
1.3.6. Màu sắc trong kiến trúc Phật Giáo
- Màu sắc của chùa có màu tự nhiên của vật liệu xây dựng, màu nâu đỏ
của mái ngói, màu nâu của kết cấu bộ vì, vách gỗ, màu xám nhạt của chân tảng,
của bậc thềm đá... Màu vôi trắng của tường đầu hồi hoặc màu tự nhiên của các
hàng gạch xây tường miết mạch không trát. Các hoạ tiết đôi lúc được trang trí
bằng màu, màu xám nhạt của bờ nóc, bờ dải, bờ guột và đầu đao góc mái. Một
số dạng màu thường được sử dụng trong các công trình để tạo nên sự tương
phản về độ sáng. Ví dụ như gam màu trắng của tường quét vôi là sáng trong khi
gam nâu sậm của gỗ là tối, hoặc gam đỏ sậm của gạch trần là tối nổi lên khoảng
trắng của cửa sổ là các hình chữ Thọ hoặc biểu tượng sắc - không đắp vữa...
- Ngoài màu tự nhiên của vật liệu, một số công trình còn sử dụng màu
vàng và đỏ của đồ gỗ sơn son thếp vàng. Các gam màu vàng đỏ có thể bắt gặp
ở bất kỳ một công trình chùa nào trong các đồ thờ, tượng, hoành phi... Màu
17


vàng son với ánh sáng đèn, nến, hương khói mờ ảo tạo nên một không gian linh
thiêng hơn, vừa thực lại vừa hư, thể hiện triết lý vô thường của nhà Phật.

- Ðến thời Nguyễn, với đặc trưng của thời Nguyễn là giao lưu học tập
nước bạn, do đó có thể nhận thấy màu sắc Trung Hoa trong một số công trình.
Cột phủ sơn mài thếp vàng và vẽ hình mây, rồng cuốn với hai màu vàng đỏ là
chủ đạo, vẽ bột màu trên các hoa văn trang trí với màu sắc sặc sỡ ...
- Chùa truyền thống ba miền có một nét chung là ánh sáng trong chùa rất
ít, chủ yếu là sử dụng ánh sáng khúc xạ và phản quang thông qua các bộ phận
như cửa sổ, cổ diêm hoặc thiên tỉnh và ánh sáng nhân tạo là đèn, nến... Ðiều
này là kết quả của việc quan niệm nơi thờ Phật thì phải linh thiêng, huyền bí,
trang nghiêm, kiến trúc như vậy phải u trầm tĩnh mịch tạo một tâm lý tôn kính
cho con người bước chân vào nơi cửa Phật.
1.3.7. Quy luật và nguyên tắc bố cục
Bố cục trong kiến trúc chùa truyền thống Việt Nam cũng như các công
trình khác đều tuân theo một số quy luật và nguyên tắc tạo hình là thống nhất
và biến hoá, tương phản và dị biến, vần luật và nhịp điệu.
a.

Thống nhất và biến hoá:

Là nguyên tắc quan trọng nhất trong bố cục tạo hình, nêu lên hai mặt đối
lập trong hình thức nghệ thuật. Tính thống nhất được thể hiện qua hệ thống kết
cấu, các bộ phận cột, xà, kẻ, bẩy, vì đều liên kết với nhau tạo thành một thể
hoàn chỉnh và cùng được chế tác từ vật liệu gỗ. Còn tính biến hoá được thể
hiện qua việc sử dụng vật liệu xây dựng trong một công trình phong phú, đa
dạng. Trong kiến trúc chùa truyền thống, ta có thể bắt gặp các biểu hiện cụ thể
của tính thống nhất và biến hoá trong một số điểm sau:
+ Tương phản và dị biến: có thể nhận thấy tương phản rõ rệt giữa cái đặc
với cái rỗng, sáng tối, kín hở, phương hướng, cái thanh thoát nhẹ nhàng với cái
nặng nề gây ấn tượng, về màu sắc chất liệu...
+ Vần luật và nhịp điệu: thể hiện qua nhiều hình thái khác nhau ví dụ như
nhịp điệu lặp lại của từng gian trong kết cấu hoặc ta có thể gặp những sự lặp lại

18


liên tục của một thành phần giống nhau (vần luật liên tục) trong trang trí hoa
văn. Vần luật và nhịp điệu thay đổi theo quy luật ta có thể gặp ở các dạng tháp
với các tầng nhỏ dần lên trên đỉnh.
+ Chủ yếu, thứ yếu và trọng điểm: Phần kiến trúc chính bao giờ cũng rộng
nhất và thường cao nhất với tập trung mọi tinh hoa kiến trúc và nghệ thuật của
đội thợ xây dựng công trình.
+ Liên hệ và phân cách: Sự liên hệ và phân cách thể hiện qua các bộ phận,
các thành phần kiến trúc khác nhau và rõ nhất là yếu tố hình khối thiên nhiên
và kiến trúc công trình tương đối độc lập nhưng nhờ không gian mở của hàng
hiên, của các dãy nhà hành lang, làm yếu tố chuyển tiếp đã khiến không gian
vườn như ăn sâu vào công trình.
b.

Cân bằng và ổn định:

+ Bố cục kiến trúc: Khuôn viên thường được bố trí xoay quanh một tâm
điểm ( thời Lý) hoặc đăng đối qua một trục (thời Trần về sau) tạo sự cân bằng,
trang nghiêm bề thế cho công trình. Ngay trong mặt bằng công trình cũng được
bố trí hợp khối từ những hình chữ nhật cũng tạo nên sự cân bằng và ổn định.
Bố trí tượng thờ trong mặt bằng cũng thường được bố trí đăng đối qua trục. Ðối
với các công trình phụ khác trong khuôn viên, thông thường nếu có đủ diện tích
thì người ta cũng xây dựng theo kiểu đối xứng. Tuy nhiên tuỳ theo địa hình và
nhu cầu xây dựng mà người xưa đã có những thay đổi phù hợp. Với các công
trình như tháp, gác chuông lại có dạng bố cục hướng tâm, mặt bằng có thể là
hình vuông, hình lục giác, hình bát giác hoặc hình tròn.
+ Hình thức kiến trúc: tính cân bằng và ổn định thể hiện qua hình thức
kiến trúc có thể thấy rõ nhất là ở các ngôi tháp. Ví dụ ở thời Lý, người xây

dựng dường như đã có tính toán và chọn lọc khi ứng dụng nhiều loại chất liệu
khác nhau để kết cấu tháp ổn định hơn. Những tảng đã xanh với độ chịu nén
cao, nặng nề thì được sử dụng làm nền và các tầng dưới. Các tầng trên người ta
sử dụng gạch nung, mỏng thậm chí là đồng ( tháp Báo Thiên) để chân nền tháp

19


chỉ phải chịu một lực nhỏ hơn khiến công trình sẽ tránh được các nguy cơ như
lún, sụt, nứt.
c.

Tỷ lệ kiến trúc:

Ðặc thù nghệ thuật trong tạo hình kiến trúc được biểu hiện rõ nét ở mối
tương quan tỷ lệ. Tỷ lệ chính trong bản thân, giữa cái lớn cái bé, cái chung cái
chi tiết, tỷ lệ giữa các chiều trong không gian,... Và được thể hiện cả ở mối
tương quan giữa công trình với môi trường xung quanh, với thiên nhiên cảnh
quan. Trong kiến trúc truyền thống không có các công trình kiến trúc đồ sộ.
Các công trình có kích thước tương đối lớn cũng gắn bó hoà hợp với thiên
nhiên và con người, không có tác động thống trị và áp đặt lên thiên nhiên và
con người.
- Tỷ lệ về tương quan giữa độ dài, độ rộng và độ cao của bản thân cấu
kiện, một bộ phận hoặc tổng thể kiến trúc:
Tương quan tỷ lệ giữa các thành phần kiến trúc trong cùng một công trình
không quy chuẩn thật chặt chẽ bằng thước tầm do đó không có một mẫu mực
thống nhất. Từng địa phương, từng hiệp thợ mang đến những nét khác nhau và
riêng biệt cho từng ngôi chùa.
Về mặt bằng, hầu hết các ngôi nhà đều tổ hợp từ hình chữ nhật với các
gian lẻ. Các tỷ lệ giữa thành phần kết cấu nhà với nhau bao giờ cũng có một sự

tương quan kích thước nhất định mang đến sự hài hoà. Về không gian mà chủ
yếu được quyết định bởi các bộ vì. Bộ vì được hình thành bởi 6 cây cột (2 cột
cái, 2 cột quân và 2 cột hiên) hoặc 4 cây cột ( 2 cột cái và 2 cột quân). Vì kèo
có tỷ lệ đứng / ngang = 2/3 tạo thành độ dốc i = 66,6 %.
- Tương quan tỷ lệ giữa bộ phận và tổng thể, giữa bộ phận này với bộ
phận khác, giữa các công trình với nhau. Tỷ lệ giữa các bộ phận công trình hài
hoà, thống nhất. Thông thường, trong kiến trúc chùa Việt Nam, khu tam bảo
bao giờ cũng lớn nhất và cao nhất để nhấn mạnh tính trọng tâm và thứ yếu của
bố cục.

20


- Tương quan giữa kích thước cấu kiện, bộ phận và công trình kiến trúc
với con người và thiên nhiên Việt Nam. Yêu cầu về nhân chủng học và nhu cầu
hoạt động của con người kết hợp với đặc tính của gỗ, quy mô không gian do
kết cấu gỗ tạo nên... đã đạt được tính tỷ lệ về con người và kiến trúc. Tỷ lệ
không gian gần gũi và gắn bó với hoạt động của con người.
1.3.8. Trang trí, điêu khắc công trình.
- Bố cục trong một tác phẩm điêu khắc: là thước đo lớn nhất cho sự thành
công của tác phẩm. Trong kiến trúc cổ, ta thường gặp bố cục theo kiểu cân
xứng ( những cặp rồng, những hoa văn hoạ tiết đối nhau...). Bố cục hướng tâm
( có hoa văn trung tâm trong một khung khép kín), bố cục hình dải ( hoa cúc,
dây hình chữ công)...
Kiến trúc sử dụng điêu khắc như một yếu tố phụ trợ tăng tính nghệ thuật
cho công trình, đồng thời diễn đạt ý nghĩa biểu trưng, cái thần của công trình
trong việc sử dụng các hoa văn, đề tài trang trí mang đậm ý nghĩa tượng trưng.
Xem thêm về các dạng hoa văn, hình tượng trang trí thường gặp trong ngôi
chùa tại phụ lục 5.
Các công trình Phật giáo còn lại từ thời Lý - Trần đã có kết hợp cả yếu tố

văn hoá ấn Ðộ thông qua Chàm và một phần văn hoá Hoa và mang đậm chất
Phật giáo. Các yếu tố văn hoá ấn có thể thấy trong thẩm mỹ Việt là hình tượng
các vũ nữ múa, các tượng chim kiểu Kinnari và chim thần kiểu Garuda... có
nguồn gốc từ ấn Ðộ đã được Việt hoá. Nhiều hình trang trí tạo thế thống nhất
ngay cả trong ý nghĩa như sóng nước với mây trời, hoa sen âm với hoa cúc
dương. Con rồng thời kỳ này tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam không pha trộn,
đó là con rồng hình rắn, có mào lửa gắn với thần rắn. Trời Trần, hình chạm ta
thấy ở các chùa Thái Lạc, Bối Khê... mang nhiều nét văn hoá ấn và Hán song
đã được dân tộc hoá. Các thời kỳ sau kế thừa tinh hoa của thời kỳ trước và biến
đổi phù hợp với kỹ thuật và nhu cầu tôn giáo. Thời Lê Sơ, Nho giáo là chủ đạo,
hình tượng trang trí chỉ gặp ở các dạng biểu tượng. Thời Mạc, trang trí hình ảnh
dân dã như các hoạt cảnh, con người kết hợp với kế thừa trang trí thời Trần
21


khiến nghệ thuật có thể nói là phát triển theo hình thức tự phát, chạm bong
kênh bắt đầu xuất hiện và phát triển thay cho hệ thống chạm nông trước đây.
Mỹ thuật Mạc đã thoát dần khỏi ảnh hưởng của nghệ thuật Chămpa và Trung
Hoa vốn có từ thời kỳ mỹ thuật trước đó. Thời Nguyễn, nghệ thuật dân gian bị
hạn chế, các mô típ chủ yếu được sử dụng là bộ " Tứ linh" và " tứ quý" tạo
thành một khuôn mẫu không thay đổi. Thời kỳ này song song với việc chạm
khắc vẫn trên các kết cấu gỗ thô mộc thì xuất hiện một số công trình sơn son
thếp vàng, vẽ lên trên cấu kiện gỗ (mang ảnh hưởng của Trung Hoa).
1.4.

BẢNG SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC VÀ HỆ THỐNG

BÀI TRÍ TƯỢNG THỜ TRONG CÁC NGÔI CHÙA TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM Ở BA MIỀN BẮC – TRUNG – NAM.
NỘI


NGÔI

NGÔI

NGÔI CHÙA

DUNG SO

CHÙA MIỀN

CHÙA MIỀN

SÁNH

BẮC

TRUNG

Phật

Quá

giáo

- Phật

trình ra đời truyền vào Việt thâm

nhập


MIỀN NAM

giáo

Phật giáo thâm

vào nhập vào bằng 3

và phát triển Nam khoảng thế theo hướng các vị hướng chính:
của Phật giáo kỷ I sau Công truyền giáo truyền
nguyên

-

Hướng

từ

bằng bá Phật pháp theo miền Thuận Quảng,

đường biển nối đường biển sang những nhà sư người
Giao

Châu

với Ðà Nẵng và từ Ðà Việt, người Hoa theo

Thiên Trúc do các Nẵng đi các vùng cả đường thuỷ và
vị




ấn

Ðộ miền Trung kể cả đường bộ vào Sài

truyền vào. Phật Thừa Thiên Huế.
- Ðạo Phật từ

giáo Trung Hoa

Gòn.
-

Hướng

từ

và Trung á cũng thời Trần trở đi đã Trung Quốc, những
theo

đường

thâm

nhập

bộ thịnh, nhiều chùa nhà sư theo đường
vào thuộc


22

về

Thiền biển từ Trung Quốc


miền Bắc nước ta Tông

được

xây vào Sài Gòn.

khoảng thế kỷ II dựng trên vùng đất
đến III sau Công này.

-

Hướng

Campuchia,

từ

những

- Ðến đời các nhà sư theo đường

nguyên.


chúa Nguyễn, một bộ vào Sài Gòn. [28]
số chùa được sửa

Phật giáo Nam

hoặc xây lại như Bộ bắt đầu được mở
chùa

Thiên

Mụ mang cùng với sự

(1601), chùa Sùng khai phá đất đai của
Hoá (1602), chùa di dân. Những ngôi
Thuận An (1688)... chùa, am đầu tiên
được

- Trong
khoảng

thời

xây

dựng

kỳ khoảng thế kỷ XVII

này, hình thức thảo để thoả mãn nhu cầu

am ( tiền đề cho về tinh thần cho
những ngôi chùa) người dân ở vùng
được dựng lên rất đất mới.
nhiều như thảo am
trên núi Hàm Long
nay là chùa Báo
Quốc..
Đ
ặc

K
iến

Bố cục các

- Hầu

hết

- Ða

số

các

chùa thường gặp chùa miền Trung chùa ở Nam Bộ quay

điểm trúc

hiện nay theo kiểu trong giai đoạn đầu về hướng Nam.


kiến

Phật

chữ " Ðinh", chữ là những am tranh

trúc

điện

"Công",

chữ một gian hai chái..

"Tam", "nội công

- Chùa

ngoại quốc", chữ mang

23

đặc

- Kiến trúc chùa
cổ thường gặp với

Huế nhiều toà nhà song
trưng song nối lại với nhau



" Nhị".

riêng trong phong và phát triển theo

Hình
các

công

thức cách kiến trúc, tổ chiều sâu. Dạng vì
trình chức vườn chùa, kèo nhà xiên trính

Bắc Bộ thường và cả cách hành lễ, (theo cách gọi Nam
gặp là kiểu tầu giới luật của chư Bộ) 1 gian 2 chái ở
đao lá mái với các tăng.
đầu đao cong vút,

dạng chữ nhất , hoặc
- Các chùa ở nhà xếp đọi (theo

mang lại cảm giác Thuận

Hoá

đều cách gọi nhà nông

nhẹ hơn cho phần nằm trên đồi cây thôn Nam Bộ).
mái

chiếm

nặng
tới

công trình.

nề cao bóng mát, là

- Dạng chữ nhị

2/3 những ngôi chùa có sân thiên tỉnh ở
thực sự có cảnh trí giữa, hoặc dạng nhà
tĩnh

lặng,

môi chữ tam và có sân

trường thiên nhiên thiên tỉnh).
trong lành...

- Chùa luôn có

- Các điện thờ sân thiên tỉnh và
thì hầu như có một không gian chuyển
phong cách chung tiếp với bên ngoài là
là bình dị, thoáng hành lang bao quanh
đãng




trang các mặt chùa tạo

nghiêm. Sau điện điều kiện cho ánh
thờ thì thường có sáng đi gián tiếp vào
vườn hoa, sân, cây sâu bên trong công
cảnh, non bộ, khu trình. Ðôi khi mặt
tháp mộ được đặt bằng chùa cũng có
phía sau chùa.

dạng chữ công và

- Chùa thường chữ đinh.
được bố cục theo

24

- Có một số đặc


kiểu chữ "Nhất", điểm của chùa Nam
chữ “Môn”, chữ Bộ mà hiện nay đã
ảnh hưởng đến ngoài

"Khẩu" .

Bắc và Trung Bộ đó
là thờ tượng Ðức
Quan Âm Bồ Tát

ngoài sân dạng đài
hoặc có mái che và
thường

được

đặt

trước chánh điện..
Cũng giống

Đ

Kết cấu gỗ ở

ngôi

ặc

các kiến trúc dân miền

trưng

tộc khác, kết cấu hiện qua những bộ cấu gỗ, về sự lắp

kết

ngôi

cấu


đồng bằng Bắc cấu theo lối biến kẻ... Kết cấu tứ trụ ở

chịu

Bộ chủ yếu là thể

lực

khung

chùa

gỗ

Trung

Những

thể chùa này đẹp ở kết

Việt vì cao thoáng, kết ghép cột, xà, kèo,
của

vì kèo giữa, qua hệ thống

mái chồng rường. Hệ xà lòng tạo cho các

ngói đặt trên nền con sơn nằm ngang mặt phẳng kiến trúc
bằng đất, đá đắp kiểu

cao hơn so với Trung

đấu
Quốc

củng đạt ổn định về cả 4
đã phía, tạo thành bộ

xung quanh. Kiến được cải biên ra khung tứ tượng trên
trúc

các

công đời thay cho hệ mái phản ánh vũ trụ

trình thường được thống

bẩy

phát quan và nhân sinh

tổ hợp từ các gian triển ngoài miền quan Ðông Dương.
vì kèo với số gian Bắc. Thường gặp Kèo xuyên (đỡ mái
lẻ, độ sâu lòng nhất là chùa một chính) và kèo trính (
nhà xác định dựa gian hai chái, kiểu kèo góc) đỡ toàn bộ
trên số hàng cột tứ vị tam gian, cột hoành và rui, dễ

25



×