Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.31 MB, 214 trang )

Header Page 1 of 166.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ LỆ THANH

THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Footer Page 1 of 166.

HÀ NỘI – 2002


Header Page 2 of 166.

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.
MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................. 6
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 7
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................................ 7
2. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI............................................... 10
2.1.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ............................................................................... 10


2.2.Nhiệm vụ của luận án ................................................................................................... 11
2.2.1.Nhiệm vụ chính: .................................................................................................... 11
2.2.2.Nhiệm vụ phụ trợ: ................................................................................................. 11
3.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .............................................................................................................. 11
3.1.Thời điểm trước khi thơ Mới ra đời (đầu thế kỷ XX- 1931). ....................................... 12
3.2.Thời điểm từ 1932- 1945. ............................................................................................. 14
3.3.Thời điểm từ 1945 đến 1985. ....................................................................................... 18
3.4.Thời điểm từ 1986 đến nay. .......................................................................................... 21
4.CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................. 27
5.NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN .................................................................... 27
6.BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN: .................................................................................................. 28

Chương 1: SỰ HIỆN DIỆN CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM Ở NĐTKXX 29
1.1.Xung quanh khái niệm TĐL và TĐL Việt Nam.............................................................. 29
1.1.1.Về khái niệm "thơ Đường luật". ................................................................................ 29
1.1.2.Về khái niệm "thơ Đường luật Việt Nam"................................................................. 32
1.2.Những điều kiện để TĐL tiếp tục hiện diện ở NĐTKXX. .............................................. 33
1.2.1.Đặc trưng nghệ thuật và khả năng sinh tồn của thể thơ Đường luật ......................... 33

Footer Page 3 of 166.

3


Header Page 4 of 166.
1.2.2.Từ thành quả TĐL, ở thời trung đại để nghĩ về TĐL ở NĐTKXX. .......................... 34
1.2.3.Môi trường xã hội - văn hóa dù đổi thay rất lớn, vẫn có phần môi sinh của TĐL .... 42
1.2.4.Một lực lượng sáng tác TĐL vẫn có mặt ở NĐTKXX. ............................................. 47
1.3.Sự hiện diện của TĐL Việt Nam ở NĐTK XX. ............................................................... 52
1.3.1.Thơ Đường luật trong bộ phận thơ ca công khai. ...................................................... 53

1.3.2.Thơ Đường luật trong bộ nhận thơ ca yêu nước và cách mạng. ............................... 58

Chương 2: HỆ THỐNG ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG
THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM NĐTKXX ............................................................. 63
2.1.Đề tài và cảm hứng thiên nhiên trong TĐL NĐTKXX. ................................................. 65
2.1.1.Thiên nhiên trong thơ Đường luật Hán. .................................................................... 66
2.1.2.Thiên nhiên trong TĐL bằng chữ Quốc ngữ. ............................................................ 73
2.2.Đề tài và cảm hứng yêu nước trong TĐL NĐTKXX ...................................................... 82
2.2.1.Đề tài và cảm hứng yêu nước trong TĐL của bộ phận thơ ca cách mạng ................ 84
2.2.2.Nội dung yêu nước trong TĐL của bộ phận văn học công khai................................ 97
2.3.Đề tài và cảm hứng lịch sử trong TĐL NĐTKXX. ....................................................... 101
2.4.Đề tài và cảm hứng về nhân thế trong TĐL NĐTKXX ................................................ 107
2.4.1.Thơ Đường luật NĐTKXX với đời sống xã hội...................................................... 109
2.4.2.TĐL NĐTKXX với đề tài và cảm hứng về đời tư................................................... 120

Chương 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ CỦA TĐL VIỆT NAM
NĐTKXX ....................................................................................................................... 132
3.1.Đặc điểm về từ ngữ. ....................................................................................................... 133
3.1.1.Thơ ĐL Hán và sự xuất hiện của lớp từ bình dân. .................................................. 135
3.1.2.Đặc điểm từ trong TĐL Quốc ngữ........................................................................... 139
3.1.2.1.Đặc điểm từ vựng: ............................................................................................ 139

Footer Page 4 of 166.

4


Header Page 5 of 166.
3.1.2.2.Đặc điểm từ loại. .............................................................................................. 149
3.2.Đặc điểm về ngữ pháp. .................................................................................................. 155

3.2.1.Đặc điểm ngữ pháp Đường luật Hán ....................................................................... 156
3.2.2.Đặc điểm ngữ pháp trong Đường luật Quốc ngữ. ................................................... 160
3.3.Những đặc điểm về ngữ âm ........................................................................................... 166

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .......................................................................................... 174
CÁC CỒNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................... 180
TƯ LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 181
PHẦN PHỤ LỤC .......................................................................................................... 195

Footer Page 5 of 166.

5


Header Page 6 of 166.
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.

ĐL

Đường luật

2.

TĐL

Thơ Đường luật

3.


NĐTKXX

Nửa đầu thế kỷ XX

4.

ĐL Nôm

Đường luật Nôm

5.

ĐLHán

Đường luật Hán

Footer Page 6 of 166.

6


Header Page 7 of 166.
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đường luật (TĐL) là một trong số các
thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá đài từng có vị trí gần như là độc tôn trên
thi đàn Việt Nam. Chưa đủ căn cứ để xác đinh TĐL vào Việt Nam năm nào, nhưng nếu thời
điểm ra đời văn học viết Việt Nam được tính ít nhất từ thế kỷ X, thì đến nay TĐL đã tồn tại ở

Việt Nam ngót mười thế kỷ. Ngót mười thế kỷ, một thể thơ ngoại nhập đã được người Việt
Nam sử đụng để sáng tạo biết bao giá trị. Không ai quên, với Đường luật, Nguyễn Trãi đã tạo
nên một "niềm ưu ái" đầy tâm huyết. Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên một phong cách triết gia
trầm tĩnh, nhuần nhị. Hồ Xuân Hương để lại một phong cách trữ tình trào phúng "thi trung hữu
quỷ". Bà Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực.... Nghĩa
là trong suốt mười thế kỷ ấy, nền thơ Việt Nam đã đạt đến những đỉnh cao của nghê thuật thơ
ca cổ điển, một phần có sự đóng góp của thể loại thơ độc đáo này. Từ những thành qủa ấy,
TĐL đã trở thành món ăn tinh thần quen thuộc, hấp dẫn của hầu hết các thế hệ người Việt Nam
yêu thơ xưa.
Nhưng rồi, bước sang đầu thế kỷ XX, trước nhưng đổi thay lớn tao của thời đại, sự ảnh
hưởng của văn hoá phương Tây, những chuyển biến trong nhận thúc thẩm mĩ của lớp thanh
niên Tây học, đặc biệt là sự xuất hiện và chiếm ưu thế của nhiều thể loại mới, TDL mất dần địa
vị trên thi đàn. Không ít người, sau thất bại của "thơ Cũ" trong trận chiến với "thơ Mới" hồi 32
- 45, đã đi đến kết luận: Sinh mệnh nghệ thuật của thể TĐL đến đây là chấm dứt, hoặc nếu còn
cũng chỉ là cái xác không hồn...
Sự thật có hẳn như thế không với công việc nghiên cứu? Nhất là đến nay, thời gian đã cho
một độ lùi 6, 7 chục năm?
Đặt vấn đề nghiên cứu: “Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX” là chúng tôi
muốn được lý giải lại một hiện tượng văn học đã có vấn đề như thế. Sau đây sẽ là những căn cứ
và cũng là những lý do cho việc chọn đề tài luận án.

Footer Page 7 of 166.

7


Header Page 8 of 166.
1.1.Trước hết là căn cứ vào thực tế tồn tại của TĐL ở NĐTKXX. Như chúng ta đã biết,
chuẩn mực cao nhất của tồn tại là chất lượng. Vậy nên nếu biết chắc sự tồn tại của TĐL
NĐTKXX chỉ là sự tồn tại của xác mà không hồn, chúng tôi sẽ không còn hứng thú đặt vấn đề

nghiên cứu. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu công phu và có sức
thuyết phục nào để nói điều hơn lẽ phải về vấn đề nay. Vì thế, hãy tạm biệt là nó có tồn tại, mà
với kết quả sưu tầm, tập hợp đến hôm nay, chúng tôi đã có khoảng hơn 5000 bài TĐL của gần
400 tác giả thuộc nhiều bộ phận, nhiều tần lớp khác nhau, trong đó đặc biệt có những tác giả
của dòng văn học cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng, Hoàng Trọng Mậu, Lê Đại, Hồ Chí Minh, có cả những tác giả của chính phong trào thơ
Mới như Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Bích Khê, Ngân Giang, Đinh Hùng, Mộng
Sơn, Vũ Hoàng Chương...Và chỉ riêng sáng tác của những gương mặt tiêu biểu này TĐL đã lên
tới hàng nghìn bài (Phan Bội Châu có 646 bài, Phan Châu Trinh 316 bài, Hồ Chí Minh 115 bài,
Quách Tấn có 109 bài, Bích Khê 27 bài, Đông Hồ 53 bài, Ngân Giang 70 bài...). Thiết nghĩ,
một hiện tượng văn học, tồn tại với số lượng lớn, kéo đài suốt nửa thế kỷ, gắn với những tên
tuổi như thế, lại chưa được đầu tư nghiên cứu đúng mức, đã đến lúc đòi hỏi phải có một công
trình nghiên cứu công phu, khả dĩ đáp ứng nhu cầu trả lời câu hỏi cần thiết: thực tế TĐL Việt
Nam NĐTKXX là thế nào.
1.2. Thứ đến là căn cứ vào độ lùi của thời gian. Tính từ khi ở Việt Nam có quan điểm phủ
nhận TĐL đến nay, văn học đã có một chặng đường tròn 60 năm. Với bao sự biến của lịch sử,
kéo theo sự biến thiên vẻ tâm lý, nhận thức thẩm mĩ, TĐL và số phận của nó lẽ nào không được
hưởng "lộc" biến thiên của thời gian. Đây không phải là một ngoại lệ, vì trong lịch sử phê bình
văn học thế giới cũng như Việt Nam, đã có biết bao nhiều hiện tượng văn học tồn tại trong sự
ba động, sự biến thiên của thời gian và cũng đều được hưởng những đãi ngộ của sự biến thiên
này. Không đâu xa lạ chính thơ Mới, văn xuôi lãng mạn và cả văn học yêu nước và cách mạng
trước đây từng được hưởng. Từ điều này chúng ta có được căn cứ thứ ba.
1.3.Căn cứ vào khuynh hướng nhìn lại đối với TĐL NĐTKXX. Theo dòng lịch sử, nếu
trên 60 năm là một chặng dường đài đủ để các tác phẩm TĐL Việt Nam NĐTK XX chịu sự thử
thách và chọn lọc khắc nghiệt của thời gian và cũng đủ để người nghiên cứu bình tĩnh khai
thác, đoán định hết những giá trị thực sự của các tác phẩm, thì song song với quy luật ấy,
những đánh giá về nó cũng văn không ngừng được luận bàn và nhìn lại. Ngay từ năm 1941,

Footer Page 8 of 166.


8


Header Page 9 of 166.
Chế Tan Viên đã nêu lên quan điểm nhìn lại đẩu tiên về vấn đề này: "Mùa cổ điển bé bỏng,
nhưng quá đầy đủ, trước hết đã giải cho ta một mối lầm ác nghiệt, là phân chia bờ cõi thơ bằng
hai chữ Mới - Cũ chẳng có ý nghĩa gì " [tr 5 – 161]. Thực chất đây là sự nhìn lại khá lý thú,
được tồng kết có lẽ không chỉ dùng với Mùa cổ điển của Quách Tấn mà còn đúng với nhiều
hiện tượng thơ ca khác ở NĐTKXX, trong đó có TĐL.
Từ đó đến nay, khuynh hướng này vẫn tiếp tục được đặt ra và ngày càng cụ thể hơn. Có
thể có nhiều cách nhìn lại khác nhau nhưng khái quát trong một nhận xét chung là: ở
NĐTKXX, để tồn tại, TĐL Việt Nam đã dần dần chuyển hoá trên tất cả các phương điện như
ngôn ngữ, thể loại, nội dung, cấu tứ... nhằm đáp ứng nhu cầu của thời đại mới.
So với kết luận phủ nhận TĐL hồi thập kỷ 30, những nhận xét giờ đây về cơ bản đã mang
tinh thần khác. Nếu chưa xem những nhận xét này là một kết luận, thì ít ra chúng cũng chứng
tỏ giới nghiên cứu đã không chịu dừng lại ở một định kiến như đã có.
1.4.Với thực tế tồn tại, với độ lùi của thời gian và một khuynh hướng “xét lại” về TĐL
NĐTKXX, chúng tôi thấy đã đến lúc phải tìm hiểu lại hiện tượng thơ Đường luật Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX trong một tâm thế mới như sau:
- Một mặt, phải thừa nhận rằng trong bối cảnh nền văn học đang chuyển mình theo hướng
hiện đại, việc đưa ra quan điểm phủ nhận TĐL là có căn cứ. Bởi như mọi người đều biết trong
dòng chảy của thơ ca nhân loại cũng như thơ ca dân tộc, vấn đề cũ-mới là vấn đề có thật đã
từng điễn ra và nhất là hay điễn ra khi có sự thay đổi hình thái xã hội. Xã hội Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau 1930 lại ở vào thời điểm có nhiều thay đổi, về điệu sống,
tâm lý sống, đặc biệt là thị hiếu văn chương trong đó một tầng lớp công chúng mới đã xuất hiện
trong hoàn cảnh mới của xã hội... nên việc phủ nhận TĐL là một hiện tượng gần như tất yếu
lịch sử và chuyện có mới nới cũ là điều thường tình, dễ hiểu.
- Nhưng mặt khác trong đánh giá văn học lại phải thấy rằng không được tuyệt đối hóa, cố
định hóa vĩnh viễn vấn đề cũ – mới. Bởi cũng là thực tế, cái gọi là cũ - mới trong thế giới nghệ
thuật trong đó có thơ ca lại hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Không ít hiện tượng

người này cho là cũ, thì người khác cho là mới và ngược lại, có cái nhất thời cho là cũ đáng bỏ
đi nhưng thực tế nó vẫn sống với thời gian.

Footer Page 9 of 166.

9


Header Page 10 of 166.
Vả căang chuyện cũ-mới chưa phải là tất cả mọi vấn đề, mọi nội dung của văn chương
cũng như của cuộc sống. Trong thục tế, chuyện cũ – mới thường lại không để gì tránh Khôi sự
bồng bột, nhất thời mà thời gian đã phải bổ sung, điều chỉnh, cái chính. Đối với TĐL Việt Nam
NĐTKXX một lý do phải điều chỉnh là khả năng chiếm lĩnh tư liệu đã được tăng lên rõ rệt.
Chúng tôi trộm nghĩ rằng, những người từng phủ nhận TĐL Việt Nam NĐTKXX trước đây có
thể là chưa có điều kiện quan sát hết lại thực trạng tồn tại vốn có rất phong phú của nó như hiện
nay chúng ta có điều kiện để biết. Nên nếu biết rõ thực trạng tồn tại này, chắc hẳn họ cũng sẽ
có sự tự điều chỉnh.
Tóm lại, từ những cân cứ và lý do vừa nêu, chúng tôi thấy việc nghiên cứu "Thơ DL Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XV” vừa có cơ sở khách quan vừa hứa hẹn nhiều ý nghĩa khoa học. Chúng
lời xin được chọn vấn đề này làm đề tài luận án.

2. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
2.1.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là; những bài TĐL của Việt Nam được sáng tác
trong thời gian từ đầu thế kỷ XX đến 1945.
- Thơ Đường luật Việt Nam NĐTKXX, xét yếu tố văn tự, bao gồm toàn bộ TĐL bằng chữ
Hán và TĐL bằng chữ Quốc ngữ. Xét số câu trong bài bao gồm bát cú, tứ tuyệt và bài luật. Xét
số chử trong câu, bao gồm thát ngôn và ngũ ngôn (thơ lục bát hầu như không có, thất ngôn
chen lục bát chỉ có vài bài). Nếu căn cứ vào những khái niệm và phạm vi khái niệm như vậy thì
đối tượng bao gồm một số lượng tác phẩm khá đồ sộ. Ở đây để tránh sự đàn trải, luận án xin

được giới hạn phạm vi nghiên cứu chính là: Thơ ĐL bằng chữ Hán và TĐL bằng Quốc ngữ, và
chi là thơ thất ngôn và thơ ggu4 ngôn thuộc loại bát cú và tứ tuyệt, còn dạng kéo đài của TĐL
hay thất ngôn xen lục bát do số lượng ít, lại khá mờ nhạt, nên luận án chỉ khảo sát qua khi cần
thiết phải so sánh chứ không nghiên cứu sâu. Có thể giới hạn như thế mà không ảnh hưởng gì
lớn đến đối tượng nghiên cứu là vì thơ bát cú chiếm tới 78%. Tổng số TDL Việt Nam
NDTKXX. Thơ tứ tuyệt số lượng tuy ít hơn nhưng có khá nhiều bài đặc sắc. Như vậy trong
tổng số hơn 5000 bài TĐL Việt Nam ở NĐTKXX, (cả thơ khuyết danh và thơ phá cách) đã có
hiện nay, chúng tôi chỉ chọn 5265 bài làm đối tượng nghiên cứu.

Footer Page 10 of 166.

10


Header Page 11 of 166.
2.2.Nhiệm vụ của luận án
2.2.1.Nhiệm vụ chính:
Khôi phục diện mạo TĐL Việt Nam NĐTKXX trên cơ sở tập hợp những sáng tác TĐL đã
có ở mọi trạng thái như báo chí, tuyển tập, họp tuyển (kể cả một phần chưa được công bố trên
sách báo).
- Từ việc khôi phục diện mạo, tìm đặc điểm của TĐL Việt Nam NĐTKXX trên cả hai
phương diện: nội dung và hình thức.
2.2.2.Nhiệm vụ phụ trợ:
Bên cạnh nhiệm vụ chính, luận án còn có một số nhiệm vụ phụ trợ sau;
- Tìm hiểu một số thành tựu lý luận về TĐL, một số thành tựu nghiên cứu TĐL đã có ở
Việt Nam (và phần nào là Trung Quốc) nhằm tạo thêm cơ sở lý luận và kinh nghiệm nghiên
cứu cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của đề tài.
- Trở lại tìm hiểu phần nào TĐL thời trung đại, thơ ở NĐTKXX nói chung kể cả thơ Mới
để có thêm cơ sở so sánh với TĐL đã được giới hạn trong đối tượng nghiên cứu.
Tìm hiểu trong một chừng mực nhất định các lý thuyết văn học hiệu đại như: thi pháp

học, loại hình học, văn học so sánh... nhằm tạo năng lực vận dụng phương pháp khoa học văn
học hiện đại vào luận án.

3.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Do TĐL xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam với một lịch sử lâu đời, gần như tương đương
với lịch sử văn học viết nói chung, nên lịch sử nghiên cứu TĐL vì thế, cũng có một bề đày
đáng kể. Tuy nhiên, đây là luận án nghiên cứu Thơ Đường luật Việt Nam nửa dầu thể kỷ XX,
cho nên trong phần lịch sử vấn đề, luận án chỉ điểm lại những chuyên đề, tiểu luận, bài viết, ý
kiến đánh giá xung quan vấn đề TĐL Việt Nam giai đoạn NĐTKXX, còn những giai đoạn khác
xin không nhắc đến.
Trong quá trình thu thập tư liệu và nghiên cứu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy, TĐL
Việt Nam NĐTKXX, được nhìn nhận rất khác nhau trong những thời điểm nhất định đặc biệt
là trước và sau phong trào thơ Mới ). Vì vậy, để tiện cho việc theo dỏi, chúng tôi sẽ trình bày

Footer Page 11 of 166.

11


Header Page 12 of 166.
lịch sử vấn đề theo trình tự thời gian và các xu hướng đánh giá theo những hướng nghiên cứu
đã có.
Cũng xin nói thêm: vì có sự trái ngược nhau trong cách nhìn nhận hiện tượng TĐL Việt
Nam NĐTKXX do đó trong lịch sử vấn đề, chúng tôi xin được nói cặn kẻ mà có thể bị coi là
đài dòng để giúp cho việc trình bày kiến giãi về sau của mình, cũng như sự suy nghĩ của người
theo dõi công trình.
3.1.Thời điểm trước khi thơ Mới ra đời (đầu thế kỷ XX- 1931).
Lâu nay các nhà nghiên cứu thường nhắc tới bài Bàn về thơ nôm của Phạm Quỳnh (Nam
phong số 5 - 1917) như một phản ứng thị hiếu đầu tiên đối với TĐL. Mặc dù, nói đến sự
chuyển biến trong thơ ca, hay sự xâm nhập của cái mới vào địa hạt cái cũ, lại phải lấy năm

1914 làm mốc. Vì sự xuất hiện bài thơ dịch từ tiếng Pháp của Nguyên Văn Vĩnh, đăng trên
Đông Dương tạp chí (1914 số 40),(bài Con ve sầu và con kiến của Ta Fontaine) bằng một lối
thơ vừa ngộ nghĩnh vừa không có quy luật vô số tiếng và cách gieo vần, ít nhiều đã gieo vào
lòng người Việt Nam, một mối nghi ngờ vẻ sự tồn tại vĩnh hằng và vị trí độc tôn của TĐL trên
thi đàn. Hơn nữa ngay từ 1915, khi chính phủ bảo hộ thực hiện việc bãi bỏ chề độ khoa cử (ở
Bắc kỳ), (trong đó có môn thi TĐL), đã gây nên một phản ứng bất ngờ với lớp thanh niên Tây
học, với nền Hán học nói chung và với cả việc sáng tác TĐL nói riêng, tuy nhiên, nếu để ghi
nhận một phát ngôn hay một thái độ cụ thể, thì dùng Phạm Quỳnh là người đầu tiên đưa ra ý
kiến có tính chất mở màn ở NĐTKXX. Trong bài Bàn về thơ Nôm Phạm Quỳnh có đoạn viết:
."Người ta thường nói thơ là cái tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người Tàu định luật nghiêm
cho nghề thơ, thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy cho nó hay hơn, trúng vần trúng
điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi vậy" [tr.295- 147]. Nêu chỉ
dựa vào riêng ý này, thì đúng Phạm Quỳnh là người đầu tiên, công kích thơ cũ trong đó chủ
yếu là TĐL, gò bó khiên cưỡng. Nhưng xét ý chung của toàn bài, bên cạnh việc so sánh giữa
cái "vụ về nhân công" của TDL, với cái "chuộng vẻ thiên thú” của thơ Pháp, Phạm Quỳnh còn
chỉ ra mối xung đột tất yếu giữa chúng và hy vọng một sự hòa giải hợp lý. Nhìn chung ý kiến
của Phạm Quỳnh lúc đó, chưa gây ảnh hưởng gì tới việc sáng tác TĐL. Vì thế TĐL vẫn xuất
hiện trên các mặt báo và xuất hiện ngày càng nhiều.

Footer Page 12 of 166.

12


Header Page 13 of 166.
Năm 1928, trên Đông Pháp thời báo, Phan Khôi lại tỏ ý nuối tiếc cho một số người có
"năng khiếu" làm thở, nhưng lại không nắm vững luật thơ.
Ông phê phán việc dạy thất ngôn luật bằng chữ quốc ngữ là "tục quá", ông đặc biệt lên án
lối thất ngôn luật trong khoa cử và cho rằng "từ ngày đem thất ngôn luật vào trong khoa cử rồi
thì thể ấy trở nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú" [tr.46 – 80]. Và sau khi khuyên mọi người

tự cởi trói Khôi những phép tắc quy củ của trường ốc, ông đã dạy cách làm TĐL và lấy chính
lối thất ngôn luật làm mẫu. Điều đó chứng tỏ, Phan Khôi chỉ muốn nhằm vào những quy định
ngặt nghèo của loại TĐL trong khoa cử, chứ không phải là công kích thể TĐL nói chung "bó
buộc quá mà mất cả sanh thú", như nhiều học giả chỉ trích dẫn.
Đến năm 1929, trên Phụ nữ tân văn, tác giả Trịnh Đình Rư (một vị cử nhân Hán học) mới
chính thức đặt câu hỏi "có nên chuộng thơ Đường luật không?" và nêu ra những cái khó của
thơ luật khiến người làm thơ dễ mắc phải như: thất niêm, khổ độc, trần ngôn, sáo ngữ... ông
cũng kêu gọi mọi người tìm một giải pháp mới, nhưng không phải bằng cách phá luật, mà là
quay về với thể thơ truyền thống. Lục bát và song thất lục bát, theo ông "hai lối thơ đó mới
thực là thơ nước nhà" [tr.11, 12- 12 – 149]. Như vậy, tuy là người sớm nhận ra sự "hết thời"
của TĐL, nhưng giải pháp của Trịnh Đình Rư xem ra chẳng có gì mới mẻ, vì thế bài viết của
ông cũng không gây ảnh hưởng lớn trên thi đàn.
Cho nên có thể thấy, trong thời điểm thơ Mới chưa xuất hiện, những ý kiến như của Phạm
Quỳnh, Phan Khôi, Trịnh Đình Rư, thực chất chỉ gói gọn trong một cái nhìn có tính hình thức
và sự cảm nhận ban đầu về những đổi thay trong nhận thức và thị hiếu của bạn đọc, chứ chưa
hẳn là ý thức công kích để tẫy chay TĐL như không ít người đã phần nào ngộ nhận. Trên văn
đàn bằng ngôn luận, không ai phản bác hay phản ứng gì thêm, bằng sáng tác cá tập Khối tính
con I 1916, Khối tính con II 1918, Còn chơi 1921, của Tản đà, Duyên nợ phù sinh I 1921,
Suyên nợ phù sinh II 1923, Bút quan hoài 1927 của Trần Tuấn Khải...liên tiếp ra đời, mà trong
đó cá bài thơ được sáng tác bằng ĐL vẫn chiếm một số lượng tương đối lớn. Hơn thế, việc
những lời tựa, lời bạt, nhận xét, bình điểm, của nhiều học gia về những bài TĐL có giá trị của
Tản Đà, Á Nam... vẫn được bạn đọc hưởng ứng, còn cho thấy, ở vào cuối những năm 20 của
thế kỷ này, những đánh giá về ĐL vẫn diễn ra bình thường, chứ chưa có chuyển biến gì đặc biệt
so với giai đoạn trước đó.

Footer Page 13 of 166.

13



Header Page 14 of 166.
3.2.Thời điểm từ 1932- 1945.
Năm 1932, được coi là năm chính thức mở màn của phong trào thơ Mới. Bài Tình già của
Phan Khôi xuất hiện ngày 10 - 3 - 1932 trên Phụ nữ tân văn, đã tạo nên làn sóng hưởng ứng của
lớp thanh niên và gây hoàng mang cho lớp Nho học. Vì thế trên văn đàn, một biến cố văn học
đã diễn ra và thế chiến chia thành hai mặt trận: theo phải Mới có Phan Khôi, Thế Lữ, Nguyễn
Thị Kiêm, Vũ Đình Liên, Lưu Trọng Lư.., theo phái cũ có Nguyễn Văn Hanh, Thái Phỉ, Tùng
Lâm, Hoàng Duy Từ... Ở giữa hai phải (gọi là phe trung gian), người ta ghi nhận sự hiện diện
của thi sĩ Tán Đà.
Cũng cần nói thêm, sở dĩ số phận TĐL thường đi liền với cái gọi là thơ Cũ vì: khái niệm
thơ Cũ là do phải mới đặt ra, mà theo cách hiểu của phải mới thì thơ Cũ, chủ yếu ám chỉ lối thơ
sáng tác theo thể ĐL (phần lớn là lối thơ thất ngôn bát cú), đăng trên các báo công khai hồi đó.
Hơn nữa, mặc dù sự tấn công của thơ Mới vào thành trì thơ Cũ, không chi đơn thuần là sự phá
bỏ hình thức thơ truyền thống, mà phần nào còn là sự tấn công những giá trị tinh thần, những
tiêu chuẩn thẩm mỹ của thời đại phong kiến trung đại...nhưng cái mà phải mới làm được lúc đó
là tẩy chay sự gò bó nghiêm ngặt của thể ĐL cho nêu trong chừng mực nào đó, TĐL đại diện
cho thơ Cũ trên phương điện hình thức. Vì thế cuộc đấu tranh mới - cũ ở đây vô hình chung
cũng mang màu sắc thể loại và TĐL trở thành mục tiêu của sự tấn công.
Có thế sẽ là cũ kỹ, nếu điểm lại diễn biến của cuộc đấu tranh mới - cũ hồi 32 - 45, qua
những bài phát biểu gay gắt của cả hai phía. Tuy nhiên bằng độ lùi của thời gian, phải bình tĩnh
mà nhận ra rằng cuộc đấu tranh ấy dù công bằng và trực diện. Ai yêu cái "tự do thiên thú" (chữ
dùng của Phạm Quỳnh) của thơ Pháp thì bênh vực thơ Mới. Ai yêu cái trang trọng cổ kính của
TĐL thì bênh vực thơ Cũ. Nói thơ Cũ bị tấn công, nhưng không phải từ một cá nhân cụ thể
nào, mà là cả một thế hệ văn chương, một lực lượng sáng tác trẻ, đang quyết đổi mới cả một
nền thơ văn đã "mòn mỏi , khô cứng bạc màu" (chữ dùng của Huy Cận).
Trong mắt các nhà thơ Mới lúc đó, các nhà thơ Cũ chỉ là những thợ thơ, thơ luật chỉ là
loại thơ "con chó đi vô con mèo đi ra", còn thể TĐL thì đúng là một "cái ngục giam hãm tình
tứ"[tr 92 – 195]...
Tất nhiên sự thắng lợi của phải mới trước phải cũ, không hoàn toàn do những lời phát
biểu công khai trên thi đàn, mà quan trọng là cùng với những lời công kích ấy là hàng loạt


Footer Page 14 of 166.

14


Header Page 15 of 166.
những sáng tác mới mẻ (chủ yếu bằng lối thơ tự do) của nhiều tác giá có tài như: Lưu Trọng
Lư, Thế Lữ, Xuân Điệu, Huy Cận.... Và những sáng tác này đã được đông đảo bạn đọc tiếp
nhận một cách hồ hởi.
Trong khi đó, trước sự tấn công của phái mới, phái cũ tiêu biểu là Nguyễn Văn Hanh,
Thái Phi, Tùng Lâm, Hoàng Duy Từ... cũng phản ứng lại. Tuy nhiên sự phản ứng lại chủ yếu
bằng lý lẽ, chứ sáng tác có lẽ chi mạnh trong bộ phận thơ ca yêu nước, còn trong bộ phận thơ
ca công khai thì dường như nhạt dần, nếu không muốn nói là yếu hẳn. Hơn thế những lý lẽ mà
họ đưa ra cũng chưa đủ sức thuyết phục. Ban đầu họ dựa vào thành tựu của gần 1000 năm thơ c
dân tộc để chỉ trích thơ Mới là một thứ thơ “luộm thuộm”, “văn xuôi”. Sau đó, ông Nguyễn
Văn Hanh trong thi cũ thi mới lại chê trách các nhà thơ ta bắt chước thơ Tây là sai lầm. Theo
ông, sự phá niêm, phá cách, nhưng có vần thì còn được, chứ tự do tới mức những câu như:
“Sen, ơi Sen mầy đưa tao đôi guốc, để tao ra vườn ngắm cảnh chơi”[tr.8-50] cũng có thể thành
thơ, thì ngay đến một người dễ tiếp nhận cái Mới như Thạch Tam cũng phải cho là “lạ” quá.
Những lý lẽ này mới nghe qua cũng có vẻ hợp lý, nhưng dẫn chứng lại chỉ nhằm vào toàn
những bài thơ dở, còn những bài thơ hay thì hầu như không bàn đến. Vì thế việc chê thơ Mới là
"luộm thuộm", "Văn xuôi", chê các nhà thơ Mới là "dốt về luật" xem ra chẳng thu được kết quả
gì đáng kể. Cho nên san đó, tổng kết lại phong trào thơ Mới trong Thi nhân Việt Nam, Hoài
Thanh - Hoài Chân mới có lý khi nói rằng: "Công kích những bài thơ Mới lủng củng là một
chuyện thừa vậy. Công kích được những bài có giá trị mới mong tiệt được mầm thơ Mới" [tr 26
– 168] và khẳng định, trong tình thế cấp bách ấy "...chỉ có một người hoặc có thể làm nên
chuyện. Người ấy là Tản Đà, một nhà thơ có tài” [tr.25 - 168].
Đúng là, trong cơn nước sổi lửa bỏng ấy, một người vừa có tài, vừa đầy mâu thuẫn như
Tản Đà, rất dễ bị cả hai phái tranh giành. Tuy nhiên cái "khối mâu thuẫn lớn" (chữ dùng của

Tầm Dương) ấy vẫn hướng về thơ Cũ, có cảm tình đặc biệt với thơ Cũ nhiều hơn là thơ Mới.
Bằng chứng là, dẫu có lúc ông hô hào mọi người "phá cách vút điệu luật", nhưng sau đó ông lại
tỏ ý trách mọi người "có mới nới cũ” và khẳng khái thừa nhận "tôi vì hơi có chút Hán học, xin
đứng theo về trong đám người cũ..."[tr 137- 216]. Trên An Nam tạp chí, ông đã viết nhiều bài
bình luận về TĐL, ông khen TĐL của Tham Toàn, Quách Tấn là “rất hay", “rất tử công phu"...
. Theo ông thì "cái hay trong nghề thì mỗi người mỗi vẽ mỗi người mỗi môn" [tr.140-216]. Cho

Footer Page 15 of 166.

15


Header Page 16 of 166.
nên, tuy kéo Tản Đà về phe nào, cũng chỉ có một nửa của sự hợp lý, nhưng chính sự ra mặt
bênh vực của Tản Đà, cùng một số bài TĐL khá nhuần nhị của Quách Tấn, Bích Khê, Tham
Toàn... đăng trên An Nam, đã khiến nhiều tác gia thơ Cũ lấy lại được chút tự tin trong sáng tác.
Năm 1935, hai tác giá Tường Vân và Phi Vân cho xuất bản tập thơ Cũ Những bông hoa trái
mùa ở Vinh. Năm 1936, Hàn Mặc Tử cho xuất bản tập Gái Quê ở Quy Nhơn, trong đó cũng có
TĐL. Tất nhiên, số TĐL này là quá ít vù so với sự ra mắt ngày càng rầm rộ của thơ Mới thì
chẳng thấm vào đâu, cho nên dù cố gắng, các nhà thơ Cũ không thể cân bằng được cục diện. Vì
thế phải đến năm 1939, khi Quách Tấn cho xuất bản Một tấm lòng (nhà in Thụy Ký - Hà Nội)
thì cái nhìn đầy thiện cảm của Tản Đà trong lời lựa và sự ngưỡng mộ của Hàn Mặc Tử trong lời
bạt, đã xua tan phần nào không khí u ám của địa phận thơ Cũ. Hơn thế Một tấm lòng còn được
tạp chí Ngày nay giới thiệu. Tuy chưa phải là lời khen, nhưng nhiều người nhận thấy, việc một
tạp chí từng mạt sát thơ Cũ ngót bảy tám năm mà nay một tập thơ Cũ ra đời, họ không những
đã để yên mà còn viết lời giới thiệu, chúng tỏ họ đã gián tiếp khen rồi.
Nhưng, chỉ sự ưu ái của Tản Đà, Hàn Mạc Tử, trước Một tấm lòng, và sự im lặng của phái
mới trước việc xuất bản một tập thơ, chưa đủ sức lôi cuốn bạn đọc trở lại với dòng TĐL. Vì
vậy mãi đến năm 1941 khi Quách Tấn cho ra liếp Mùa cổ điển (ban đầu có tên là Tấm lòng
riêng) (tại nhà in Thụy Ký - Hà Nội) thì nhiều bạn đọc đã không thể khước từ một giọng thơ

"nhẹ nhàng, êm ái, có sức cuốn hút lạ lùng" mà buộc lòng phải công nhận, thì ra TĐL vẫn um ỉ
sống và chính nó chứ không phải ai khác đã kết thúc thời kỳ "phân chia thơ bằng hai chữ mớicũ chẳng có ý nghĩa gì " [tr.5 – 168], Thậm chí ngay từ khi đọc bản thảo Mùa cổ điển có tác gia
đã thốt lên: "Chỉ một bài Đêm thu nghe qụa kêu, chừng này thôi cũng đủ cho ta thấy thi sĩ đã
vượt lên trên nhưng thi sĩ có tiếng như: Bà Huyện Thanh Quan, Yên Đổ, Chu Mạnh Trinh..."
[tr414-42].
Sau Mùa cổ điển, Quách Tán còn nhận được nhiều lời khen ngợi công khai trên báo chí
và nhiều lời tán thơởng của bạn bè xa gần quathơ từ. Về chuyện mới - cũ, không ai còn lên
tiếng tranh luận gì thêm. Đến đầu năm 1942, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài
Chân mới nhìn lại cuộc đấu tranh này một cách bình tĩnh hơn và tìm cách xác định lại những
cách hiểu khác nhau của hai phái về các khái niệm thơ Mới - thơ Cũ.

Footer Page 16 of 166.

16


Header Page 17 of 166.
Phải nói ngay rằng so với những cuốn sách, hay những bài luận thuyết trên các báo
chương cùng thời, Thi nhân Việt Nam quả là một công trình hơn hẳn trong cái nhìn đa diện về
vấn đề này. Chưa kể việc xác định một cách tĩnh táo những cách hiểu khác nhau về thơ Cũ thơ Mới đã là điều cho đến nay chưa mấy ai phủ nhận được, mà ngay việc hình dung quá trình
vận động, biến đổi của thơ ca Việt Nam trong từng dòng hướng khác nhau ở thời điểm diễn ra
cuộc cách mạng thi ca, cũng chứng tỏ hai ông vừa có con mắt tinh tường của những nhà lý luận
đối với các khái niệm học thuật, vừa phong phú nhạy bén trong vai trò nhà phê hình văn học.
Nhưng rất tiếc là do phong trào thơ Mới bao gồm quá nhiều tài năng mà tình cảm của
Hoài Thanh - Hoài Chân đành cho thơ Mới là khá thiên lệch, cho nên cái nhìn của hai ông với
thơ Cũ có phần khe khắt. Song có một điều khá quan trọng là, sau Mùa cổ điển đến Thi nhân
Việt Nam, khái niệm thơ Đường luật đã được tách ra khỏi khái niệm thơ Cũ, và sự lựa chọn
những bài Đường luật của Quách Tấn, Bích Khê... vào Thi nhân Việt Nam còn chứng tỏ một sự
chuyển biến trong nhận thức, từ chỗ khẳng định: “Thời oanh liệt của thất ngôn luật đã đến lúc
tàn... cái thời vận của luật Đường đã cực kỳ suy vi" [18, 19 - 168] đến chỗ thừa nhận khả năng

thích ứng của thể ĐL với cái hồn thơ Mới. Chỉ tiếc rằng Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ qua một phần nhẽ ra nên có, về những diễn biến của dòng TĐL trong bộ phận
thơ ca cách mạng, trước sự ra đời và thắng thế của thơ Mới. Tất nhiên đây là một tác phẩm
tuyển chọn thơ Mới nên việc đòi hỏi như thế với Hoài Thanh Hoài Chân có thể là quá đáng.
Điều cần nói là, ở vào thời điểm đó có được cái nhìn bao quát như Thi nhân Việt Nam đã rất
đáng quý.
Sau Thi nhân Việt Nam, một tác phẩm được coi là cuốn lịch sử văn học Việt Nam có tính
cách phổ thông đầu tiên bề thế nhất - tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng
Hàm ra đời đã đóng góp nhiều giá trị quý báu cho ngành văn học sử Việt Nam, trong đó nhiều
kết quả nghiên cứu lại có thể coi là thành tựu của ngành lý luận. Riêng với thể TĐL sự quan
tâm chủ yếu cũng ở góc độ này. Có điều hơi tiếc là Dương Quảng Hàm đã không phân biệt sự
khác nhau giữa những quy định của TĐL ở chính quốc, với TĐL sau khi đã nhập vào Việt
Nam. Đặc biệt trong khi phác thảo lại diện mạo của văn học nữa đầu thế kỷ, trong đó có Nam
Phong, ông hầu như cũng quên không đả động gì đến mục Văn uyển và một số lượng TĐL
khổng lồ được in trong đó.

Footer Page 17 of 166.

17


Header Page 18 of 166.
Như vậy là, trong suốt thời gian thơ Mới ra đời, tấn công thơ Cũ thắng lợi và dần dần đi
đến hòa giải, không có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đành cho TĐL. Ngoài một
số lời tựa, lời bạt cho những tập thơ của Quách Tấn, Đồng Hồ, Tú Mỡ, Hàn Mặc Tử... và
những bài bình giảng TĐL trong mục Thi đàn giảng tập trên An Nam tạp chí, là còn có tính
chất đánh giá một số phương diện của TĐL. Những công trình, bài viết khác, tuy có nhận xét
về TĐL nhưng hoặc là nhận xét trên cơ sở đối lập với thơ Mới, hoặc là khái quái bằng con mắt
lý luận, cho nên nhìn chung những tư liệu mà chúng tôi hiện có liên quan đến vấn đề TĐL ở
giai đoạn này chưa cho được cái nhìn đầy đủ cụ thể. Mặc dù vậy, đây vẫn là nhũng tư liệu rất
quý, giúp chúng tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu những tác động chủ quan, khách quan có ảnh

hưởng trực tiếp đến quá trình sáng tác của thể loại này ở nửa đầu thế kỷ XX.
3.3.Thời điểm từ 1945 đến 1985.
Từ sau 1943, tình hình nghiên cứu văn học nói chung và thơ ca nói riêng, trên những nét
lớn có nhiều thay đổi. Sự ổn ào gay gắt chấm dứt. Các dòng thơ quay về một hướng. Nhiều loại
hình có xu hướng hội nhập. Các học giả cũng bình tĩnh hơn trong cách đánh giá. Riêng đối với
TĐL, sự nhìn nhận nói chung có chiều hướng thống nhất hơn là đối lập, và sự nghiên cứu đã đi
vào những hướng rất cụ thể.
Một trong những hướng nghiên cứu tập trung nhất là hướng nghiên cứu từ góc độ văn học
sử. Tiêu biểu có thế kể đến Thi văn Việt Nam (Hoàng Xuân Hãn) xuất bản năm 1951; Lược
thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III (Vũ Đình Liên, Trương Chính, Đồ Đức Hiểu...) xuất bản
nam 1957; Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (Trương Tửu) xuất bản năm 1958; Sơ thảo lịch sử
văn học Việt Nam (Ban Va8n Sử Địa) xuất bản năm 1960; Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam
tập 4 (Tủ sách đại học sư phạm Hà Nội) xuất bản năm 1961; Văn học Việt Nam 1930 - 1945
(Bạch Năng Thi và Phan Cự Đệ) xuất bản 1966; Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 tập V
phần I xuất bản năm 1976.... Trong các công trình này, những đánh giá chung về TĐL
NĐTKXX tuy vẫn chỉ được điểm lướt qua trong các bài khái quát, nhưng cái nhìn đã có tính hệ
thống và khách quan hơn. Vì thế, xu hướng chung ít nhất đã thừa nhận sự tồn tại của nó về mặt
số lượng, còn giá trị thì vẫn là những ý kiến khá sơ lược thiên về nội dung hơn là hình thức.
Trong đó đáng lưu ý là TĐL ở bộ phận thơ ca cách mạng được đánh giá cao hơn, còn TĐL ở

Footer Page 18 of 166.

18


Header Page 19 of 166.
bộ phận thơ ca hợp pháp không cách mạng thì dường như vẫn là những ý kiến thiên về phủ
nhận nhiều hơn khẳng định.
Mặt khác trong các công trình vừa nói, việc giải thích sự xuất hiện những thể loại như
diễn ca, lục bát, song thất lúc bát, ca trù, thơ văn xuôi... trong hai bộ phận văn học cũng có liên

quan ít nhiều đến thái độ đối với TĐL. Chẳng hạn, đối với các tác giá của bộ phận văn học
công khai như Tương Phố, Đông Hồ, Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải... thì được lý giải rằng:
“Việc thay đổi thể thơ như vậy còn chứng tỏ một điều nữa là các nhà thơ thời bấy giờ tuy chưa
dám than phiền về nỗi niêm luật ràng buộc mình trong việc diễn tả tình ý, nhưng họ cũng đã
buồn bực phải nằm mãi trong một khuôn khổ nhất định”[tr.248-92. Còn đối với các tác giả của
bộ phận thơ ca cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Phan Chu
Trinh... thì lại là: "Nội dung thơ vươn tới một quần chúng cách mạng đông đảo, rộng rải hơn
trước, đề cập đến nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Hình thức thơ, do đó, cũng có
một sinh khí mới... Một xu hướng tự do, phóng túng bắt đầu nảy nỡ, lung tay những khuôn khổ
nền nếp cũ. Sức sống mới của nội dung cách mạng hầu như không còn ép mình nổi trong
khuôn khổ đi mà như muốn phá vỡ ra, tìm một hình thái mới..." [tr 139-92].
Những nhận định này tuy xuất phát từ những cảm nhận chủ quan, khách quan khác nhau,
nhưng không hề mâu thuẫn và đều cho thấy một cái nhìn toàn cục, không chỉ đối với những
diễn biến về mặt thể loại của văn học nói chung, thơ ca nói riêng, mà còn xác định những lý do
dẫn đến tình trạng TĐL không còn giữ vị trí độc tôn trên thi đàn nữa.
Cũng trong những công trình vừa nêu và một số cuốn sách biên soạn cho các chương
trình giảng dạy ở phổ thông và đại học, những đánh giá riêng về TĐL, của một số tác giả có tên
tuổi, bắt đầu gây chú ý đối với nhiều bạn đọc. Hướng đánh giá này tập trung trong phần nghiên
cứu từng tác giả cụ thể. Tất nhiên, trong thời điểm mà việc nghiên cứu văn học theo loại thể,
chưa được dặt ra một cách cấp thiết, hướng nghiên cứu này tuy có đem đến nhiều nhận định
mới mẻ và thú vị về những nét phong cách riêng của từng tác giả, nhưng rất tiếc lại ít ý kiến
trực tiếp bàn riêng về TĐL của họ một cách tỉ mỉ. Vì vậy, từ những đành giá riêng này chúng
tôi chỉ có thể thu lượm được những ý kiến sắc sảo về một số khía cạnh liên quan đến TĐL của
họ, chứ chưa phải là những kết luận mang ý nghĩa khái quát cho cả máng thơ nay. Tiêu biểu có
thể kể đến ý kiến của Nguyễn Đình Chú về TĐL của Tản Đà, nhận xét của Võ Long Tê trong

Footer Page 19 of 166.

19



Header Page 20 of 166.
thiên khảo luận bằng tiếng Pháp "L’Expérience poétique et I’itinérairc spirituel de Han Mac
Tư" (Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hlàn Mạc Tử) xuất bản năm 1972, về sự gia
nhập cái Mới của Hàn Mặc Tử, ngay trong những bài ĐL từ rất sớm của ông.
Trong thời kỳ này, không ít người bất đầu lưu tâm đến vấn đề sưu tập tư liệu, chú giải,
hiệu đính văn thơ nửa đầu thế kỷ và cho ra mắt nhiều công trình tập thơ như; Thơ văn Nguyễn
Thượng Hiền (Lô Thơớc, Vũ Đình Liên) xuất bản 1959; Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh
xuất bản 1960; Hợp tuyển thơ văn Việt Nam Tập IV 1962; Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng (Vương
Đình Quang) xuất bản 1965; Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ 20 (Chương Thâu,
Nguyễn Đình Chu, Triêu Dương) xuất bản 1976; Thơ Trần Huy Liệu xuất bản 1977... Chính
qua những công trình ấy, nhiều bài TĐL mới được lần dầu tiên ra mắt và có tác động không
nhỏ tới công chúng. Người để ý sẽ bắt đầu hình dung ra diện mạo của TĐL NĐTKXX. Và
cũng đến lúc đó, họ mới nhận ra rằng, trong cuộc đấu tranh mới - cũ trước đây, những sáng tác
bằng ĐL đã chưa được xem xét một cách công bằng trong sự vận động độc lập của nó (đặc biệt
là TĐL trong bộ phận văn thơ cách mạng).
Cũng thời gian này một hướng nghiên cứu khác, khá phổ biến và tương đối hiệu quả (với
không chỉ những tác giả tác phẩm tiêu biểu, mà với cả một hệ thống được bao quát trên diện
rộng), đã bắt đầu tìm được những thành tựu đáng kể. Đó là hướng nghiên cứu từ góc độ lý luận.
Tiếp nối một số thành lựu của Việt Nam văn học sử yếu (Dương Quảng Hàm), nhưng là đi
chi tiết vào từng thể loại cụ thể, một số công trình như: Đường luật chỉ nam (Phạm Huy Toại)
xuất bản 1952; Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam (Minh Huy) xuất bản 1963; Các
thể thơ và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam (Bùi Văn Nguyên, Hà
Minh Đức) xuất bản 1971; Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (Hà Minh Đức)
xuất bản 1974; Phong trào thơ mới 1932- 1945 (Phan Cự Đệ) xuất bản năm 1982... đã nêu và
phân tích tỷ mỷ về sự vận động của thể TĐL ở Việt Nam nói chung và những thay đổi xét về
mặt hình thức của TĐLVN ở NĐTKXX nói riêng. Với TĐL Việt Nam NĐTKXX, đành rằng
văn chỉ là thêm một lần nữa, nhìn lại cuộc đấu tranh mới - cũ từ góc độ thể loại, nhưng các tác
giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, đã xác định rõ, khái niệm "thơ Cũ”: "không
bao gồm những thơ ca làm theo thể ĐL nhưng mang nội dung cách mạng, mang ý thức hệ vô

sản"[tr 35 – 36]. Nghĩa là vượt qua cấp độ tác phẩm, từ cấp độ thể loại, các tác giả đã nhìn thấy

Footer Page 20 of 166.

20


Header Page 21 of 166.
sự tồn tại của thể TĐL ở nửa đầu thế kỷ XX, không phải chỉ trong dòng thơ hợp pháp, mà trong
một hệ thống sáng tác tương đối đa dạng, bao gồm cả thơ ca hợp pháp và thơ ca bất hợp pháp,
với nhiều loại hình, nhiều trào lưu khác nhau. Cho nên, nếu nhìn toàn bộ cục diện, thì TĐL
cũng là một hiện tượng bình thường tất yếu, được hình dung trong sự diễn biến liên tục của thơ
ca Việt Nam hồi NĐTKXX, chứ không phải chỉ là một hiện tượng lỗi thời, đứng tách biệt trong
thế đối lập với thơ Mới, như nhiều học giả hồi 32 – 45 vẫn hình dung.
Trên cơ sở tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thể TĐL ở Việt Nam, các tác gia
không phải không nhìn thấy nhược điểm của nó, trong giai đoạn văn học này. Nhưng mặt khác,
họ lại có những phát hiện rất tinh tế, về quá trình trẻ hóa, hay sự giao thoa của TĐL với những
yếu tố của cái Mới, mà theo họ "đang nhập tịch từ bên kia trời Âu" tới. Họ cũng nhìn ra những
ảnh hưởng sâu sắc, của thơ Đường (cả về hình thức và nội dung) đối với phong trào Thơ Mới:
Cuốn Phong trào thơ Mới 1932 - 1945 của Phan Cự Đệ đã đành gần tám trang để phân tích về
những giao thoa này. Trong đó có ý kiến rất đáng chú ý: “Trong những bài thơ Đường của Hàn
Mặc Tử, Quách Tấn đã có cái xôn xao, cái băn khoăn khó nói của thời đại mới... Có khi ở
Quách Tấn, Phạm Văn Hạnh, hình thức thơ Đường chỉ là cái áo khoác ngoài của một tâm hồn
mới và hiên đại..."(tr.232, 233 - 36).
Gần như là sự tiếp nối những ý kiến của các tác giả Nguyễn Đình Chú, Võ Long Tê, giờ
đây Phan Cự Đệ đã bao quát rộng và sâu hơn, nên những tìm tòi của ông được đánh giá cao
trong hướng nghiên cứu mới, kết họp vấn đề phong cách với thể loại.
Nhìn chung từ 1945 (đặc biệt là sau 1950) cho đến thời điểm những năm 80, với sự thành
lập của Viện Văn Học và khoa văn của các trường Đại học, Cao đẳng, vấn đề nghiên cứu TĐL
Việt Nam ở NĐTKXX tuy đã được nhìn từ các góc độ khác nhau, nhưng về cơ bản chưa có

một công trình nghiên cứu nào kết hợp nhiều vấn đề để đánh giá khái quát cho cả hệ thống.
3.4.Thời điểm từ 1986 đến nay.
Năm 1986 đáng được coi là cái mốc quan trọng cho không chỉ quá trình sáng tác văn học,
mà còn là cái mốc đánh đấu sự thay đổi, sự chuyển biến xét về chất, công tác nghiên cứu, phê
bình văn học. Với sự phát triển không ngừng của hệ thống lý thuyết văn học, các tác gia nghiên
cứu văn học Việt Nam đã có thêm nhiều tiền đề thuận lợi để phát triển việc nghiên cứu văn học
theo nhiều hướng mới, cố gắng khắc phục những nhược điểm trong nghiên cứu văn học nước

Footer Page 21 of 166.

21


Header Page 22 of 166.
đó đặc biệt là khuynh hướng xã hội học dung tục). Một trong những hướng nghiên cứu có hiệu
quả hiện nay là hướng nghiên cứu văn học theo loại thể, kết hợp với thi pháp học. Đây là một
hướng nghiên cứu tương đối mới đầy sức thuyết phục và cho nhiều đóng góp mới mẻ. Tìm
hiểu, đánh giá TĐL NDTKXX đương nhiên cũng nằm trong hướng này.
Có thể, so với những thể loại đang thịnh hành và phát triển trong thời hiện đại như tiểu
thuyết, truyện ngắn, ký, thơ tự do... TĐL chưa phải là thể loại được quan tâm nghiên cứu thỏa
đáng. Song nhiều công trình nghiên cứu ở giai đoạn này cho thấy, tuy không trực tiếp đặt vấn
đề tìm hiểu TPL NĐTKXX, nhưng những ý kiến có liên quan đến nó rất nhiều và rất xác đáng.
Năm 1993 trong luận án PTS với đề tài Thơ nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm Thìn, trên
cơ sở nhìn lại cả một chặng đường lịch sử, những thành công và hạn chế của thơ Nôm ĐL
trong lịch sử thơ ca Việt Nam, đã khẳng định: “Bước sang đầu thế kỷ XX, tuy chữ Nôm đã mất
hẳn vai trò trong cuộc sống và trong sáng tác văn học đương đại, nhưng thể ĐL vẫn tìm được
chổ đứng cho mình. Hình thức thơ quy phạm, trang trọng, chuyển tải nội dung hài hước không
nghiêm chỉnh đã tạo thế mạnh cho thơ trào phúng”[tr.44-181].
Năm 1995, trong "Diện mạo thơ Đường" tác giả Lê Đức Niệm đã nhận thấy sự hiện diện
khá bề thế của thể TĐL trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và nhận xét : "Thơ Đường

luật của Bác mang phong vị thơ Đường nhưng đã hiện đại hoá.... Thơ chữ Hán của Bác đã mở
rộng phạm vi phản ánh nhiều vấn đề to lớn của thời đại" [132].
Năm 1996, trong Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường, tác giả Nguyễn
Sĩ Đại một lần nữa quan tâm tới sức sống của hồn Đường và thể ĐL trong thơ Việt, tác giả
nhận xét: "Các thi sĩ của phong trào thơ Mới, vào những năm 30 của thế kỷ này, bằng những
trận bút chiến nảy lữa, bằng thực tế sáng tác vẻ vang của mình, ngỡ là đã khâm liệm một nền
thơ Cũ chủ yếu là Đường luật. Nhưng rồi thơ vẫn là thơ...dường như trong tận cùng của mọi
tìm tòi khám phá, họ đã chạm tới cái mà hàng chục thế kỷ trước người ta đã..." [32].
Cũng trong năm này, tác giả Ngô Văn Phú với cuốn Thơ Đường ở Việt Nam đã nghiên
cứu rất kỹ quá trình du nhập thơ Đường(trong đó có TĐL) vào Việt Nam và ảnh hưởng của nó
đối với thơ ca Việt Nam nói chung. Về TĐL NĐTKXX ông nhận xét khá chi tiết: “Khi người
Pháp sang Việt Nam xâm lược và đặt chế độ thuộc địa, thơ Đường luật còn được dùng làm vũ
khí đấu tranh của các văn thân, sĩ phu yêu nước...những tên tuổi lớn như Phan Đình Phùng,

Footer Page 22 of 166.

22


Header Page 23 of 166.
Nguyễn Hữu Huân, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng còn tiếp tục làm
sáng danh cho thơ Đường luật...Sau này, Thơ Đường luật còn được Tú Mỡ, Đô Phôn vận dụng
trong thơ trào phúng”[tr.90-142].
Năm 1996, cuốn Thơ Việt Nam-thơ Nôm Đường luật (từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX)
của tác giả Hà Xuân Liêm ra đời đã đành gần 1/3 số trang để in tuyển thơ của các tác giả, tác
phẩm TĐL NĐTKXX trong khi tựa đề tác giả chọ nội dung là thế kỷ XIX. Điều đó chứng tỏ có
sự đứt đoạn. Thậm chí ác giả Hà Xuân Liêm còn cho rằng: “Thời kỳ thịnh nhất của Hàn luậthay Đường luật cũng thế- có lẽ vào khoảng 1917 đến 1935”[tr.13, 14-91].
Đáng kể hơn, vừa qua Viện Hán Nôm kết hợp với hội các "thi huynh thi hữu" yêu TĐL
trong toàn quốc, tổ chức một cuộc hội thảo về TĐL tại Văn Miếu Quốc tử giám. Tuy nội dung
chính của cuộc hội thảo là tổng kết 10 năm TĐL Việt Nam (1990 - 2000) để đánh giá những

được và chưa được của dòng thơ này khi nó xuất hiện trở lại trên thi đàn văn học dân tộc,
nhưng nhiều ý kiến trong đó có thể coi là sự nhìn lại đối với số phận của thể TĐL, từ đầu thế
kỷ XX đến nay. Sau đó hai tập thơ Bút xưa I và II.(tuyển chọn 1734 bài TĐL của 268 tác giả
cuối thế kỷ XX) do tác giả Hoài Yên sưu tầm biên soạn đã ra mắt bạn đọc và trở thành một
trong những tập thơ được nhiều độc giả châu Á quan tâm. Việc trở lại của dòng ĐL vào những
năm cuối của thế kỷ XX bằng một số lượng tác giả, tác phẩm khá lớn như thế đã có tác động
không nhỏ tới không chỉ bạn đọc mà cả giới nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Quang Hồng tuy rất
thận trọng song không thểdđấu nổi hào hứng của mình khi viết lời tựa cho tác phẩm: “Tôi
không muốn nói rằng thơ Đường luật ở nước ta đang được "hồi sinh", bởi vì trên thực tế nó
chưa bao giờ lâm vào tình trạng hấp hối hay chết hẳn. Nó đã thu mình lại, nhung vẫn luôn
mang giữ một sức sống tiềm tàng, và một khi gặp môi trường thuận lợi nó có thể cựa mình
vươn dậy, để mong góp một bề trâm cho âm hưởng chủ đạo của thể lục bát, trong hệ thống các
thể thơ truyền thống" [tr.10 – 223]. Còn tác giả Đinh Công Vĩ trong "Từ trước đến - "10 năm”
cuối thế kỷ XX - với "sơ tuyển của Hoài Yên - thơ Đường luật Việt vẫn đầy sức sống, cần tiếp
tục chăm sóc" thì không ngần ngại khẳng định: "thơ Đường luật Việt Nam bất tử ở mọi thời
đại".
Nhu vậy, tuy không phải là các công trình nghiên cứu trực tiếp về thơ ĐL- NĐTKXX,
nhưng những ý kiến như của Lã Nhâm Thìn; Nguyễn Sĩ Đại, Ngô Văn Phú, Nguyễn Quang

Footer Page 23 of 166.

23


Header Page 24 of 166.
Hồng, Đinh Công Vĩ...ít ra cũng chứng tỏ như trên đã nói qua, trong giới nghiên cứu đã hình
thành một quan niệm khác, một cách nghĩ khác, nếu không muốn nói là một định hướng khác
về TĐL NĐTKXX.
Cách nhìn này càng thể hiện rõ hơn trong một hướng nghiên cứu vô cùng phong phú, đó
là hướng -nghiên cứu từng tác giả hoặc phân tích, bình điểm các tác phẩm cụ thể. Đây là hướng

nghiên cứu có bề đày lịch sử, nên nhiều phương diện có thể coi là đã được đánh giá thoả đáng.
Tất nhiên, do nguồn tư liệu quá dồi đào, mà chúng tôi thì chưa dám nói là đã bao quát hết, có
thể có nhiều tác giả mà chúng tôi quan tâm, đã được nghiên cứu kỹ càng hơn những gì chúng
tôi tiếp thu được. Dù vậy, qua các công trình đã đọc như: Thơ văn Tản đà NXB Giáo dục 1993;
Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải NXB Văn học 1993; Tìm hiểu phong cách Tản Đà Phan
Ngọc-TCVH, Số 5, 1994; Quan niệm văn học của Tản Đà Trần Đình Hượu(Trong Nho giáo và
văn học Việt Nam trung cận đại Văn hoá thông tin 1995); Hàn Mặc Tử, một quan niệm một
kiểu tư duy Nguyễn Thanh Hùng - Thông báo KHĐHSP HN, số 4, 1995; Một bài thơ Đường
đặc biệt của Hàn Mặc Tử Hà Vinh - Tạp chí Văn học số 2, 1995; Thơ Đường luật Phan Bội
Châu Nguyễn Thanh Hương -Luận Văn thạc sĩ 1996; Hàn Mặc Tử thơ và đời NXB Văn học
1996; Nhớ Hàn Mặc Tử Nguyễn Viết Lãm; Suy nghĩ mới vé Nhật ký trong tù (Nguyễn Huệ
Chi) ...Tản Đà trong lòng thời (Nguyễn Khắc Xương), Thi ra Việt Nam thời tiền chiến 1932 1045 (Phan Canh)... và vô số những tiểu luận, bài viết về các tác giả đâu thế kỷ, chúng tôi đã
thu lượm được khá nhiều nhận xét quý báu về vấn đề TĐL của họ.
Nổi bật trạng thái nghiên cứu này, bên cạnh việc chú ý đến vấn đề tồn tại hay không
những bài TĐL ở thời hiện đại, nhiều tác giả đã hướng vào một điểm chú ý khác, đó là sự khác
nhau giữa TĐL thời hiện đại với TĐL thời trung đại. Hướng chú ý này tất nhiên không phải là
mới, nhưng nó không còn mơ hồ như cái thời mà Thi nhân Việt Nam nêu câu hỏi với Quách
Tấn. Cũng không khái quát chung chung như Phan Cự Đệ trong Phong trào thơ Mới 19321945, mà đã phân tích khá cụ thể những biến đổi của từng tác giả,Chẳng hạn về TĐL Hàn Mặc
Tử, tác giả Nguyễn Viết Lãm trong bài Nhớ Hàn Mạc Tử nhận xét: "Tuy viết theo Đường luật,
thơ anh tài hoa khoáng đạt khác hẳn lối thơ cử tử, những câu thơ đối nhau khá chặt chẽ, vẫn tự
nhiên trôi chảy với nhũng từ dân dã"[tr 480 – 84]. Còn tác giả Hà Vinh trong bài Một bài thơ
Đường đặc biệt của Hàn Mặc Tử lại nhận thấy: "trong thơ Đường luật của Hàn đã sớm bộc lộ

Footer Page 24 of 166.

24


Header Page 25 of 166.
những tiếp giao chuyển đổi khá lý thú giữa những yếu tố vừa quen vừa lạ của cái gọi là thơ cũ

và thơ Mới." [tr.5 – 219].
Những nhận xét trên tuy rất chí lí và có thể bao quát chung cho TĐL của nhiều tác giả ở
NĐTKXX, nhưng để có ảnh hưởng sâu rộng thì chưa làm được. Vì thế phải đến năm 1999 khi
Quách Giao cho xuất bản tác phẩm Bóng ngày qua – một cuốn hồi ký của Quách Tấn, thì
những ý kiến này càng được nhiều người thừa nhận hơn. Trong hồi ký Quách Tấn đã kể lại
nhiều kỷ niệm vui buồn về cái thời mà ông sáng tác Một tấm lòng và Mùa cổ điển trong vòng
ảnh hưởng của thơ Mới, và sự đan xen những yếu tố Mới - Cũ trong TĐL. Ông thừa nhận:
"Tuy làm thơ Cũ, nghiên cứu thơ Đường thơ Tống, tôi vẫn đọc thơ Mới, vẫn theo dõi phong
trào thơ Mới... Tôi lặng lẽ làm việc theo chiều hướng của tôi, đồng thời đón nhận tất cả những
cái hay cái đẹp của bất kỳ phái nào đưa tới. Tôi gạt bỏ những cái dở, và thu thập những cái hay,
rồi nghiền tán, nấu nướng làm thuốc uống, làm món ăn cho tâm hồn." [tr.175 – 42].
Lời bộc bạch của người trong cuộc đương nhiên càng khẳng định rõ hơn những nhận xét
về sự đan xen các yếu tố mới – cũ của các nhà nghiên cứu là hoàn toàn đúng.
Tóm lại cho đến nay, phần được xem là đã đánh giá thoả đáng nhất đối với bộ phận thơ
ĐL NĐTKXX ngoài những bài viết, những bài bình giảng, đối với nhiều tác phẩm TĐL quen
thuộc được chọn giảng trong chương trình phổ thông như: Lưu biệt khi xuất, Cảm tác trong
nhà tù Quảng Đông của Phan Bội Châu, Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh, Muốn làm
thằng Cuội của Tản Đà... chỉ có thể kể đến luận văn thạc sĩ của tác giả Thanh Hương với đề tài
Thơ Đường luật Phan Bội Châu.
Đây không những là công trình chuyên biệt về vấn đề TĐL cho riêng một tác giả, mà còn
là sự khẳng định giá trị của một hiện tượng TĐL vốn đã có mặt ở thời điểm TĐL đang bị đánh
giá thấp. Chúng tôi đánh giá rất cao công trình này vì những thành công và hạn chế của Phan
bội Châu trong việc sử dụng thể TĐL đã được tác giá Thanh Hương phân tích rất kỷ ở nhiều
phương diện. Bên cạnh đó những số liệu về: TĐL Phan Bội Châu và các tác giả cùng thời;
những hình ảnh tiêu biểu trong TĐL Phan Bội Châu; khả năng thẩm định và đánh giá những
thành công và hạn chế của tác giả Phan Bội Châu khi sử dụng thể TĐL đã được tác giả khai
thác khá kỹ. Tuy nhiên có lẽ do thời gian và khuôn khổ của một luận văn, tác giả Thanh Hương
đã không làm sáng lên được vấn đề là: Phan Bội Châu đã làm gì khiến TĐL của ông tuy ở vào

Footer Page 25 of 166.


25


×