Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 174 trang )

Header Page 1 of 166.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trịnh Thị Minh Hương

TÍNH BIỂU TRƯNG CỦA TỪ NGỮ
CHỈ MÀU SẮC TRONG TIẾNG VIỆT
(dựa trên ngữ liệu là những văn bản thuộc phong
cách ngôn ngữ văn chương)

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số
: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.

LỜI CẢM ƠN
Học viên Trịnh Thị Minh Hương kính lời tri ân sâu sắc
đến cô Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn
dắt trong quá trình thực hiện đề tài.


Người viết trân trọng cảm ơn quý thầy cô đã truyền
đạt kiến thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt
thời gian qua.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, nhà
trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều kiện học tập,
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/09/2009
Tác giả
Trịnh Thị Minh Hương

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay khi khoa sắc học (Colour science) đã phát triển mạnh mẽ với
những tên tuổi như Kandinsky, Herbin và Henri Pfeiffer thì hệ ý nghĩa biểu
tượng về màu sắc càng được nâng cao giá trị. Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa
khác nhau sẽ có những cách xem xét màu sắc theo các cách khác nhau. Trong
hầu hết các nền văn hóa châu Á, màu vàng được xem như màu của vua chúa,
hoàng đế; còn phương Tây là màu tím. Đối với Trung Quốc, màu đỏ là biểu
tượng cho lễ tết, sự may mắn, thịnh vượng; màu trắng tượng trưng cho sự
tang tóc, chết chóc. Ở Châu Âu, màu sắc được liên tưởng mạnh mẽ đến các
đảng phái chính trị. Nhiều nước xem màu đen là biểu tượng của Đảng Bảo
thủ, màu đỏ là biểu tượng của Đảng Cộng sản, màu nâu là biểu tượng của
Phát xít. Trong một số ngôn ngữ, màu xanh dương được dùng với rất nhiều
nghĩa tích cực. Các cuộc nghiên cứu cho thấy hầu hết màu sắc có sự liên

tưởng theo hướng tích cực nhiều hơn theo hướng tiêu cực; thậm chí khi nó có
hướng liên tưởng tiêu cực thì cũng chỉ được sử dụng trong những ngữ cảnh
đặc biệt.
Vì vậy, màu sắc là một trong những biểu tượng mang tính phổ quát,
không chỉ ở phương diện địa lý mà còn ở mọi khía cạnh nhận thức: vũ trụ,
tâm lý, tôn giáo, ngôn ngữ,… [38:561].
Gần đây nhất, Paul Kay – nhà nghiên cứu ngôn ngữ thuộc trường Đại
học California ở Berkeley - đã đặt vấn đề và nghiên cứu: Liệu ngôn ngữ có
thêm sắc thái cho nhận thức về màu sắc của chúng ta hay không? Hay nó ảnh
hưởng theo cách khác? Và ông đã có những kết luận vô cùng thú vị: Quá trình
nhận biết màu sắc bắt đầu từ phần não bên phải và truyền sang bên trái thông
qua sự tiến triển của ngôn ngữ đồng thời những nhận thức màu sắc của chúng
ta được liên kết chặt chẽ với ngôn ngữ của chúng ta.

Footer Page 3 of 166.


Header Page 4 of 166.

Mặt khác, dựa vào lý thuyết tri nhận, người ta nhận thấy mỗi dân tộc
với những bức tranh ý niệm khác nhau sẽ hình thành những bức tranh ngôn
ngữ thế giới khác nhau. Và như thế, từ ngữ về màu sắc sẽ không nằm ngoài
qui luật chung đó.
Lớp từ ngữ chỉ màu sắc có số lượng không nhỏ và mang ý nghĩa vô
cùng đa dạng trong nhiều phong cách văn bản, đặc biệt là trong phong cách
ngôn ngữ văn chương. Vì thế, lớp từ chỉ màu sắc trở thành đối tượng được
ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ, trên nhiều bình diện, nhất
là về đặc điểm ngữ nghĩa, tính biểu trưng hay về đặc điểm tri nhận.
Với những lí do trên, người viết chọn đề tài: Tính biểu trưng của từ
ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những văn bản

thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương).
Đề tài có những ý nghĩa sau:
- Về mặt lí luận: Đề tài vận dụng được lí thuyết của nhiều bộ môn
khoa học: Ngữ nghĩa học sẽ giúp lí giải ý nghĩa từ ngữ chỉ màu sắc, các
phương thức chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc, phát hiện “bức tranh
màu sắc” của tiếng Việt; Ngôn ngữ và văn hóa giải thích mỹ cảm của người
bản ngữ về màu sắc; Kí hiệu học làm rõ những cơ chế hình thành biểu tượng
màu sắc và Ngôn ngữ - văn học giúp phân tích những điểm hay của từ ngữ
chỉ màu sắc trong các văn bản văn học. Kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể góp phần làm rõ về một số vấn đề kí hiệu ngôn ngữ, tính biểu trưng,
nghĩa của từ ngữ và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ và
văn chương.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể có giá trị
tham khảo đối với những ai quan tâm đến vấn đề này.

Footer Page 4 of 166.


Header Page 5 of 166.

2. Lịch sử vấn đề
Khi đề cập về lịch sử phát triển của màu sắc, trang web “liệu pháp chữa
bệnh của màu sắc” (colourtherapyhealing.com) đã khẳng định màu sắc được
nhận biết và sử dụng trên 2000 năm nay; trong quá trình đó, có những mốc sự
kiện quan trọng của lịch sử phát triển màu sắc:
- Khoảng năm 1550 trước Công nguyên, những người thợ xây dựng
của Ai Cập đã biết sử dụng màu sắc trong xây dựng đền đài. Hai màu họ dùng
lúc bấy giờ là xanh lá cây và xanh da trời.
- Đến thời kì của Aristoteles, ông khám phá ra cách trộn lẫn 2 màu
vàng và xanh da trời cho ra xanh lá cây. Và lần đầu tiên, màu sắc được đưa

vào nội dung giảng dạy trong nhà trường.
- Năm 1672, Issac Newton khám phá sự phát tán từ ánh sáng trắng ra 7
màu: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh da trời, chàm, tím và ngược lại.
- Đến thời nữ hoàng Victoria (1819 – 1901), bà đã đưa ra thông điệp
“màu đen không phải là màu tồi tệ”; người ta bắt đầu có cái nhìn khách quan
hơn về vị trí các màu.
“Có lẽ, màu sắc là một trong những dạng thức đầu tiên được ghi lại và
hệ thống hóa. Trong mối liên hệ với văn hóa, màu sắc không chỉ đóng vai trò
đơn giản là một thuộc tính không thể tách rời của môi trường thiên nhiên và
nghệ thuật, mà còn là một phương diện kinh nghiệm tinh thần cơ bản và đặc
sắc của loài người” [84: 61]. Về từ ngữ chỉ màu sắc, nhân loại đã trải qua
chặng đường hàng thế kỷ để phân biệt và gọi tên được các màu. Theo Từ điển
bách khoa tiếng Anh (The Oxford Encyclopedic English Dictionary) [90],
năm 1493 mới xuất hiện những từ chỉ màu sắc dựa theo cây cỏ, như màu cỏ,
màu rêu; năm 1497 mới có những từ chỉ màu các vật trong giới vô sinh như
màu lửa, màu than, màu khói... và mãi đến năm 1778, mới có các màu của đồ
vật do con người làm ra, như màu mực, màu vỏ chai. Thời hiện đại, thời kỳ

Footer Page 5 of 166.


Header Page 6 of 166.

của xã hội công nghiệp, vốn từ màu sắc bổ sung thêm những từ như màu xanh
côban, màu đỏ hung.
Ngôn ngữ của mỗi một dân tộc có khả năng nhất định trong việc xây
dựng các từ chỉ màu sắc. Như trong tiếng Pháp có 178 từ ngữ chỉ màu sắc
được sử dụng tích cực; trong tiếng Anh có 154 từ ngữ; tiếng Nga là 133 từ ;
tiếng Đức là 120, tiếng Nhật là 45 từ,…[Dẫn theo 98]. Trên thực tế có một số
từ ngữ chỉ màu sắc từng xuất hiện, sau đó mất dần đi do không hợp thời,

chẳng hạn trong tiếng Việt là: màu xanh công nhân, màu hồ thuỷ.
2.1 Việc nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc trên thế giới
Những người đầu tiên đưa ra ý tưởng về sự khác biệt của hệ thống màu
sắc với nguồn gốc văn hóa xã hội là những nhà tâm lí học nổi tiếng người
Anh G. Alen và U.Mac, Dugan. H (người Mỹ). Họ đã đi đến kết luận rằng
mối quan tâm đến màu sắc nảy sinh ở loài người nhất định phải qua quá trình
lao động và sinh hoạt cộng đồng, và những từ ngữ chỉ màu sắc chỉ xuất hiện
trong ngôn ngữ khi nào chúng bắt đầu bao hàm nhu cầu thực tế. Họ đã tiên
đoán về sự qui ước từ điển những màu sắc chủ yếu của thiên nhiên. Trên cơ
sở đó, G. Alen kết luận: “Tất cả những dân tộc văn minh nhất và hoang dã
nhất đều tiếp nhận màu sắc một cách tương đồng” [84: 62].
Những kết quả nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc của mỗi dân tộc góp
phần xác định đặc điểm văn hóa của dân tộc ấy. Và một số nhà nghiên cứu
như M. Luise, M. Hecovit (dù nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau) đã
khẳng định vai trò quan trọng của từ ngữ chỉ màu sắc trong từng nền văn hóa
[84].
Ở một phương diện khác, B. Belin và P. Key đã xác lập “phương pháp
giai đoạn tiến hóa đối với sự xuất hiện những từ ngữ chỉ màu sắc”. Gần như
toàn bộ phương pháp này đã được trình bày vào năm 1969 với “Những thuật

Footer Page 6 of 166.


Header Page 7 of 166.

ngữ màu cơ sở” (Basic Color Terme, Berkeley, 1969) 1. Công trình nghiên
cứu này đã tổng kết toàn bộ tư liệu, kinh nghiệm về từ ngữ chỉ màu sắc trong
ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Hai tác giả này đã kết hợp
giữa tính khái niệm và tính thực tiễn, liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa
màu sắc và văn hóa. Từ sự khái quát thực tế 78 ngôn ngữ khác nhau, B.Belin

và P. Key kết luận: Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có 2 từ chỉ màu đen và màu
trắng, có 3 từ thì có thêm màu đỏ, có 4 từ thì có thêm màu xanh lá hoặc vàng,
có 5 từ thì thêm cả màu xanh lá và vàng, có 6 từ thì thêm màu xanh da trời,
có 7 từ thì có thêm màu nâu, có trên 7 từ thì có thêm màu tím, hồng, da cam,
xám hoặc hỗn hợp những màu này. Ở một mức độ nhất định, có thể coi đó là
chìa khóa mở ra nhiều công trình nghiên cứu và thực tế đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu trên cơ sở tư tưởng của B. Belin và P. Key.
Sau đó, tác giả Micheal Quinion trong bài viết “Những tên gọi nhất thời
của màu sắc” (The fugitive names of hues) đăng trên trang English in the
Bristish viewpoint đã nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Anh bằng phương
pháp từ nguyên học. Ông đã xác định màu từ màu xanh da trời (blue) bắt
nguồn từ tiếng Pháp, xanh lá cây (green) có cùng gốc với “grow” và xuất xứ
từ tiếng Đức, màu đỏ (red) được vay mượn từ tiếng Hy Lạp, màu hồng (pink)
cùng gốc từ với tiếng Hà Lan,… Cách nghiên cứu của tác giả đã mở ra thêm
một hướng tiếp cận khác trong tiến trình nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc trên
thế giới nói chung và tiếng Anh nói riêng.
Đặc biệt, trong công trình đồ sộ Dictionnaire des symboles: mythes,
rêves, coutumes, gestes, formes, figures, couleurs, nombres (Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới) [38], Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã trình bày

1

Tái bản lần gần đây nhất là năm 1999 với tiêu đề Basic Color Terms Their Universality and Evolution, Center

for Study of Language and Information, the United State.

Footer Page 7 of 166.


Header Page 8 of 166.


khá chi tiết về biểu tượng màu sắc của các nước trên thế giới, chủ yếu là
phương Tây.
2.2 Việc nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc ở Việt Nam
Như đã nói, bàn về từ ngữ chỉ màu sắc không phải là vấn đề mới. Tuy
nhiên các bài viết chỉ dừng lại ở một số màu tiêu biểu, có thể kể:
- Trần Thị Thu Huyền với bài Hoa cỏ và màu sắc trong thành ngữ- tục
ngữ tiếng Anh và tiếng Việt (Ngôn ngữ và Đời sống số 12), 2001
- Phạm Văn Tình với các bài viết: Hai từ xanh và xanh xanh; Phấn
trắng, bảng đen, tóc trắng- hình tượng đẹp về người thầy (Tiếng Việt từ cuộc
sống), 2004
- Lê Thị Vy với Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua các từ chỉ màu
sắc (Ngôn ngữ và Đời sống số 6), 2006
Các bài viết này đã đề cập đến một màu (hoặc nhiều màu) như biểu
tượng của văn hóa hoặc nét đặc thù của dân tộc. Tuy nhiên, các tác giả chỉ
điểm qua mà chưa lí giải rõ.
Bên cạnh đó, có thể dẫn ra một số công trình có liên quan trực tiếp đến
đối tượng của luận văn như sau:
- Trong Đặc trưng âm thanh và màu sắc trong thơ Xuân Diệu trước
Cách mạng tháng Tám (khóa luận tốt nghiệp ĐH Sư phạm TPHCM 1996), Lê
Thị Thanh Điệp đã bàn về ý nghĩa của các từ chỉ màu sắc trong thơ Xuân
Diệu.
- Biện Minh Điền với bài viết “Về tính từ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn
Khuyến” (Ngôn ngữ số 7- 2000) đã thống kê tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc trong
thơ và câu đối của Nguyễn Khuyến và đã xác định tỉ lệ màu sắc tươi chiếm ưu
thế, đặc biệt là cách dùng màu xanh và màu trong.
- Tương tự, Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Thị Thành Thắng
(Ngôn ngữ số 11-2001) khái quát được sự đa dạng về nghĩa của cùng một

Footer Page 8 of 166.



Header Page 9 of 166.

màu xanh, từ đó, nêu bật vài điểm trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Bính
- Trịnh Thị Thu Hiền với bài viết Một vài đặc điểm của các từ chỉ màu
phụ trong tiếng Việt (Những vấn đề về Ngôn ngữ học, Hội nghị khoa học của
Viện Ngôn ngữ) năm 2004; đã nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo đến khả năng
hoạt động của hệ thống từ chỉ màu phụ trong tiếng Việt.
- Năm 2005, trong công trình Một số vấn đề về kí hiệu học (Đề tài khoa
học cấp Đại học Quốc gia), Nguyễn Đức Dân có một phần đề cập đến màu
sắc như một biểu tượng mang tính phổ quát trong một số nghi thức văn hóa,
tôn giáo trên thế giới.
- Trên Ngôn ngữ và Đời sống số 8 năm 2006, Hà Thị Thu Hoài viết “Từ
chỉ màu sắc để miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm Truyện Tây Bắc của nhà
văn Tô Hoài”. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã phân tích nét đặc sắc sáng tạo
trong việc tạo ra nhiều sắc độ của màu trắng, đỏ, vàng trên những trang văn
Tô Hoài.
- Cũng trên Ngôn ngữ và Đời sống (số 8- 2007), Đinh Trí Dũng- Lê Thu
Giang nghiên cứu từ chỉ màu sắc trong thơ Thế Lữ qua bài viết “Thế Lữngười vẽ tranh ngôn từ thi ca”. Trong bài viết này, hai tác giả đã chứng minh
rằng “màu xanh là màu Thế Lữ ưu tiên nhất”, “minh chứng cho đôi mắt đa
tình, lòng yêu đời nồng nàn tha thiết”.
Những bài viết, công trình nghiên cứu trên là những gợi ý quan trọng
cho người viết khi thực hiện đề tài: Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc
trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những văn bản thuộc phong cách
ngôn ngữ văn chương).

Footer Page 9 of 166.



Header Page 10 of 166.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tìm hiểu về ngữ nghĩa, tính biểu trưng của từ ngữ
chỉ màu sắc trong tiếng Việt qua khảo sát một số văn bản (chủ yếu trong
phong cách ngôn ngữ văn chương).
Để thực hiện mục đích đó, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:
- Thu thập, tập hợp các từ ngữ chỉ màu sắc trong từ điển và trong các
văn bản khảo sát.
- Thống kê và phân tích đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa, tính
biểu trưng của các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.
- Bước đầu tìm hiểu những giá trị về mặt ngữ dụng của từ ngữ chỉ
màu sắc trong tiếng Việt.
Như vậy, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là
nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, đặc biệt trong các
văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ của luận văn, người viết sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học: Người viết sử dụng phương
pháp này để phân tích, khái quát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng, tính biểu
trưng của lớp từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được dùng để khảo sát tần
số xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc.
- Phương pháp hệ thống: Khi tập hợp các từ ngữ chỉ màu sắc, cần thiết
phải phân loại, sắp xếp các đơn vị theo hệ thống những tiêu chí nhất định, chủ
yếu là về ngữ nghĩa.


Footer Page 10 of 166.


Header Page 11 of 166.

4.2 Nguồn ngữ liệu
Để thực hiện đề tài, luận văn thu thập, khảo sát từ ngữ chỉ màu sắc trong
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) (tái bản 2003, NXB Đà Nẵng) và
một số văn bản sau:
- Thành ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lực)
- Kho tàng ca dao người Việt (Nguyễn Xuân Kính chủ biên)
- Truyện Kiều của Nguyễn Du
- Thơ Thơ và Gửi hương cho gió của Xuân Diệu
- Gió lộng của Tố Hữu
- Tùy bút Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Nguyễn Tuân.
Ngoài ra, khi cần đối chiếu làm rõ, luận văn có khảo sát thêm một số
tác phẩm của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Thế Lữ,… ở những phần
liên quan.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Chương này trình bày những lí luận cơ sở về khái niệm tính
biểu trưng của từ ngữ, khái niệm màu sắc và từ ngữ chỉ màu sắc; đặc điểm
cấu tạo, ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt. Đây là chương
làm tiền đề cho việc khảo sát và phân tích nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ
màu sắc trong tiếng Việt ở chương sau.
Chương 2: Chúng tôi tiến hành khảo sát nghĩa biểu trưng của từng
nhóm màu trong từ điển và trong các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn
chương. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, trong chương này, luận văn nêu
bật những ý nghĩa biểu trưng của từng nhóm màu, góp phần làm rõ nghĩa của

lớp từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.

Footer Page 11 of 166.


Header Page 12 of 166.

Chương 3: Chương này khảo sát và phân tích ý nghĩa biểu trưng của từ
ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Anh). Sự
đối chiếu này có thể góp phần làm sáng tỏ những ý nghĩa biểu trưng của từ
ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.

Footer Page 12 of 166.


Header Page 13 of 166.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG TIẾNG VIỆT
1.1 Nghĩa và tính biểu trưng của từ ngữ
1.1.1 Nghĩa của từ
“Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức”,
nói cách khác, từ là đơn vị có nghĩa.
Theo Nguyễn Thiện Giáp [22:76], ta có một tam giác ngữ nghĩa có tính
khái quát: một đỉnh là ngữ âm, một đỉnh là cái sở chỉ (đối tượng biểu thị), một
đỉnh là cái sở biểu (ý niệm)
Từ ngữ âm
Gọi tên

Biểu hiện


Cái sở chỉ

Cái sở biểu
Phản ánh

Sơ đồ 1.1: Tam giác ngữ nghĩa của từ
Cái sở chỉ là đối tượng mà từ biểu hiện, gọi tên. Cái sở chỉ có thể gồm
những đối tượng ngoài ngôn ngữ như: sự vật, hiện tượng trong thực tế khách
quan, tư duy và người sử dụng và những đối tượng trong ngôn ngữ như: chức
năng tín hiệu học, hệ thống (cấu trúc) của ngôn ngữ.
Cái sở biểu là sự phản ánh của đối tượng trong nhận thức con người.
Nó phản ánh sự vật, hiện tượng trong nhận thức con người. Cần phân biệt cái
được biểu hiện với nghĩa của đơn vị ngôn ngữ. Nghĩa của từ (cũng như của
các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với khái niệm về sự vật hiện

Footer Page 13 of 166.


Header Page 14 of 166.

tượng nằm ngoài bản thân nó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn
vị ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì.
Vì từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho nên nghĩa của
từ cũng là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố chính như:
a.

Nghĩa sở chỉ: là mối quan hệ của từ với đối tượng mà từ biểu thị.

Đối tượng mà từ biểu thị không phải chỉ là những sự vật, mà còn là các quá

trình, tính chất hoặc hiện tượng thực tế nào đó. Những sự vật, quá trình, tính
chất hoặc hiện tượng mà từ biểu thị được gọi là cái sở chỉ của từ. Mối quan hệ
của từ với sở chỉ được gọi là nghĩa sở chỉ.
b.

Nghĩa sở biểu: là quan hệ của từ với ý, tức là khái niệm hoặc

biểu tượng mà từ biểu hiện. Khái niệm hoặc biểu tượng có quan hệ với từ
được gọi là cái sở biểu và quan hệ của từ với cái sở biểu được gọi là nghĩa sở
biểu. Thuật ngữ ý nghĩa thích hợp nhất để dùng chỉ nghĩa sở biểu.
Cái sở biểu và cái sở chỉ của một từ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cái
sở biểu chính là sự phản ánh của cái sở chỉ trong nhận thức con người. Tuy
nhiên giữa cái sở biểu và cái sở chỉ vẫn có sự khác nhau rất lớn. Mỗi cái sở
biểu có thể ứng với nhiều cái sở chỉ khác nhau vì nó có quan hệ với cả một
lớp hạng đối tượng trong thực tế. Ngược lại, một cái sở chỉ có thể thuộc vào
những cái sở biểu khác nhau, bởi vì cùng một sự vật, tùy theo đặc trưng có thể
tham gia vào một số lớp, hạng khác nhau, bắt chéo nhau.
Nghĩa sở chỉ thể hiện ra khi sử dụng các từ trong lời nói. Nó không có
tính ổn định, bởi vì bản thân mối quan hệ của từ với cái sở chỉ có thể thay đổi
tùy theo hoàn cảnh nói năng cụ thể.
Quan hệ giữa ngữ âm của từ với cái sở biểu, tức là nghĩa sở biểu của từ
đó, trong một giai đoạn lịch sử nhất định là cái có tính chất ổn định. Vì vậy,
nghĩa sở biểu thuộc vào hệ thống ngôn ngữ. Khi nói đến ý nghĩa hay nghĩa từ
vựng của các từ, trước hết người ta muốn nói đến chính nghĩa này.

Footer Page 14 of 166.


Header Page 15 of 166.


c.

Nghĩa sở dụng: là quan hệ của từ với người sử dụng (người nói,

người viết, người nghe, người đọc). Người sử dụng phải chú ý đến từ ngữ
được dùng. Họ có thể bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình với từ ngữ và qua đó
tới cái sở chỉ và cái sở biểu của từ ngữ. Quan hệ của từ với người sử dụng
được gọi là nghĩa sở dụng.
d.

Nghĩa kết cấu: là quan hệ giữa từ với những từ khác trong hệ

thống từ vựng được gọi là nghĩa kết cấu. Nghĩa sở chỉ và nghĩa sở biểu trong
các ngôn ngữ đều có quan hệ với việc nhận thức hiện thực khách quan.
Nhưng sự hình thành của những cái sở biểu lại được diễn ra trên cơ sở ngôn
ngữ, bằng những phương tiện có sẵn, cho nên có thể đạt đến các cái sở biểu
bằng những con đường khác nhau, bởi vì bản thân quá trình nhận thức được
thực hiện bằng những biện pháp ngôn ngữ khác nhau. Khi các biện pháp ngôn
ngữ thay đổi thì cái sở biểu cũng thay đổi. Chính vì vậy, cái sở biểu của
những từ tương ứng trong các ngôn ngữ không hoàn toàn giống nhau. Sự khác
nhau là do quan hệ nội tại lẫn nhau giữa các từ trong từng ngôn ngữ qui định.
Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị và
trục ngữ đoạn. Quan hệ của từ đối với từ khác trên trục đối vị được gọi là
nghĩa khu biệt hay giá trị. Quan hệ của từ với các từ khác trên trục ngữ đoạn
được gọi là nghĩa cú pháp hay ngữ trị. Nghĩa cú pháp hay ngữ trị của từ chính
là khả năng kết hợp từ vựng và khả năng kết hợp cú pháp của từ đó. Khả năng
kết hợp từ vựng là khả năng kết hợp của các nghĩa, còn khả năng kết hợp cú
pháp là khả năng dùng các từ trong những cấu trúc nào đó.
Theo Đỗ Hữu Châu, ý nghĩa của từ là một tập hợp một số thành phần
nhất định, bao gồm các ý nghĩa sau:

- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật: Ý nghĩa biểu vật là sự
phản ánh sự vật, hiện tượng, trong thực tế vào ngôn ngữ. Đó là những mẩu,

Footer Page 15 of 166.


Header Page 16 of 166.

những mảnh, những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với
thực tế.
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm: Sự vật, hiện tượng
trong thực tế khách quan được phản ánh vào tư duy thành các khái niệm, được
phản ánh vào ngôn ngữ thành các ý nghĩa biểu vật và từ ý nghĩa biểu vật có ý
nghĩa biểu niệm tương ứng. Các ý nghĩa biểu niệm một mặt thông qua các ý
nghĩa biểu vật mà liên hệ với thực tế khách quan, mặt khác lại có liên hệ khái
niệm, qua khái niệm mà liên hệ với các sự vật, hiện tượng bên ngoài.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái: Ý nghĩa biểu thái là
những nhân tố đánh giá (to, nhỏ, cao, lớn,…), nhân tố cảm xúc (dễ chịu, khó
chịu, sợ hãi), nhân tố thái độ (trọng, khinh, yêu, ghét,)… mà từ gợi ra cho
người nói và người nghe.
- Ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp
Tính biểu trưng là sự biểu hiện một cách tượng trưng và tiêu biểu nhất.
Như vậy tính biểu trưng thuộc thành phần ý nghĩa biểu niệm của từ.
Ngoài những quan niệm về nghĩa của từ đã trình bày trên đây, một số
nhà nghiên cứu Việt ngữ học còn có quan điểm khác về nghĩa của từ. Đó là
quan niệm nghĩa của từ chỉ là nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu).
1.1.2 Nghĩa biểu trưng
Mỗi sự vật, thông qua tên gọi, thường gợi lên trong ý thức người bản
ngữ một liên tưởng nào đó, gắn liền với một đặc điểm, thuộc tính của sự vật.
Quá trình liên tưởng dẫn tới sự ra đời của nghĩa bóng, nghĩa phái sinh bằng

phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ. Đó cũng là quá trình hình thành
nghĩa biểu trưng. Những nghĩa chuyển được dùng để biểu hiện một cách
tượng trưng, ước lệ cho yếu tố có tính khái quát, trừu tượng, nghĩa đó là nghĩa
biểu trưng.

Footer Page 16 of 166.


Header Page 17 of 166.

John Lyons [46: 21] phân tích: Một sự vật được coi là tín hiệu (sign)
của một cái khác được gọi là biểu trưng. Nhờ sự hiện diện của những tín hiệu
mà người khác có thể suy đoán nghĩa biểu thị. Khi đó, biểu trưng (symbol)
được xác lập.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học [85], thì cái biểu trưng
(symbol) là “kí hiệu, dấu hiệu mà nội dung khái niệm do nó biểu đạt được biết
nhờ vào tri giác suy luận từ chính bản thân cái đặc trưng, cái thuộc tính của
bản thể và hình thái cấu tạo của nó” [85: 30].
Theo quan niệm trên thì từ ngữ là cái biểu trưng và những nghĩa phái
sinh (derivative meaning) như nghĩa ẩn dụ (metaphor), nghĩa hoán dụ
(metonymy) đều là nghĩa biểu trưng bởi đều được suy ra từ những nghĩa cơ sở
(nghĩa gốc) dựa trên tính tương đồng và tương cận. Ví dụ như: “cáo” là tên
của một loại thú ăn thịt, sống ở rừng, gần với chó nhưng chân thấp, tai to,
mõm nhọn. Thế nhưng “cáo” trong câu “Thằng cha đó cáo lắm.” thì có nghĩa
là tinh ranh, gian xảo.
Nghĩa biểu trưng cũng được tạo ra theo quy luật hoán dụ. Chẳng hạn từ
“chân” (danh từ) có nghĩa gốc là “bộ phận dưới cùng của cơ thể người hay
động vật, dùng để đi, đứng; thường được coi là biểu tượng của hoạt động đi
lại của con người” [53: 240]. Trên cơ sở nghĩa gốc nêu trên, từ “chân” còn có
thể dùng với nghĩa phái sinh hoán dụ là “cương vị, phận sự của một người với

tư cách là thành viên của một tổ chức: có chân trong hội đồng, thiếu một chân
tổ tôm,…
Từ điển tiếng Việt [53] giải thích: biểu trưng (động từ và danh từ) “là
biểu hiện một cách tượng trưng và tiêu biểu nhất”. Từ điển Oxford Advanced
Leaner (7th edition) định nghĩa: biểu trưng là biểu tượng của thứ gì đó. Từ
điển Từ Hải (Trung Quốc) thì cho rằng biểu trưng là dùng sự vật cụ thể biểu
hiện các ý nghĩa trừu tượng nào đó. Ví dụ: con rồng là biểu trưng cho một tín

Footer Page 17 of 166.


Header Page 18 of 166.

ngưỡng hay những biểu trưng nghệ thuật thời nguyên thủy. Theo quan niệm
này thì ngoài loại biểu trưng bằng từ ngữ còn có biểu trưng bằng hình ảnh gọi
là biểu tượng. Trong tiếng Anh gọi là symbol. Những biểu trưng bằng hình
ảnh như: cây thánh giá biểu trưng, biểu tượng cho Thiên Chúa giáo, cái cân là
biểu tượng của công lí, búa- liềm trong cờ Đảng là biểu tượng cho sự đoàn kết
gắn bó của giai cấp công nhân và nông dân, cây măng trong huy hiệu nhi
đồng là biểu trưng cho sự lớn nhanh của thiếu nhi,…
Như vậy, các từ ngữ với nghĩa gốc có thể làm cơ sở tạo nên một nghĩa
phái sinh được coi là có tính biểu trưng. Các nghĩa phái sinh (ẩn dụ, hoán dụ)
được tạo ra trên cơ sở nghĩa gốc theo cách này được coi là nghĩa biểu trưng.
Theo đó, có thể hình dung nghĩa biểu trưng theo sơ đồ:
Nghĩa
gốc
của từ

Các phương thức
chuyển nghĩa


Nghĩa
phái sinh

Ý thức
bền vững

Nghĩa
biểu
trưng

Sơ đồ 1.2: Quá trình hình thành nghĩa biểu trưng
1.2 Từ ngữ chỉ màu sắc
1.2.1 Khái niệm về màu sắc
Màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách khách quan
trong thế giới vật chất mà thị giác con người có thể nhận biết được. Sự vật có
màu khác nhau là do chúng có tần số ánh sáng khác nhau, còn sắc tức là
trạng thái màu của sự vật, mỗi màu có một sắc thái riêng.
Trang web wikipedia định nghĩa: Màu sắc là đặc tính giác quan của thị
giác con người. Màu sắc có được do ánh sáng quang phổ tác động vào mắt
bằng các trực giác quang phổ của cơ quan hấp thụ ánh sáng [95].

Footer Page 18 of 166.


Header Page 19 of 166.

Các loại màu sắc và các chỉ định về vật lí của màu sắc cũng có liên
quan đến các vật thể, vật liệu, các nguồn ánh sáng,…;chúng được dựa vào các
đặc tính tự nhiên như sự hấp thụ, sự phản chiếu hoặc là sự phát ra quang phổ.

Như vậy, có thể tạm mượn định nghĩa về màu sắc của Đào Thản để làm
cơ sở cho luận văn: Màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách
khách quan trong thế giới vật chất, mà thị giác con người có thể nhận biết
được [60].
1.2.2 Từ ngữ chỉ màu sắc
Sự nhận thức và phân biệt màu sắc hoàn toàn có tính chất chủ quan đối
với từng cộng đồng người nhất định. Trong các ngôn ngữ khác nhau, người ta
phân chia dải màu và ghi nhận các sắc độ, sắc thái về màu sắc theo những
cách riêng khác nhau. Vì thế hệ thống tên gọi màu sắc của các ngôn ngữ cũng
không giống nhau. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu và có cả những nhà ngôn ngữ học. Màu sắc được thể hiện bằng danh từ
và tính từ trong hệ thống từ loại. Trong đó, tính từ chỉ màu sắc được sử dụng
rộng rãi hơn cả.
Qua khảo sát 78 ngôn ngữ, B.Berlin và P.Kay đã có nhận xét về các
màu cơ bản (primary colour) một cách phổ quát như sau [Dẫn theo 59]:
- Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có hai từ chỉ màu đen và màu trắng.
- Nếu có ba từ thì có thêm màu đỏ.
- Nếu có bốn từ thì có thêm xanh lá hoặc vàng.
- Nếu có năm từ thì có thêm cả xanh lá và vàng.
- Nếu có sáu từ thì có thêm màu xanh da trời.
- Nếu có bảy từ thì có thêm màu nâu.
- Nếu có trên bảy từ thì có thêm tím, hồng, da cam, xám hoặc hỗn hợp
những màu này.

Footer Page 19 of 166.


Header Page 20 of 166.

Từ các kết luận trên, có thể thấy rằng trong sự ghi nhận màu sắc, vấn đề

xác định màu cơ bản (màu chính) và màu phụ là một thực tế đặt ra đối với
nhiều ngôn ngữ. Tính hệ thống của các từ ngữ chỉ màu đòi hỏi phải chỉ ra
được trong một ngôn ngữ những màu nào được coi là màu cơ bản, những màu
nào là màu phụ và ứng với chúng là những từ ngữ nào. Đồng thời, cũng có thể
suy ra: Số lượng từ chỉ màu trong các ngôn ngữ nói chung không có sự tương
đương nhau, do sự ghi nhận và gọi tên màu sắc không giống nhau. Có ngôn
ngữ chỉ biết có hai màu lại có những ngôn ngữ lại phân biệt đến bảy màu.
Như vậy chỉ có thể nói đến việc xác định màu cơ bản ở từng ngôn ngữ cụ thể.
Hơn nữa, vấn đề này cũng quan trọng ở những ngôn ngữ có từ chỉ màu phong
phú như tiếng Việt.
Sự nhận thức về màu và phân chia dải màu để gọi tên các màu ở các
ngôn ngữ thường dựa trên cảm nhận thị giác và quan điểm truyền thống của
từng cộng đồng người. Vì lẽ đó, một số màu được coi là cơ bản ở ngôn ngữ
này lại có thể không phải là màu cơ bản ở ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, thời
xưa, ông cha ta không xem màu xanh da trời, xanh lá cây và màu da cam là
màu cơ bản trong tiếng Việt. Trong khi đó, ở tiếng Anh, theo Berlin va Kay,
các màu cơ bản lại là: trắng, đen, đỏ, xanh lá cây, vàng, xanh nước biển, nâu
tím hồng, da cam, xám; còn ở tiếng Nga, các màu cơ bản lại là hồng, nâu,
trắng, đen, xám cộng với bảy màu có trong quang phổ cầu vồng [Dẫn theo16:
16].
Trong tài liệu phổ quát trên, bảy từ chỉ màu được đưa ra không nhất
thiết là những từ chỉ màu sắc của riêng một ngôn ngữ nào; cũng không phải là
những màu của cầu vồng (đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím). Nói cách khác,
bảy màu cầu vồng không có sự liên quan với nhóm màu cơ bản của từng ngôn
ngữ hay với bảy màu của tài liệu trên. Cũng có trường hợp như tiếng Nga,
nhóm màu cơ bản được các nhà nghiên cứu xác định gồm bảy màu cầu vồng

Footer Page 20 of 166.



Header Page 21 of 166.

cộng thêm một số màu. Nhưng có một điểm tương đồng giữa các ngôn ngữ là
màu sắc được thể hiện bằng tính từ và danh từ trong hệ thống từ loại.
Nhân đây, chúng tôi cũng muốn phân biệt từ chỉ màu sắc với các từ
đồng âm với nó nhằm mục đích không xét đến các trường hợp có vỏ ngữ âm
giống với từ chỉ màu sắc.
Theo Nguyễn Thiện Giáp, hiện tượng đồng âm là hiện tượng trùng
nhau về ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa của hai hoặc hơn hai đơn vị ngôn
ngữ khác nhau. Đây là hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, nhưng mỗi
ngôn ngữ lại có những biểu hiện khác nhau. Tiếng Việt là ngôn ngữ không
biến hình nên các trường hợp từ đồng âm rất rõ. Trong đó, từ ngữ chỉ màu sắc
cũng có dạng đồng âm. Ví dụ như: xanh “màu xanh” và xanh “dụng cụ làm
bếp” hay vàng “màu vàng” với vàng là “cái vung”, là “kim loại”…
Qua khảo sát các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, chúng tôi có
bảng thống kê các từ đồng âm sau:
Bảng 1.1: Phân biệt từ chỉ màu sắc với các từ đồng âm
Từ chỉ màu sắc

Nghĩa của từ đồng âm

Trắng
Đỏ

Đỏ: làm cho cháy

Hồng 2

Hồng: lớn – hồng phúc


Xanh

Xanh: dụng cụ làm bếp

Vàng

Vàng: kim loại quý/ vung

Đen
Nâu

Nâu: củ nâu

Tím
Xám
2

Màu hồng là màu phụ của đỏ, nhưng người viết xếp riêng để tiện quan sát. Ở đây, luận văn không xét các
trường hợp bạc với màu bạc, đồng với màu đồng,… vì đây là trường hợp chuyển nghĩa sẽ phân tích ở sau.

Footer Page 21 of 166.


Header Page 22 of 166.

1.2.3 Tính biểu trưng của từ chỉ màu sắc trên thế giới
Từ xa xưa, con người đã biết dùng màu sắc để tạo thành các biểu tượng
biểu trưng cho những giá trị tâm linh trong đời sống văn hóa, xã hội. Dùng
màu sắc để biểu trưng có thể theo hai cách:
- Dùng riêng từng màu: một số màu biểu trưng cho các nguyên tố hóa

học, biểu trưng cho không gian, biểu trưng cho thời gian, biểu trưng cho vũ
trụ.
- Dùng kết hợp các màu: các biểu tượng tôn giáo, quốc kì, văn hóa
các dân tộc,…
Theo Từ điển biểu tượng thế giới [38], quan niệm về màu sắc của các
nước được giới thiệu như sau:
(1)

Màu da cam (orange): ở nửa chừng vàng và đỏ, màu da cam có

tính quang hóa nhất trong các màu sắc. Giữa màu vàng kim loại của trời và
màu đỏ son của đất, màu da cam tượng trưng trước hết cho điểm cân bằng
giữa trí tuệ và dục năng. Thế nhưng sự cân bằng này có xu thế bị phá vỡ theo
hướng này hay hướng kia thì nó trở thành biểu trưng cho thánh thiện hoặc
dâm dục.
- Theo hướng biểu trưng cho sự thánh thiện: Màu cây thánh giá bọc
nhung của những Hiệp sĩ của Chúa Thánh thần. Đá quý hyacinthe màu da
cam được xem là biểu tượng của lòng chung thủy. Nó biểu trưng cho một
trong mười hai bộ tộc của Israel trên miếng bố tử của vị Đại tư tế thành
Jérusalem. Màu này cũng xuất hiện trên vương miện của vua nước Anh,
tượng trưng cho đức tiết độ và điềm đạm của các bậc đế vương.
- Theo hướng tượng trưng cho sự không chung thủy và tà dâm: theo
những truyền thống bắt nguồn từ sự thờ bái Đất- Mẹ, màu da cam đã được sử
dụng trong các lễ hội truy hoan. Và theo thần thoại, thần Dionysos mặc áo
quần màu da cam.

Footer Page 22 of 166.


Header Page 23 of 166.


(2)

Màu đen (black):

- Màu đen hay được cảm nhận trước tiên ở mặt lạnh lùng, tiêu cực của
nó. Màu đen gợi liên tưởng đến bóng tối thuở hồng hoang, đến trạng thái bất
phân nguyên thủy. Một số dân tộc xem màu đen tượng trưng cho địa ngục, âm
ti (người da đỏ Pueblo, người Algonkin,…). 3
- Màu đen biểu thị tính thụ động tuyệt đối, trạng thái chết hoàn toàn và
bất di bất dịch. Màu đen là màu tang tóc nhưng nặng nề và khủng khiếp hơn
màu trắng (màu tang trắng chỉ sự trống vắng nhất thời, sẽ được tái sinh):
Adam và Eva của đạo Zoroastre, bị Ahriman phỉnh lừa, mặc đồ đen rời khỏi
thiên đàng.
- Là màu của sự tuyên phạt, từ chối mọi hư danh nơi trần thế này: áo
choàng đen của tu sĩ đạo Kitô và đạo Hồi; ở Ai Cập, hình con bồ câu đen chỉ
người quả phụ ở vậy cho đến chết hay ý nghĩa định mệnh của con tàu buồm
đen trong sử thi Hy Lạp và tình sử Tristan.
- Màu đen khởi nguyên là một biểu tượng phồn thực. Ở Ai Cập cổ
cũng như ở Bắc Phi, đây là màu của đất đai màu mỡ, của đám mây sắp mưa.
Vì vậy, màu đen của đất đai phì nhiêu được ngợi ca trong các cuộc hiến tế
thần Địa ngục. 4
- Màu đen gắn với cái ác, cái vô thức. Trong tiếng Pháp, người đáng
ghét được gọi là bête noire (con thú đen). Học sinh ở Anh gọi ngày thứ hai
phải trở lại lớp học là Black Monday (Thứ hai Đen) và người La Mã đánh dấu
các ngày xấu bằng một cục đá đen.
- Màu đen còn tương ứng với khí âm Trung Hoa, thuộc nữ tính, bản
năng và thuộc về người mẹ: nhiều Thánh mẫu; nhiều Đức Mẹ Đồng Trinh da
3


Các dân tộc khác xem địa ngục thuộc màu trắng.

4

Lễ hiến tế các súc vật màu đen, được trang trí bằng những dải vải cùng màu. Các cuộc tế thần này chỉ được
diễn ra trong bóng tối và đầu con vật tế thần phải chúc xuống đất.

Footer Page 23 of 166.


Header Page 24 of 166.

đen; các nữ thần Diane ở Éphèse, Kali của đạo Hinđu hoặc Isis ở Ai Cập được
thể hiện với màu đen; một tảng đá đen tượng trưng cho Magna Mater (Mẹ Vĩ
Đại),…
(3)

Màu đỏ (red): được coi là biểu tượng cơ bản của bản nguyên

sống, với sức mạnh quyền năng; tuy nhiên nó cũng mang tính biểu trưng
nhiều mặt.
- Màu đỏ sẫm là màu của âm tính, kín đáo và bí ẩn. Vì thế, trong một
thời gian có những đối tượng như đao phủ vận quần áo đỏ, là một người
không được đụng đến vì anh ta đã chạm đến chính cái bí mật của sự sống là
màu đỏ của máu.
- Màu đỏ tươi, màu của ban ngày, kích thích hoạt động, nó là hình ảnh
của sự hăng say, của tuổi trẻ, của chinh chiến, của sức khỏe và sự giàu có:
nam nữ thổ dân châu Mỹ bôi màu đỏ lên mặt xem như kích thích sức mạnh và
gợi dục; ở các nước như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc đều sử dụng màu đỏ
trong các lễ hội dân gian, lễ cưới, sinh nhật,…

- Màu đỏ tía còn hiện thân cho màu quyền lực. Ở La Mã, nó là màu
của các tướng lĩnh, của hoàng tộc, của Hoàng đế: Bộ luật Justinien kết tội tử
hình những ai mua bán vải màu đỏ tía.
(4)

Màu tím (purple, violet):

- Màu tím được tạo thành bằng hai lượng bằng nhau của màu đỏ và
màu xanh lam. Vì thế nó được xem là màu tiết độ, của sự tỉnh táo, của cách
hành động có suy nghĩ, có sự cân bằng giữa trời và đất, giữa cảm giác và trí
tuệ, giữa đam mê và sự khôn ngoan: các giám mục mặc áo chùng màu tím;
những cuộc giao hợp mang tính nghi lễ của người luyện yoga (nghi thức của
đạo Mật tông) được tiến hành trong những căn phòng có ánh sáng tím.
- Màu tím còn là giai đoạn chuyển tiếp của sự sống sang cái chết, sự
biến hóa. Vì vậy, các công trình kiến trúc thời Trung đại thường tạc hình

Footer Page 24 of 166.


Header Page 25 of 166.

Chúa Jesus mặc áo dài tím trong ngày khổ nạn; dàn đồng ca trong nhà thờ
mặc áo màu tím vào ngày thứ sáu của Tuần lễ thánh. Muộn hơn một chút,
phương Tây cũng dùng màu tím làm màu tang hoặc nửa tang.
(5)

Màu vàng (yellow):

- Màu vàng là màu nóng nhất, cởi mở nhất trong tất cả các màu. Vì thế
nó mang tính chất thần thánh: Thần Mặt trời, chư thần của người Aztèque,…

- Màu vàng kim trở thành biểu hiện uy quyền của các vị vương công,
các vị vua, các vị hoàng đế. Theo hệ biểu tượng của Trung Hoa, vàng là màu
của hoàng đế vì ông ta đứng ở trung tâm vũ trụ, như mặt trời nằm giữa trung
tâm bầu trời.
- Màu vàng khi đi vào cuộc sống thường bị gắn với tội ngoại tình, sự
dối trá, lừa phỉnh: Từ thế kỉ XVI và XVII, người ta sơn màu vàng lên nhà
những kẻ phản bội; màu vàng tái trong đạo Hồi là sự phản trắc và thất vọng;
trong sân khấu truyền thống Trung Quốc diễn viên hóa trang màu vàng biểu
thị tính tàn bạo, giả dối, vô liêm sĩ. 5
(6)

Màu xám (grey):

- Trong hệ biểu tượng của Kitô giáo, màu xám chỉ sự phục sinh của
người chết. Các nghệ sĩ thời Trung cổ đã khoác cho Chúa Kitô chiếc áo
choàng xám khi Chúa chủ tọa cuộc phán xử cuối cùng.
- Màu xám là màu của tro và sương mù. Người Do Thái cổ phủ tro lên
người để biểu lộ niềm đau đớn dữ dội. Ở châu Âu, màu xám tro là màu nửa
sau kì tang chế.
(7)

Màu xanh
 Xanh da trời (blue) là màu sâu nhất, lạnh nhất, phi vật chất nhất

trong tất cả các màu.
5

Tuy nhiên, cũng trong sân khấu truyền thống đó, y phục màu vàng của vương tôn, hoàng đế biểu thị địa vị
xã hội (chứ không phải tính cách). Cách sử dụng như thế cho thấy rõ tính hai mặt đặc thù của màu này, khiến
nó vừa là màu sắc của thần thánh vừa là màu sắc của trần tục. [Kandinsky, Dẫn theo 38: 981]


Footer Page 25 of 166.


×