Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất chè ở Việt Nam từ nay đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488 KB, 91 trang )

Mở đầu
Chè là cây công nghiệp dài ngày có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
xã hội nước ta. Uống chè từ lâu đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc
sống hàng ngày, một tập quán mang nét văn hoá của người Việt Nam. Chè
còn là sản phẩm xuất khẩu quan trọng trong ngành nông nghiệp nước ta. Hiện
nay, trên thế giới có 39 nước trồng và chế biến chè thì Việt Nam đứng thứ 5
về diện tích và đứng thứ 8 về sản lượng.
Mặt khác cây chè phát triển còn tạo công ăn việc làm cho một lượng lao
động rất lớn ở các vùng nông thôn, đem lại thu nhập cho họ, góp phần xoá đói
giảm nghèo, giúp nông thôn rút ngắn khoảng cách về kinh tế với thành thị,
thiết lập công bằng xã hội. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đang cố
gắng thực hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Do lợi thế và vị trí quan trọng của cây chè trong nền kinh tế nói chung và
trong sản xuất nông nghiệp nói riêng nên năm 1995 Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã xây dựng “Tổng quan phát triển chè ở Việt Nam đến năm
2000 và 2010”. Ngày 10/3/1999 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số
43/1999/QĐ-TTg về kế hoạch sản xuất chè năm 1999-2000 và định hướng
phát triển chè Việt Nam đến năm 2005-2010. Trong quyết định này đã nêu rõ:
Trên địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu và quỹ đất đai hiện có ở các địa phương,
quy hoạch vùng theo hướng khai thác lợi thế của từng vùng, có kế hoạch phục
hồi thâm canh các vườn chè hiện có, đồng thời tập trung trồng mới bằng các
giống có năng suất và chất lượng cao.
Thực hiện những quyết định trên, trong những năm gần đây, sản xuất
chè cả nước đã đạt được kết quả quan trọng, tổng diện tích và sản lượng chè
đều vượt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên ngành sản xuất chè ở nước ta đang đứng
trước những thách thức tiềm ẩn hết sức gay go: năng suất chè của ta thấp hơn
so với các nước trên thế giới, chất lượng chè chưa tốt, giá xuất khẩu liên tục
1


giảm... Vì vậy cần có các biện pháp phù hợp để ngành chè khắc phục được


những khó khăn và tiếp tục phát huy vai trò của mình.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của ngành chè Việt Nam kết
hợp với nghiên cứu thực tiễn trong quá trình thực tập tại Viện Quy hoạch và
Thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn em chọn
đề tài: “Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất chè ở Việt Nam từ nay
đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Nội dung của đề tài:
Chương I: Một số đặc điểm về phát triển sản xuất chè ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng phát triển chè ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển cây chè ở Việt Nam từ nay
đến năm 2010
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn
Tiến sỹ Ngô Thắng Lợi và các thầy cô trong khoa cùng toàn thể các cán bộ
trong Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành
luận văn tốt nghiệp này.
Do thời gian có hạn và kiến thức về lý luận cũng như thực tiễn còn hạn
chế nên luận văn của em không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Em
mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô và các cán bộ trong Viện Quy
hoạch và Thiết kế nông nghiệp.

2


Chương I

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CHÈ
Ở VIỆT NAM
I.

VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

- XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

1.

Đặc điểm của cây chè Việt Nam
Cây chè là cây công nghiệp dài ngày được trồng lâu đời trên đất nước ta

và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế xã hội đất nước.
Về mặt lịch sử: Cây chè là cây có nguồn gốc từ Trung Quốc truyền bá ra
khắp thế giới. Cây chè có lịch sử từ rất lâu đời: từ khi phát hiện, sử dụng,
truyền bá và phát triển đến nay đã có gần 4000 năm. Do đặc tính sinh trưởng
của bản thân cây chè, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc nên cây chè đã du
nhập vào Việt Nam từ khoảng 3000 năm trước. Nhân dân vùng biên giới của
Việt Nam đã học được cách trồng và chế biến của người Trung Quốc để phát
triển các vườn chè trồng phân tán rải rác và hái lá để uống. Ngay từ trước thế
kỷ thứ XVII, ở Việt Nam đã hình thành hai vùng sản xuất chè: chè vườn miền
trung du và chè rừng miền núi.
-Vùng chè miền trung du chủ yếu sản xuất chè tươi, chè nụ và chè băm,
chế biến đơn giản.
- Vùng chè miền núi sản xuất loại chè chi, chè mạn, lên men nửa chừng
của đồng bào dân tộc Mông, Dao,...
Kỹ thuật trồng chè thời kỳ này chủ yếu là quảng canh, có nơi coi đó là
một cây rừng chế biến đơn giản, mang tính tự cung, tự cấp trong gia đình
hoặc trong cộng đồng lãnh thổ phạm vi nhỏ.

3


Đến thế kỷ thứ XIX, một số người Pháp bắt đầu kiểm soát việc sản xuất
và buôn bán chè ở Hà Nội. Đến năm 1980 Paul Chaffajon xây dựng đồn điền

đầu tiên của Việt Nam tại Tĩnh Cương (Phú Thọ) nay thuộc huyện Sông Thao
tỉnh Phú Thọ với diện tích khoảng 60 ha. Đến năm 1918, thành lập Trung tâm
nghiên cứu nông lâm nghiệp Phú Thọ tại Phú Hộ. Từ năm 1925, cây chè bắt
đầu phát triển mạnh, cả nước hình thành ba vùng chè chính:
-Vùng chè Tây Nguyên: Có diện tích tính đến năm 1939 là 2.759 ha, sản
lượng bình quân mỗi năm đạt 900 tấn. Đã có những đồn điền quy mô 400-500
ha. Bắt đầu hình thành một số nhà máy (thiết bị của Anh) có sản phẩm chính
là loại chè đen truyền thống (OTD) tiêu thụ ở thị trường Tây Âu và một ít chè
xanh xuất khẩu sang Bắc Phi.
- Vùng chè Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ: Chè được trồng rải rác trong các
vườn gia đình, một số đồn điền nhỏ (vài chục ha), kỹ thuật trồng và chế biến
còn rất đơn giản, sản phẩm gồm chè đen, chè xanh, chè tươi và chè nụ.
- Vùng chè Trung Bộ: Tổng diện tích khoảng 1900 ha, trong đó có một
đồn điền của người Pháp với diện tích khoảng 250 ha. Chế biến chè ở vùng
này còn thô sơ, sản phẩm chính là chè xanh xuất khẩu sang Bắc Phi.
Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay: Việt Nam phải tiến hành
30 năm chiến tranh dành độc lập, các cơ sở nghiên cứu khoa học về chè có ở
hai miền Nam, Bắc đều bị ngừng hoạt động, như Trung tâm nghiên cứu chè ở
Phú Hộ ở miền Bắc đã ba lần bị quân viễn chinh Pháp chiếm đóng và ném
bom phá sạch, đốt sạch. Mặc dù vẫn phải sản xuất lương thực thực phẩm cho
quân dân là chính nhưng Nhà nước ta vẫn quan tâm phát triển cây chè và đến
ngày nay cây chè lại càng được chú trọng phát triển.
Về mặt tự nhiên: Cây chè là cây trồng nhiệt đới rất thích hợp với điều
kiện thổ nhưỡng, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, hệ số dao động nhiệt độ giữa
ban ngày và ban đêm lớn (8-12 độ C) ở Việt Nam tạo cho cây chè tổng hợp
được nhiều chất thơm tự nhiên và đặc trưng. Ngoài ra độ cao và địa hình cũng
4


có ảnh hưởng đến chất lượng chè. Kinh nghiệm sản xuất chè lâu đời của thế

giới cho thấy các loại danh trà chủ yếu là được trồng trên vùng núi cao. Chè
Việt Nam có chất lượng cao là chè Shan Tuyết được trồng trên núi Tây Côn
Lĩnh, chè Suối Giàng ở Văn Chấn Yên Bái, chè Tà Sùa ở Sơn La. Các vùng
này có nhiệt độ thấp, độ ẩm cao, ánh sáng tán xạ cao, biên độ ngày đêm cao...
Về mặt kinh tế: Chè là cây công nghiệp dài ngày, có lợi thế so sánh ở
nước ta đặc biệt là ở các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc. Đảng và Nhà nước
ta coi cây chè là cây xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh Trung du miền núi phía
Bắc và là cây làm giàu, góp phần lớn vào việc phát triển kinh tế nông thôn ở
miền Nam.
Trồng chè còn thu hút được một lượng lao động đáng kể, góp phần giải
quyết việc làm và là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao ở Trung
du Miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên, góp phần thúc đẩy trung du, miền núi có
điều kiện hoà hợp với miền xuôi về kinh tế, văn hoá, xã hội.
2.

Vai trò của ngành sản xuất chè Việt Nam
Việt Nam là nước có tiềm năng về đất đai, khí hậu thuận lợi cho phát

triển cây chè. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, theo phân công trong
khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế) Việt Nam là nước sản xuất chè cho
các nước XHCN. Trong những năm qua, ngành chè đã góp phần sử dụng hiệu
quả đất đai ở vùng trung du, miền núi, đặc biệt là Trung du Miền núi Bắc Bộ,
đã tạo công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần xoá đói giảm
nghèo, chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc của đồng bào dân tộc miền núi bằng
một nền kinh tế sản xuất hàng hoá, góp phần phân công lao động giữa miền
ngược và miền xuôi. Chè cũng đem lại nguồn lợi tương đối lớn cho Ngân
sách Nhà nước. Chè có vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực:
2.1. Sản xuất chè với phát triển nông nghiệp:
Chè là cây trồng rất lâu đời ở Việt Nam, đến nay xác định được 33 tỉnh
có khả năng thích hợp nhất để trồng chè, tập trung chủ yếu ở Trung du Miền

5


núi Bắc Bộ và Tây Nguyên. Bên cạnh ưu thế về khí hậu, đất đai của tự nhiên
nhiệt đới Việt Nam có lợi cho sinh trưởng cây chè (mùa hái chè dài, thời gian
kiến thiết ngắn) và các nguồn gen phong phú (chè rừng miền núi), cây chè
còn có nghĩa to lớn đối với người dân:
- Những năm gần đây, việc triển khai giao đất và khoán chè cho người
lao động theo Nghị định 01 của Chính phủ cùng với những giải pháp của
ngành chè Việt Nam được giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Cùng
với cơ chế và phương thức mua chè thuận lợi cho người lao động đã tạo động
lực khuyến khích ngươì lao động phấn khởi chủ động đầu tư thâm cạnh chè
để đạt năng suất, chất lượng cao. Ở trung du miền núi người dân có tập quán
trồng lúa nương với thu nhập trung bình là 1-2 triệu đồng/ha trong khi đó 1 ha
chè trên vùng đồi núi khô cằn thu được 10-12 triệu đồng. Điều này dẫn tới
quan điểm chuyển sang trồng chè thay vì lúa nương trong nhân dân miền núi.
- Chè là mặt hàng có thị trường và giá cả ổn định với mức dao động về
giá ở thời điểm biến động cao nhất không quá 8% đối với loại chè trung bình
so với các ngành kinh tế công nông nghiệp khác, chè cũng đã khẳng định
được vị trí của mình. Trồng chè đúng kỹ thuật sẽ tạo ra một thảm thực vật có
tác dụng phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
- Cây chè là cây không kén đất như cà phê, ca cao, hồ tiêu, năng suất lại
tương đối ổn định, ít biến động hàng năm không lớn ngay cả những năm thiên
tai, hạn hán. Nhìn chung đây là loại đất trồng đứng về mặt kinh doanh tương
đối ổn định.
- Cây chè có tác dụng chống xói mòn, bảo vệ môi sinh. Hiện nay bình
quân độ che phủ trong cả nước chỉ còn 29,1%, trong đó nếu không kể hai
vùng Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long chỉ đạt 4,7% và 6,1% còn ở
vùng núi như vùng Tây Bắc chỉ còn 20,7%, Đông Bắc 19,4%... Bởi vậy, ở
những nơi này nếu được trồng chè chắc chắn sẽ nâng cao hệ số che phủ tốt

hơn.
6


-Trồng chè thu hút một lượng lao động đáng kể (mỗi ha trồng chè bình
quân cần 2,2 lao động) ngoài ra chưa kể lao động cho chế biến và tiêu thụ.
2.2. Sản xuất chè với phát triển ngành công nghiệp chế biến
Phát triển cây chè Việt Nam luôn gắn liền với sự phát triển của ngành
công nghiệp chế biến nước ta. Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, sản xuất
chè công nghiệp bắt đầu bằng việc xây dựng nhà máy chè đầu tiên vào năm
1923. Chế biến chè thời kỳ này bộ phận cối vò chè, máy sấy và máy phát
điện. Những năm 60, ở miền Bắc đã xây dựng hàng loạt nhà máy chè đen
OTD lớn (12-43 tấn/ ngày) với thiết bị công nghệ chè đen và chè xanh của
Trung Quốc và Liên Xô. Những năm 90 lại có chè túi nhúng của Ý, thiết bị
chế biến chè CTC của Ấn Độ, chè xanh dẹt bán tự động của Nhật Bản. Hiện
nay ngành công nghiệp chế biến của ta đã phát triển theo hướng không ngừng
đổi mới thiết bị và công nghệ chế biến chè, đặc biệt là chế biến chè đặc sản và
nghiên cứu các sản phẩm mới theo dự báo của thị trường tiêu thụ chè tương
lai.
2.3. Sản xuất chè với ngành xuất khẩu
Cây chè Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường của hơn 40 nước trên
thế giới, gồm có Liên Xô cũ và Đông Âu, Trung Cận Đông, Bắc Phi và gần
đây bước đầu đưa vào các thị trường khó tính như Tây Âu và Nhật Bản, do đó
đã đem lại một nguồn kim ngạch nhập khẩu đáng kể cho đất nước. Mỗi năm
bình quân chúng ta xuất khẩu được khoảng 50 nghìn tấn đem lại cho đất nước
khoảng 50 triệu USD.
2.4. Sản xuất chè với việc giải quyết các vấn đề xã hội
Chè chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi gắn sự phát triển của nó với việc
phát triển kinh tế xã hội các vùng sâu, vùng xa của đồng bào dân tộc khai
hoang ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Ở đây cây chè gần gũi với từng

gia đình, góp phần định cư, ổn định cuộc sống và xoá đói giảm nghèo cho
đồng bào dân tộc ít người. Hơn nữa cây chè đã tạo công ăn việc làm cho hơn
7


20 vạn lao động góp phần ổn định đời sống cho 10 vạn hộ gia đình. Việc quy
hoạch các vùng sản xuất chè tập trung bao gồm sản xuất nông - công nghiệp
-dịch vụ, hình thành các cụm dân cư đã góp phần cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân.
Cây chè là cây công nghiệp lâu năm, có chu kỳ kinh tế dài nhưng nhanh
cho sản phẩm thu hoạch, là cây trồng xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế
ở vùng núi và trung du Việt Nam, góp phần thúc đẩy trung du miền núi có
điều kiện tiến kịp với các vùng khác trong cả nước. Cây chè là cây trồng có
thể áp dụng rộng rãi vào các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế trang trại.
Trồng chè sẽ mở rộng diện tích canh tác ở vùng cao cho người dân ở đây.
Ngoài ra, về mặt y học, từ xưa đến nay nước chè là thứ nước uống giải
khát phổ biến của nhân dân ta có tác dụng chống lại được lạnh, khắc phục sự
mệt mỏi của cơ bắp và hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não, làm
cho tinh thần minh mẫn, sảng khoái, hưng phấn trong thời gian lao động căng
thăng về trí óc và chân tay. Ngoài ra còn có tác dụng bảo vệ sức khoẻ. Chất
catesin của chè xanh có chức năng phòng ngừa bệnh ung thư bằng cách củng
cố hệ thống miễn dịch, phòng ngừa bệnh cao huyết áp, chống lão hoá.
Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 20002010, và do giá trị dinh dưỡng, kinh tế, xã hội, văn hoá và bảo vệ sức khoẻ
con người nên cây chè đã được ghi vào Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước Việt Nam, trong chương trình phát triển nông nghiệp, kinh tế
nông thôn và chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
II.

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CHÈ Ở
VIỆT NAM


1.

Điều kiện tự nhiên
Nhân tố điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển sản xuất

chè. Các yếu tố như lượng mưa, khí hậu, nhiệt độ, đất đai,... là các yếu tố
quan trọng có tác động đến chất lượng chè. Ở Việt Nam cây chè đang có mặt
8


trên 4 vùng sinh thái lớn : Trung du Miền núi Bắc Bộ, Duyên hải Miền Trung,
Đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên. Trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu về khí
hậu, đất đai, địa hình, nguồn nước của từng vùng cho thấy khả năng thích
nghi của từng vùng như sau :
1.1. Vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ
Đây là vùng có địa hình phức tạp, được chia cắt bởi những cánh đồng
hoặc thung lũng xen giữa những đồi núi. Núi ở đây thường cao và dốc, vùng
này có mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình từ 18-23 độ C. Đất đai
vùng này chủ yếu là đỏ nâu trên đá vôi, đỏ vàng trên đá đất sét và biến chất.
Đất đai phần lớn có bề dầy trên 100 cm, hàm lượng dinh dưỡng trung bình.
Nhìn chung vùng này rất thích hợp với phát triển cây chè. Hạn chế chính ở
vùng này chính là mùa đông có sương muối, mùa hè chịu ảnh hưởng của gió
Lào. Có thể khắc phục hiện tượng này bằng cách tác động vào các biện pháp
kỹ thuật như ủ gốc, trồng cây che bóng mát.
1.2. Vùng Duyên hải Miền Trung
Đây là dải đất chạy dài ven biển, mang đặc tính của loại hình khí hậu cận
nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23-25 độ C. Có mùa mưa
kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm, kèm theo bão lụt là chịu ảnh
hưởng rõ rệt của gió Lào. Như vậy xét về yếu tố khí hậu thì chỉ có ba tỉnh là

Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh là cây chè có thể sinh trưởng và phát triển
bình thường.
Đất đai các tỉnh này chủ yếu là đất được hình thành trên đá phiến sét,
đây là loại đất có hàm lượng dinh dưỡng tương đối cao, cấu tượng tốt. So với
yêu cầu sinh thái của cây chè thì vùng này cũng có những đặc điểm rất thích
hợp.
1.3. Vùng Duyên hải Miền Trung
Đây là vùng không có nhiệt độ thấp, bình quân từ 25-27 độ C, không có
mùa đông lạnh. Lượng mưa ảnh hưởng phân bố theo đất đai và vĩ tuyến. Đất
9


đai có thể trồng chè là nhóm vàng đỏ trên đất bazan, có nhiều tầng mỏng, độ
dốc lớn. Đây là vùng có khí hậu không thuận lợi, đất đai nghèo dinh dưỡng và
không có độ dốc phù hợp với phát triển sản xuất chè nên năng suất và chất
lượng thấp. Chế độ mưa của vùng cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa phía
Bắc, phân bố không đều và trái với mùa sinh trưởng của chè. Ngược lại mưa
thiếu vào mùa xuân, thời điểm lá chè và búp chè hình thành lá non.
1.4. Vùng Tây Nguyên
Là vùng mang khí hậu nhiệt đới gió mùa. Độ cao từ 700 đến 1.500 m so
với mặt nước biển. Nhiệt độ bình quân hàng năm là 23 độ C, lượng mưa trung
bình hàng năm là 2000 mm. Đất đai có thể trồng chè chủ yếu là đất bazan, đặc
biệt là đất nâu vàng trên đá bazan ở Bảo Lộc, Di Linh khá tốt, hàm lượng mưa
phùn và độ ẩm cao. Đất ở vùng này có kết cấu và tầng dày tốt.
2.

Khả năng nguồn vốn
Để phát triển sản xuất chè, việc huy động vốn đầu tư là rất quan trọng.

Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn có thể huy động, nhưng nguồn vốn quan

trọng nhất là Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người trồng
chè. Ở các nông trường công nghiệp cũng được giao khoán vườn chè và giao
đất để trồng chè mới.
Huy động nguồn vốn tự có trong nhân dân: Đây là nguồn vốn rất quan
trọng, nó có tác dụng thúc đẩy người nông dân tham gia vào qúa trình phát
triển cây chè, mặt khác khi người dân tự bỏ vốn ra kinh doanh thì họ sẽ có
trách nhiệm với nguồn vốn mà mình đã bỏ ra.
Vốn vay ngân hàng Nhà nước: Đây là nguồn vốn không thể thiếu. Thông
qua các dự án phát triển, trong những năm qua ngân hàng Nhà nước đã đầu tư
cho nhiều cơ sở kể cả khu vực quốc doanh và tư nhân, góp phần ổn định, đảm
bảo lượng chè tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên so với một số cây chè khác như
cà phê, cao su,... chè vẫn là cây được đầu tư thấp nhất.

10


Vốn dự trữ ở các doanh nghiệp : Thông qua hoạt động điều tiết ở các
doanh nghiệp đã mở ra khả năng khuyến khích các doanh nghiệp tồn tại và
phát triển.
Vốn liên doanh, hợp tác với nước ngoài: Mấy năm gần đây, Nhà nước ta
chủ trương khai thác mạnh nguồn này, thực tế đã có nhiều tổ chức, nhiều
quốc gia muốn hợp tác với Việt Nam như: WB, ADB, ACB, các công ty của
Đài Loan, Hông Kông,...
3.

Nhân tố khoa học kỹ thuật
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng của cây chè.

Nếu áp dụng khoa học kỹ thuật tốt sẽ tạo điều kiện tăng năng suất, nâng cao
chất lượng sản phẩm chè. Khả năng ứng dụng khoa học công nghệ có liên

quan tới trình độ tay nghề, những hiểu biết của người làm chè về những kỹ
thuật trong trồng, chế biến chè. Các tiến bộ kỹ thuật đó là:
Giống chè: Hiện nay ở phía Bắc có 17 giống chè, trong đó hai giống chè
chủ yếu là chè Shan Tuyết và chè trung du, còn các giống khác được nhập từ
Ấn độ, Trung Quốc. Phía Nam, ngoài các giống ở phía Bắc nhập vào còn có
các giống từ Nhật Bản. Ở Phú Hộ hiện nay đang có một tập đoàn giống gồm
60 giống thu thập từ các nước: Việt Nam, Ấn Độ, Srilanca, Trung Quốc,...
đang được khảo nghiệm, chọn lọc, thuần hoá và lai tạo. Trong thời gian tới
khả năng cung cấp giống chè tốt được đảm bảo.
Nhân giống chè: Ở Viện nghiên cứu chè bắt đầu nghiên cứu từ năm
1959, bằng các phương pháp nhân giống bằng hạt, bằng cành... Đến nay thuật
giâm cành bắt đầu hoàn thiện và bắt đầu phổ biến đến từng hộ gia đình.
Kỹ thuật canh tác: Đã có nhiều công trình nghiên cứu và tổng kết từ thực
tiến về kỹ thuật trồng chè. Để đảm bảo chống xói mòn, trồng được nhiều cây
chè đồng đều, cho năng suất cao, chất lượng tốt và vườn chè thuận lợi cho
việc đi lại phải thực hiện một loạt các biện pháp như trồng theo kiểu nông lâm
11


kết hợp, trồng theo kiểu bình độ... Về phân bón nhiều công trình nghiên cứu
và thực nghiệm đã tiến hành, nhìn chung muốn đạt năng suất chè 5 tấn/ha chè
búp tươi cần bón theo đúng quy cách, ngoài phân chuồng, phân xanh cũng
được tăng cường.
Kỹ thuật chế biến: Trên cơ sở kinh nghiệm đã tích luỹ được trong nhiều
năm sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè, ngành chè nước ta đã rút ra được
những thế mạnh và tồn tại chủ yếu trong khâu chế biến chè. Mặt khác trong
những năm gần đây, nhiều tổ chức, công ty liên doanh nước ngoài đã sẵn sàng
ký kết hợp đồng với ta không chỉ ở vốn đầu tư cho các nhà máy mà còn cả
quy trình công nghệ tiên tiến, bao gồm cả hướng dẫn kỹ thuật, bao tiêu sản
phẩm ... Như vậy, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật của nước ta trong chế

biến biến sản phẩm chè không có gì trở ngại.
4.

Hệ thống chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Để việc phát triển sản xuất chè đạt được mục tiêu mà ngành chè đã đặt ra

thì cần phải có một hệ thống các chính sách hỗ trợ phát triển chè. Như vậy
yếu tố chính sách là yếu tố không thể thiếu được trong phát triển sản xuất chè
ở Việt Nam. Thực tế cho thấy rằng những nước phát triển chưa ban hành các
chính sách tương xứng với vai trò và tiềm năng của cây chè. Nếu các chính
sách này chỉ tập trung chú trọng đến mặt cầu tức là chú trọng đến việc trồng
và chế biến chè mà không có các chính sách thúc đẩy thị trường tiêu thụ thì
sau một thời gian sẽ không tìm được đầu ra cho sản phẩm và do đó ngành chè
sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, khi tiến hành phát triển sản xuất chè Nhà nước
cần ban hành một hệ thống chính sách hỗ trợ cần thiết cho việc phát triển chè.
Sau đây là một số chính sách tiêu biểu:
Chính sách ruộng đất: Ở nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị,
ruộng đất được giao quyền sử dụng lâu dài cho nhân dân (10-20) năm. Bởi
vậy đây là yếu tố quan trọng làm cho người dân yên tâm sản xuất.

12


Ở các đơn vị quốc doanh, nhiều đơn vị đã chia đất, khoán vườn chè cho
công nhân. Ở nông trường 28/3 giao cho mỗi lao động 0,65-1,7 ha với nhiệm
vụ bảo đảm sản lượng theo mức khoán, giao nộp cho nông trường theo giá
thoả thuận. Phía nông trường ngoài việc cung ứng vật tư cho công nhân, còn
cử các cán bộ hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho họ... Một số nông trường vẫn
thừa đất cũng giao khoán cho dân làm, cũng theo chế độ như công nhân Nhà
nước, không phải đóng chi phí bảo hiểm xã hội, nhưng phải nộp thêm 2% sản

lượng để xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng.
Chính sách thuế: Thuế nông nghiệp hiện nay đang phổ biến thực hiện
nộp theo sản lượng từng hạng quỹ đất như luật thuế sử dụng đất đai do Nhà
nước ban hành. Ở các cơ sở ngoài quốc doanh, ngoài thuế nông nghiệp người
công nhân còn phải trích nộp các khoản chi phí như chi phí quản lý, chi phí
khấu hao vườn chè, quỹ bảo hiểm xã hội,...
Các hộ nông dân trồng chè, ngoài thuế nông nghiệp họ cũng phải đóng
các khoản như quản lý phí, bảo vệ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng công
cộng... Ngoài ra còn có các loại thuế khác như thuế xuất khẩu, thuế doanh
thu,... trong chế biến và tiêu thụ.
Chính sách đầu tư: Nhà nước đã có chủ trương đúng đắn căn cứ vào quy
hoạch phát triển sản xuất nông lâm ngư ngiệp mà có chính sách đầu tư cho
hợp lý cho từng hộ gia đình, khuyến khích họ phát triển sản xuất. Tuy nhiên
trên thực tế, các vùng trồng chè là những vùng sâu, vùng xa miền núi nên Nhà
nước cần ưu tiên mới thu hút được lao động và tiền vốn trong dân để phát
triển loại cây trồng này.
5.

Hệ thống cơ sở hạ tầng
Kết cấu hạ tầng cơ sở là toàn bộ các công trình và trang thiết bị của quá

trình tái sản xuất xã hội, được tổ chức cân đối và liên kết với nhau trong
không gian. Chúng phục vụ cho những nhu cầu cung cấp và dịch vụ của nhân
dân, của bộ máy hành chính và các cơ sở sản xuất. Tính ổn định tương đối
13


cao, sự liên kết với các hoạt động kinh tế trong vùng và tuổi thọ tương đối dài
của các công trình và mạng lưới của cơ sở hạ tầng đã làm cho chúng trở thành
yếu tố có ảnh hưởng lớn tới quá trình sản xuất. Đối với ngành chè, mạng lưới

cơ sở hạ tầng là điều kiện sản xuất và tiêu dùng cho người dân trong vùng
trồng chè.
Hạ tầng cơ sở cần phải được phát triển đồng bộ, bao gồm:
Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nguyên liệu: Hệ thống giao thông, thông
tin liên lạc, hệ thống điện... đang là yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ phát triển
của nhiều ngành trong đó có ngành chè. Ngoài một số vùng có đường quốc lộ
chạy qua, nằm trong lưới điện quốc gia còn phần lớn vùng nguyên liệu chè
nằm ở vùng xa xôi, hẻo lánh.
Cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến: Các cơ sở chế biến, các máy móc thiết
bị chế biến,... đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
chè. Tăng cường cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng chế biến đã có và phát triển
mới, mở rộng mạng lưới chế biến trên toàn quốc để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của sản xuất chè, dần xoá bỏ sự chênh lệch về mức sống giữa miền
núi trung du và đồng bằng.
6.

Nhân tố lao động

Nhân tố con người có vai trò quyết định trong sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội nói chung và cũng là nhân tố quan trọng trong phát triển sản xuất
chè. Lao động trong sản xuất chè bao gồm lao động trong trồng chè, lao động
chế biến và tiêu thụ. Để đạt được năng suất, chất lượng cao trong sản xuất chè
thì ngoài công nghệ chế biến hiện đại, yếu tố quan trọng hơn cả là người lao
động phải có trình độ tay nghề. Trong cả ba khâu: trồng, chế biến, tiêu thụ
đều đỏi hỏi người lao động phải có kỹ năng lao động. Hiện nay ở nước ta
trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao, tuy nhiên số lượng lao
động này lại phân bố không đều. Vì vậy ngành chè cần phải có biện pháp
phân bố lại lao động sao cho hợp lý và đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho
lao động ở các vùng trồng chè vùng sâu, vùng xa.
14



Với dân số 80 triệu người, cơ cấu dân cư trẻ và có gần 80% dân số sống
bằng nghề nông. Có thể nói nguồn nhân lực cho nông nghiệp là rất dồi dào.
Với mức độ tăng dân số như hiện nay thì bình quân mỗi năm sẽ có gần 1 triệu
nguời bước vào tuổi lao động, trong đó ở nông thôn và các tỉnh miền núi là 35
vạn nguời, số lao động dôi dư sẽ tạo ra nguồn lao động to lớn để tiến hành
khai hoang mở đất, đi xây dựng kinh tế mới, tận dụng những vùng đất còn
tiềm năng. Mặt khác, lao động nước ta nhìn chung là rẻ, lại cần cù lao động,
thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có
nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy, lực lượng này thực
sự đáp ứng yêu cầu và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển trong sản xuất và xuất
khẩu chè.
III. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM SẢN
XUẤT CHÈ CỦA MỘT SỐ NƯỚC

1.

Tình hình sản xuất chè trên thế giới
1.1. Năng suất, sản lượng, diện tích chè của một số nước trên thế

giới
Trên thế giới hiện nay có 39 nước trồng chè với diện tích 2,5 triệu ha
và sản xuất lượng hàng năm biến động trên dưới 2 triệu tấn. Năng suất bình
quân chưa vượt quá 4 tấn/ha. Nước có sản lượng cao nhất hiện nay là Ấn Độ
với sản lượng bình quân trong 3 năm 2000-2002 là 870 nghìn tấn chè khô.
Đây cũng là nước có tốc độ tăng cao nhất thế giới là 150% trong vòng từ năm
1989-1995. Kế tiếp đó là Trung Quốc 630 nghìn tấn, Srilanca 320 nghìn tấn.
Năm nước có diện tích trồng lớn nhất là Trung quốc, Ấn độ, Srilanca, Thổ nhĩ
kỳ và Indonesia đã chiếm 75% diện tích chè trên thế giới, nước nhỏ nhất trong

làng chè là Camơrun chỉ trồng 1000 ha với mức tăng trưởng 3% năm. Do áp
dụng tiến bộ kỹ thuật mới cũng như giống mới và mật độ trồng dày nên đã có
hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt đến 2 tấn/ha. Đứng đầu nhóm
các nước có năng suất chè cao đó là Kênya với năng suất 2,1 tấn chè khô/ha,
tiếp đó là Ấn Độ 1,8 tấn/ha, Srilanca 1,4 tấn/ha.
Diện tích chè trên thế giới biến động bởi vì chỉ có những nước có điều
kiện thiên nhiên ưu đãi mới có thể trồng và phát triển được cây chè. Về phân
15


bố diện tích thì 12 nước châu Á chiếm khoảng 88%, châu Phi là 8% (12 nước)
và Nam Mỹ chiếm 4% (4 nước). Như vậy chè chủ yếu được trồng ở châu Á
và đây là cái nôi phát triển của cây chè với mọi điều kiện đất đai, khí hậu phù
hợp với sinh trưởng của cây chè.
1.2. Diễn biến cung-cầu
Cung: Năm 2002 sản lượng chè thế giới ước đạt 2,132 triệu tấn, tăng
1,5% (tương đương 32 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm 2001, trong đó nhóm
nước sản xuất và xuất khẩu chè chủ yếu tăng khoảng 20 nghìn tấn và nhóm
các nước khác tăng khoảng 12 nghìn tấn. Thị trường cung chè vẫn tiếp tục tập
trung vào một số nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Srilanca, Kênya, Trung Quốc,
Inđônêsia. Riêng 5 nước này đã chiếm trên 85% sản lượng chè thế giới.
Cầu: Năm 2002, mức tiêu thụ chè trên thế giới đạt 2,072 triệu tấn, tăng
2,4% (tương đương 49 nghìn tấn) so với năm 2001, trong đó nhóm 5 nước
tiêu thụ chủ yếu vẫn là Ấn Độ, Anh, Pakistan, CIS và Hoa Kỳ (chiếm khoảng
58,5% tổng mức tiêu thụ trên thế giới) tăng 5 nghìn tấn và nhóm các nước
khác giảm 1 nghìn tấn.
Giá chè trên thế giới: Từ năm 1997 trở lại đây có xu hướng cung vượt
quá cầu. Số lượng chè xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. Các nước nhập khẩu lớn
đều giảm số lượng chè đen nhập khẩu. Do cung có xu hướng vượt cầu nên giá
bình quân tính theo đồng USD ở hầu hết các thị trường đấu giá đều giảm một

cách đáng kể từ năm 1998.
2.

Kinh nghiệm của một số nước sản xuất chè trên thế giới
Trên thế giới chỉ có khoảng hơn 30 nước là có điều kiện tự nhiên thích

hợp để trồng chè trong khi đó hầu hết các quốc gia trên thế giới đều dùng chè
với mức độ khác nhau. Các nước trồng chè đã tận dụng ưu thế đó để phát
triển sản xuất, có những nước xem chè là cây trồng chính của đất nước như
Kênya, Ấn Độ...
Sau đây là kinh nghiệm sản xuất chè của một số nước trên thế giới.
16


Trung Quốc: Là nước phát hiện và sử dụng chè sớm nhất trên thế giới.
Chè trở thành thứ nước uống giải khát phổ thông trong mọi tầng lớp nhân dân
và được coi là 1 trong 7 thành phẩm quan trọng của đời sống nhân dân Trung
Hoa.
Trung Quốc là nước có điều kiện tự nhiên rất phù hợp với sản xuất chè,
tận dụng lợi thế này, Trung Quốc xây dựng các vùng chè nguyên liệu, đa dạng
hoá các giống chè có năng suất và chất lượng cao. Xây dựng các nghiên cứu
chè cả nước, xây dựng các trường đại học và cơ sở nghiên cứu ở các tỉnh.
Xuất bản các tạp chí, sách tham khảo và phổ biến tài liệu khoa học kỹ thuật
trồng và chế biến chè. Đặc biệt Trung Quốc rất chú trọng phát triển văn hoá
trà: xây dựng các nhà bảo tàng văn hoá, biên soạn các tác phẩm về trà, tổ chức
các lễ hội văn hoá trà, trà sử, trà pháp... Điều này đã thu hút nhiều du khách
và nâng cao được vị thế của chè Trung Quốc trên thị trường thế giới.
Ấn Độ: Đây cũng là nước có truyền thống lâu đời về phát triển chè, có
hai vùng sản xuất chè nguyên liệu lớn là vùng Assam và vùng chè Kêrala.
Các vùng chè này rất quan tâm đến việc phát triển khoa học kỹ thuật tập trung

tại các trạm nghiên cứu chè Tocklai, UPASI, xuất bản các tạp chí nghiên cứu
về chè. Ngoài ra, Ấn Độ còn thành lập các trung tâm đấu giá chè lớn trên toàn
quốc như: Calcuta, Guwahati, Siliguri,...
Kênya: Kênya là nước sản xuất chè còn non trẻ mới trỗi dậy trong thế
kỷ XX. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ 1903 đến 1990, đã phát triển
nhanh chóng, đạt chất lượng tốt với giá bán cao. Sở dĩ có được thành công
này ngoài yếu tố điều kiện tự nhiên thuận lợi, ngành chè Kênya đã áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiến tiến trên thế giới vào sản xuất chè đó là
quy trình sản xuất chè đen CTC. Ngoài ra Chính phủ Kênya còn đưa ra các
chính sách khuyến khích phát triển ở cả ba thành phần kinh tế, nhất là công
tác nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật. Các viện nghiên cứu chè đã

17


được thành lập, có các bộ môn nghiên cứu thực vật học, hoá học môi trường
sinh thái, công nghệ chế biến...
Nga: Nga là một nước sản xuất chè lớn và cũng là một trong những
nước tiêu thụ chè lớn nhất thế giới hiện nay. Ngành chè ở Nga rất chú trọng
phát triển khoa học kỹ thuật đặc biệt ở khâu trồng chè. Người ta trồng chè
theo từng hàng, khoảng cách giữa các hàng là 1,5-1,75 cm, khoảng cách giữa
các cây là 0,35 cm, lượng hạt giống dùng cho 1 ha là 150 kg. Khi phân chia
lô chè người ta đặc biệt chú ý tới độ thẳng của từng hàng chè và san phẳng
mặt đất giữa các hàng chè để khi cơ giới hoá thì quá trình như đốn chè, thu
hoạch búp và các quá trình canh tác khác không bị sai lệch khi làm việc
Nhật Bản: Nhật Bản vốn là nước sản xuất và xuất khẩu chè xanh lâu
đời trên thế giới. Nhật Bản là nước trồng chè có nền kinh tế phát triển, do đó
giá nhân công cao thêm vào đó là khả năng công nghệ cao nên họ chủ yếu
tiến hành cơ giới hoá trên đồi chè. Nhà nước coi trọng đầu tư vào nông nghiệp
ở khâu giống tốt và các biện pháp quản lý chăm bón vườn chè bằng hoá chất.

Nhà nước ban hành chế độ khen thưởng và đăng ký giống chè nên đã thông
qua được trên 60 giống chè mới. Vườn chè có năng suất 18 tấn búp/ha phải
tuân theo quy trình bón nghiêm ngặt: N 540 kg, P 2O5 180 kg, K2O 270 kg, bón
nhiều lần. Sử dụng cơ khí nhỏ trong công tác chăm sóc.
Hầu hết các nước sản xuất chè chính trên thế giới như Ấn Độ đều là
những nước đang phát triển. Việc phát triển ngoài mục đích đem về cho đất
nước một nguồn ngoại tệ lớn mà nó còn giúp thực hiện các mục đích xã hội
khác. Những nước này mở rộng sản xuất dựa vào lực lượng lao động nông
thôn dồi dào, giá nhân công rẻ. Tuy vậy do coi trọng phát triển chè họ cũng
đầu tư vào công nghệ chế biến cho năng suất cao, chất lượng tốt, từ đó nâng
cao giá thành và uy tín sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới.

18


Chương II

THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHÈ Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM QUA
I.

TRỒNG CHÈ

1.

Địa bàn phân bố cây chè
Hiện nay, cả nước có 33 tỉnh trồng chè với diện tích năm 2002 là

100.061 ha chia thành 4 vùng trồng chè lớn theo bảng sau đây:
Bảng 1: Các vùng trồng chè ở Việt Nam (số liệu năm 2002)

Vùng

% so với cả

Số tỉnh trồng chè

Diện tích (ha)

Cả nước
Vùng Trung du

33
14

100.061
63.964

nước
100
63,9

Miền núi Bắc Bộ
Vùng Đồng bằng

6

3.778

3,8


sông Hồng
Vùng Duyên hải

9

8.997

9,0

Miền Trung
Vùng Tây Nguyên

4

23.322

23,3

*Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê
Từ bảng trên cho thấy, chè được trồng chủ yếu ở vùng Trung du Miền
núi Bắc Bộ. Đây là vùng chiếm ưu thế về diện tích, sản lượng và chất lượng
so với các vùng chè khác trong cả nước. Tại đây đã hình thành nhiều sản
phẩm chè đặc sản truyền thống nổi tiếng như chè Tà Sùa, chè Shan Tuyết, chè
Suối Giàng, chè Tân Cương... Hiện đang trồng thử nghiệm nhiều giống chè
nhập của Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ có chất lượng cao. Đây là
vùng có nhiều lợi thế sản xuất chè so với các vùng khác về điều kiện khí hậu,
địa hình, đất đai, kinh nghiệm trồng và chế biến chè.
19



Đứng thứ hai về diện tích là vùng Tây Nguyên bao gồm các tỉnh: Kon
Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Năm 1995 diện tích chè cả vùng là
15.217 ha nhưng đến năm 2002 tổng diện tích là 23.332 ha chiếm 23,3% so
với cả nước sau một thời gian dài trồng thử nghiệm chè ở tỉnh Lâm Đồng mà
trung tâm là hai huyện Bảo Lộc và Di Linh.
Trong 33 tỉnh trồng chè, có 9 tỉnh được ngành chè xếp vào các tỉnh trọng
điểm trồng chè về diện tích, sản lượng, chất lượng, khả năng áp dụng khoa
học kỹ thuật cũng như công nghệ chế biến chè. Tổng diện tích chè của 9 tỉnh
này đạt 80.754 ha, chiếm 80,7% diện tích chè toàn quốc. Dưới đây là diện tích
trồng chè năm 2002 của 9 tỉnh trọng điểm:
Tỉnh Lai Châu: 2.342 ha.
Tỉnh Sơn La: 3.205 ha.
Tỉnh Thái Nguyên: 13.358 ha.
Tỉnh Hà Giang: 12.356 ha.
Tỉnh Tuyên Quang : 4.177 ha.
Tỉnh Lào Cai: 3.545 ha.
Tỉnh Yên Bái: 11.4.7 ha.
Tỉnh Phú Thọ: 8.437 ha.
Tỉnh Lâm Đồng: 22.018 ha.
Trong 9 tỉnh trên thì có 8 tỉnh thuộc vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ và
1 tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên. Trong đó 5/9 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha,
Lâm Đồng là tỉnh có diện tích chè lớn nhất nước (22.018 ha), chiếm 22% tổng
diện tích chè năm 2002.

20


2.

Diện tích, năng suất, sản lượng chè cả nước.

Chè là cây công nghiệp lâu năm phát triển không bột phát như những cây

công nghiệp lâu năm khác như cây cà phê, cao su, hồ tiêu, cây chè phát triển
ổn định và vững chắc. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Quá trình phát triển cây chè thời kỳ 1995-2002
Năm

1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002

Diện tích
Chỉ số phát
Nghìn ha
triển so với
năm trước
66,7
99,1
74,8
112,1
78,6
105,1
77,4
98,5
84,8

109,6
89,9
106,0
92,3
102,7
100,1
108,5

Sản lượng
Chỉ số phát
Nghìn tấn
triển so với
búp khô
năm trước
40,2
95,7
46,8
116,4
52,2
115,5
56,6
108,4
70,3
124,2
78,9
112,2
80,0
101,1
85,6
107,5


*Nguồn: Tổng cục thống kê, Tổng công ty Chè Việt Nam
Đặc biệt từ khi có quyết định số 43/1999/QĐ-TTg ngày 10/3/1999 của
Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch sản xuất chè năm 1999-2000 và định
hướng phát triển chè đến năm 2005-2010 thì ngành chè Việt Nam đã có buớc
phát triển quan trọng.
Trong 3 năm 2000-2002, diện tích và sản lượng chè đều tăng nhanh.
Năm 2002 diện tích chè cả nước đạt 100.061 ha, trong đó diện tích chè kinh
doanh là 77.541 ha. Trong năm này cả nước trồng mới được hơn 10 nghìn ha
chè, trong đó các tỉnh có diện tích trồng mới lớn là Lâm Đồng 1.500ha, Hà
Giang 1.448 ha, Lào Cai 1.045 ha, Yên Bái 1.028 ha, Thái Nguyên 833 ha,
Nghệ An 750 ha, Sơn La 600 ha, Phú Thọ 544 ha. Dưới đây là số liệu sản
xuất chè trong 2 năm 2000 và 2002

21


Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng chè Việt Nam
qua 2 năm 2000, 2002
Đơn vị:Diện tích: ha, năng suất: tấn/ha, sản lượng: nghìn tấn

Vùng
Cả
nước
Tr. đó:
9 tỉnh
trọng
điểm
Trung
du

Miền
núi Bắc
Bộ
Đồng
bằng
sông
Hồng
Duyên
hải
Miền
Trung
Tây
Nguyên

Năm 2000
Diện
tích
Năng
kinh
suất
doanh
71.587
4,96

89.942
72.666

4.646

58.121


5,33

309.860

90.660

8.266

62.890

5,34

355.561

56.566

4.692

43.608

4,72

205.719

63.964

7.398

46.580


4,85

225.732

3.588

50

3.198

3,11

9.934

3.778

190

3.536

3,13

11.080

8.067

897

5.466


3,75

20.517

8.997

930

5.768

3,77

21.771

21.721

78

19.315

6,16

118.910

23.322

1.061

21.657


5,85

126.668

Diện
tích

Sản
lượng

Diện
tích

355.080

100.061

Diện
tích
trồng
mới
10.119

Năm 2002
Diện
tích
Năng
kinh
suất

doanh
77.541 4,97

Diện
tích
trồng
mới
5.699

Sản
lượng
385.251

*Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê
Qua bảng số liệu trên ta thấy :
Vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ : Đây là vùng có quy mô lớn nhất cả
nước, năm 1995 diện tích của cả vùng là 42.270 ha chiếm 63,4% diện tích cả
nước, trong đó chè kinh doanh là 32.614 ha chiếm 61,5% tổng diện tích chè
kinh doanh của cả nước, năng suất bình quân đạt 3,4 tấn/ha. Tính đến năm
2000 cả vùng có diện tích trồng chè là 56.566 ha chiếm 62,89% diện tích cả
nước (trong đó chè kinh doanh là 43.608 ha). Năng suất bình quân cả vùng
năm 2000 đạt 4,72 tấn/ha, các tỉnh có năng suất bình quân cao như Tuyên
Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình đều đạt
22


trên 5 tấn/ ha. Nói chung năng suất vùng này rất cao và đồng đều. Theo kết
quả điều tra năm 1995, số diện tích đạt trên 5 tấn/ha chiếm 30,2% và dưới 2
tấn/ha chiếm khoảng 21,3% toàn vùng.
Vùng Đồng bằng sông Hồng: Do điều kiện địa hình, đất đai, thiên nhiên

đây không phải là vùng có thế mạnh về chè. Vì vậy chè được trồng trên một
số địa hình bán sơn địa: Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình và một số nơi khác
nhưng diện tích không đáng kể. Tính đến năm 1995, tổng diện tích chè toàn
vùng là 1.862 ha (chiếm 2,4% tổng diện tích cả nước), tổng sản lượng chè búp
tươi là 7.034 tấn (chiếm 3,9% cả nước). Đến năm 2000, tổng diện tích chè
trong vùng đã tăng lên 3.588 ha chiếm 3.8% tổng diện tích cả nước, sản lượng
chè búp tươi là 9.934 tấn, năng suất bình quân đạt 3,2 tấn/ha, trong đó chủ
yếu là Hà Tây chiếm 70% diện tích trồng chè toàn vùng.
Riêng Hải Dương có 8 ha chè thuộc nông trường Chí Linh, có năng suất
đạt trên 4,5 tấn/ha . Còn ở Hà Tây chè được trồng nhiều nhất ở Ba Vì nhưng
co tới 39,7% diện tích có năng suất dưới 2 tấn/ha.
Vùng Duyên hải Miền Trung: Đây là một trong những vùng có lịch sử
sản xuất chè sớm nhất ở nước ta. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều vùng sản xuất chè
được hình thành ở Quảng Nam, các trung tâm chính như: Đà Nẵng khoảng
500 ha, Duy Xuyên 400 ha, Tam Kỳ 100 ha. Dần dần mở rộng ra các vùng
khác như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Trị.
Tính đến năm 1995, diện tích chè toàn vùng là 7.381 ha, đến năm 2000
diện tích đã tăng lên 8.067 ha chiếm 9% diện tích chè cả nước, năng suất
trung bình đạt 3,75 tấn/ha. Toàn vùng có 4 nông trường quốc doanh: Bình
Định có 2 nông trường là Hoài Ân và Vĩnh Thanh, Quảng Ngãi có nông
trường Bình Khương và Quảng Nam có nông trường Quyết Thắng.
Vùng Tây Nguyên: Năm 1995 diện tích chè cả vùng đạt 15.217 ha nhưng
đến năm 2000 lên tới 21.721 ha chiếm 24,2% diện tích chè cả nước, năng suất
23


bình quân 6,16 tấn/ha. Đến năm 2002 diện tích chè vùng đạt 23.322 ha, năng
suất 5,85 tấn/ha, sản lượng cả năm đạt 126.168 tấn.
Như vậy, so với những mục tiêu mà ngành chè đặt ra năm 1995 thì diện
tích chè cả nước đạt 108,6% (số liệu dự kiến diện tích chè năm 2000 là 82,9

nghìn ha, số liệu thực tế đạt 90,0 ha). Về sản lượng năm 2000 thực tế đạt
355.080 tấn chè búp tươi, so với dự kiến của phương án quy hoạch chè năm
1995 là 103,5% (mục tiêu dự kiến là 342.960 tấn). Riêng vùng Trung du Miền
núi Bắc Bộ so với mục tiêu đặt ra thì năm 2000 đạt 113% về diện tích và 95%
về sản lượng. Về năng suất , năm 2000, bình quân chung cả nước đạt 49,6
tạ/ha bằng 95% năng suất dự kiến trong phương án quy hoạch năm 1995.
Nhịp độ tăng năng suất chè bình quân giai đoạn 1997-2002 đạt 8,8%/năm.
Nhìn chung chúng ta đã thực hiện được hầu hết các mục tiêu đề ra năm 1995
cho giai đoạn 1995-2000 và cho 2 năm 2002, 2002, mức độ sai khác chỉ
khoảng 5%. Đến năm 2002, cả nước trồng mới trên 10.000 ha chè nên đã đưa
tổng diện tích chè lên 100.061 ha bằng 103,8% diện tích dự kiến vào năm
2010 của quy hoạch chè năm 1995. Một số tỉnh có diện tích năm 2002 vượt
con số dự kiến vào năm 2010 do Tổng công ty chè Việt Nam xây dựng vào
năm 1999 như Hà Giang có 12 nghìn ha (so với dự kiến là 9 nghìn ha), Yên
Bái có 11 nghìn ha (dự kiến 8,5 nghìn), Thái Nguyên có 13,3 nghìn ha (dự
kiến là 12 nghìn ha).
Năm 2002, tổng sản lượng chè búp tươi đạt trên 385 nghìn tấn tương
đương 85,6 nghìn tấn búp khô trong đó xuất khẩu 53 nghìn tấn đạt 54 triệu
USD, hầu hết được thục hiện bởi các thành viên của hiệp hội chè Việt Nam.
Nhịp độ tăng năng suất giai đoạn 1998-2002 bình quân đạt 12,2%/năm. Công
ty Chè Mộc Châu có năng suất bình quân cao nhất nước đạt 14,5 triệu tấn vào
năm 2001. Năm 2002, năng suất bình quân đạt 16 tấn/ha, đặc biệt có vườn
chè đạt năng suất 20-25 tấn/ha. Tổng sản lượng của các công ty thuộc Tổng
công ty Chè đạt trên 45 nghìn tấn, tương đương 10 nghìn tấn búp khô.
24


3.

Hiện trạng giống chè Việt Nam

3.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu giống chè
Hiện nay tổng diện tích chè cả nước ta hiện có hơn 100 nghìn ha, cơ cấu

giống chè bao gồm: giống chè Trung du chiếm 62,7%, giống chè Shan Tuyết
chiếm 31,1%, giống chè cành nhập nội là 5,5%, còn lại là giống khác chiếm
0,7%. Cơ cấu chè đã có sự thay đổi nếu ta so sánh với năm 1992: giống Trung
Du chiếm 70,9%, giống Shan Tuyết chiếm 27,3%, các giống khác là 1,8%.
Nhìn chung giống chè Trung Du vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, phân bố chủ
yếu ở các tỉnh trung du và vùng núi thấp như Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái
Nguyên, Yên Bái, các tỉnh khu 4 cũ. Tiếp đến là giống chè Shan Tuyết phân
bố ở các tỉnh vùng cao trên 500 m so với mực nước biển như Hà Giang, Lai
Châu, Sơn La, Yên Bái, Lâm Đồng. Số còn lại là chè cành được trồng ở vùng
thấp được tuyển chọn nhập nội như PH1, TRI777, Bát Tiên, Kim Huyên, Vân
Sương, Yabukita, giống lai LD1, LD2.
Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu chè nước ta vẫn diễn ra chậm.
Nguyên nhân là tâm lý người trồng chè vẫn giữ cách trồng chè bằng hạt, vì
nếu chuyển sang cách trồng chè mới bằng cành thì chi phí đầu tư cao gấp 4
lần so với cách trồng cũ, trong khi trồng chè bằng cành đòi hỏi phải tuân theo
một quy trình nghiêm ngặt. Mặt khác, các giống chè mới đang trong giai đoạn
thử nghiệm nên chưa thể phổ biến đến các vùng trong cả nước.
3.2. Chất lượng các giống chè Việt Nam
Thực tế trồng chè cho thấy hai giống chè Trung du và Shan Tuyết là hai
nhóm giống chè chiếm tỷ trọng lớn nhất và đại diện cho hai mức địa hình, tuy
nhiên năng suất và chất lượng của hai giống chè này không cao. Giống Trung
du trồng bằng hạt lấy ngay từ nương chè để sản xuất đại trà, không được chọn
lọc từ giống đầu dòng nên sinh trưởng không đều, năng suất thấp, nguyên liệu
không đồng đều, chất lượng kém hương. Giống Shan Tuyết chưa được tuyển
chọn theo quy trình chuẩn, chất lượng kém.
25



×