i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin
và số liệu nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung
thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Người cam đoan
Lê Thị Hà An
ii
MỤC LỤC
iii
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Viết tắt
Diễn giải
BCTC
CBTD
DN
DNNVV
DPRRTD
KH
NHNN
NHTM
QĐ
RRTD
SEABANK CHI NHÁNH HBT
TCTD
TMCP
XHTD
Báo cáo tài chính
Cán bộ tín dụng
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Dự phòng rủi ro tín dụng
Khách hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Quyết định
Rủi ro tín dụng
SeABank chi nhánh Hai Bà Trưng
Tổ chức tín dụng
Thương mại cổ phần
Xếp hạng tín dụng
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng.................Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.2: quy trình quản trị rủi ro tín dụng...Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức...................................Error: Reference source not found
iv
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV của World Bank..Error: Reference source
not found
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNNVV tại một số quốc gia.........Error: Reference
source not found
Bảng 1.3: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp......Error: Reference source not found
Bảng 2.1: Kết quả nguồn vốn huy động vốn giai đoạn 2011 – 2014...........Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu hoạt động tín dụng tại NH SeABank chi nhánh HBT
giai đoạn 2011-2014...........................................Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Dư nợ cho vay DNNVV của SeABank Hai Bà Trưng ...............Error:
Reference source not found
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV theo thời hạn.Error: Reference source
not found
Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV theo loại tiền. Error: Reference source
not found
Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn của SeABank HBT Error: Reference source not
found
Bảng 2.7: Tình hình phân loại nợ đối với DNNVV. . .Error: Reference source not
found
Bảng 2.8: Tình hình nợ xấu trong cho vay DNNVV..Error: Reference source not
found
Bảng 2.9: Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV theo ngành nghề kinh doanh. . .Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.1: Tình hình huy động vốn và dư nợ giai đoạn 2011-2014.........Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Tình hình dư nợ cho vay DNNVV.........Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.3: Tỉ trọng nợ các nhóm đối với DNNVV (%) Error: Reference source
not found
v
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ nợ xấu trong cho vay DNNVV (%)....Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu dư nợ theo ngành nghề kinh doanh Error: Reference source
not found
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đặc trưng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là tỉ trọng thu nhập
và rủi ro từ hoạt động tín dụng chiếm trên 70% trong tổng thu nhập hoạt động của
của ngân hàng. Đặc biệt trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế đang phát
triển nhanh chóng, hoạt động tín dụng gia tăng mạnh mẽ thì rủi ro tín dụng càng
phức tạp hơn về nguyên nhân, hình thức và phạm vi hoạt động.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng không
nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam và các NHTM cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng
nói trên. Từ đó, tỷ lệ nợ xấu trong những năm gần đây ngày càng tăng cao. Từ đó,
đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng và
hạn chế đến mức thấp nhất có thể những nguy cơ gây nên rủi ro.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam theo thống kê, chiếm tới 95-97% tổng
các doanh nghiệp trong cả nước. Trong những năm qua, hệ thống các DNNVV phát
triển năng động, mạnh mẽ cả về chất lẫn về lượng, đóng góp ngày càng to lớn cho
nền kinh tế quốc dân. Đây là loại hình doanh nghiệp đang được Nhà nước đặc biệt
quan tâm, tạo điều kiện phát triển
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) là một trong nhóm dẫn đầu ngân
hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam về quy mô vốn điều lệ, mạng lưới hoạt
động, mức độ nhận biết thương hiệu và tốc độ tăng trưởng ổn định. Với mục tiêu
xây dựng và phát triển Ngân hàng SeABank trở thành ngân hàng bán lẻ tốt nhất tại
Việt Nam, hoạt động cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đang ngày càng nhận được
nhiều quan tâm. Đi cùng với mục tiêu tăng trưởng phát triển bền vững, hiệu quả, an
toàn và sức mạnh, Ngân hàng SeABank xác định hoạt động kiểm soát tuân thủ về
quản trị rủi ro, nhất là quản trị rủi ro tín dụng là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt trong quá trình hoạt động. Vấn đề tăng trưởng bền vững của ngân
hàng SeABank đã và đang được đặt ra hàng đầu trong công cuộc đổi mới, hội nhập
và đặc biệt là trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Sau thời gian làm
2
việc và nghiên cứu cùng với việc tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại Ngân hàng
TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hai Bà Trưng, nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài : “Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) – Chi nhánh
Hai Bà Trưng”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tín dụng của ngân hàng đối với hệ
thống DNNVV trên nhiều khía cạnh khác nhau về các sản phẩm tín dụng, loại hình
tín dụng, hiệu quả của tín dụng ngân hàng, mức độ phụ thuộc của DNNVV vào tín
dụng ngân hàng trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
Tác giả Santiago (2008) đã thực hiện nghiên cứu về tín dụng ngân hàng,
những khó khăn trong tiếp cận tài chính và hoạt đông đầu tư của 30.897 DNNVV
tại Tây Ban Nha. Trong giai đoạn từ năm 1994 đến 2008, tín dụng ngân hàng và tín
dụng thương mại là nguồn vốn chính đối với các DNNVV tại Tây Ban Nha. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn vay ngân hàng sẽ phải quay sang tận dụng tín dụng thương mại để thực
hiện các cơ hội đầu tư. Ngược lại, các doanh nghiệp khác có thể tiếp cận nguồn vốn
vay ngân hàng dễ dàng hơn và hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn khi nền kinh
tế gặp phải các cú sốc từ phía chính sách tiền tệ và các cú sốc đặc trưng của bản
thân doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu về rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV tại Romania, tác
giả Brindusa đã chỉ ra hệ thống ngân hàng nhận định hệ thống DNNVV là nhóm
khách hàng tiềm năng. Do vậy, hệ thống ngân hàng đã triển khai việc thiết kế các
sản phẩm tín dụng đặc biệt phù hợp với nhu cầu tài chính của khu vực này. Ngoài
ra, hệ thống DNNVV còn được hưởng lợi từ sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng
thông qua những sản phẩm và dịch vụ với chi phí thấp hơn so với các nguồn vốn
khác. Tác giả đã phân tích những rủi ro trong cho vay các DNNVV, những sản
phẩm tín dụng cho DNNVV, rủi ro đi kèm và chính sách quản trị rủi ro được thực
thi tại thời điểm nghiên cứu và trong tương lại.
3
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, thời gian qua, đã có nhiều nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng
nói chung và quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay DNNVV. Dưới đây là
một số nghiên cứu điển hình gần đây.
2.2.1. Về quản trị rủi ro tín dụng
Vấn đề quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro rín dụng đối với DNNVV của
NHTM trong điều kiện kinh tế vĩ mô tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn như hiện nay là đề
tài dành được nhiều sự quan tâm trong các công trình nghiên cứu và bài báo khoa
học thời gian gần đây.
Luận án tiến sĩ “Luận cứ khoa học về xác định mô hình quản lý rủi ro tín
dụng tại hệ thống NHTM Việt Nam” (2010) của tác giả Lê Thị Huyền Diệu. Luận án
nghiên cứu lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng; các luận cứ khoa học về xác
định mô hình quản lý rủi ro tín dụng; đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng và mô hình
quản lý rủi ro tín dụng tại hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 1999- 2009; xây
dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng thích hợp với Việt Nam và đề xuất các giải
pháp, kiến nghị để vận hành mô hình quản lý rủi ro tín dụng.
Luận án tiến sĩ “Quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP Công thương Việt
Nam” (2012) của tác giả Nguyễn Đức Tú. Luận án hệ thống hóa và làm sáng tỏ về
rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và
gia tăng cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng; phân tích thực trạng quản lý rủi ro
tín dụng tại Vietinbank giai đoạn 2008 - 2011 và đề xuất các giải pháp, kiến nghị
nhắm tăng cường và quản lý rủi ro tín dụng tại Vietinbank.
Luận án tiến sĩ “Quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam” (2012)
của tác giả Nguyễn Tuấn Anh. Luận án luận giải và hệ thống hóa những vấn đề lý
luận về quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng của NHTM nói riêng;
phân tích thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNTVN giai đoạn 2007 –
2010; đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNTVN.
4
2.2.2. Về quản trị rủi ro tín dụng đối với DNNVV
Luận văn thạc sĩ “Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng đối với DNNVV tại
NHNo&PTNT khu vực Tp.HCM” (2008) của học viên Nguyễn Hồng Châu. Luận
văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro và quản trị rủi ro tín dụng đối với DNNVV;
phân tích rủi ro tín dụng, thực trạng quản trị rủi ro tín dụng đối với DNNVV tại
NHNo&PTNT khu vực Tp. HCM, từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực trạng quản trị rủi ro tín dụng đối với DNNVV tại
NHNo&PTNT khu vực Tp. HCM.
Luận văn thạc sĩ “Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay DNNVV tại
Techcombank- Chi nhánh Tp. HCM” (2007). Luận văn tổng quan những vấn đề cơ
bản về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng; đánh giá thực trạng hoạt động cho
vay và quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV tại Techcombank- Chi nhánh
Tp. HCM giai đoạn 2005- 3/2007; đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng đối với DNNVV tại Techcombank- Chi
nhánh Tp. HCM.
2.3. Khoảng trống nghiên cứu
Như vậy, các nghiên cứu nêu trên đã giải quyết cơ bản các vấn đề cơ sở lý
luận về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng; phân tích thực trạng rủi ro tín dụng
trên phạm vi cả hệ thống NHTMVN, hay một NHTM cụ thể, hoặc trong giới hạn
hoạt động cho vay DNNVV đối với một NHTM cụ thể.
Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng trong cho
vay DNNVV tại SeaBank Chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội. Những nghiên cứu về
quản trị rủi ro tín dụng đối với DNNVV nêu trên có phạm vi nghiên cứu giai đoạn
trước 2008-2009, trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đến nay đã không còn
phù hợp.
Vì vậy, đề tài luận văn không có sự trùng lặp và sẽ thực hiện trên cơ sở kế
thừa các nghiên cứu trước, đồng thời cố gắng khắc phục các khoảng trồng nghiên
cứu hiện nay.
5
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt
động cho vay DNNVV tại SeABank chi nhánh Hai Bà Trưng, đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay
DNNVV tại SeABank chi nhánh Hai Bà Trưng
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng trong cho vay DNNVV của ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV của
NHTM SeA Bank- chi nhánh Hai Bà Trưng, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế
và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trong cho
vay DNNVV tại NHTM cổ phần SeA Bank – chi nhánh Hai Bà Trưng.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng trong hoạt động cho vay DNNVV tại các ngân hàng thương mại; các giải
pháp, kiến nghị hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV.
Khách thể nghiên cứu: Ngân hàng SeABank - chi nhánh Hai Bà Trưng
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong cho
vay DNNVV tại SeABank chi nhánh HBT trong thời gian từ năm 2011 – 2014; giải
pháp, kiến nghị hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV giai đoạn
2015-2016.
6. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống kê kinh tế, phân tích,
tổng hợp, so sánh số liệu trên quan điểm của ngân hàng về quản trị rủi ro tín dụng
trong cho vay DNNVV, căn cứ trên cơ sở hoạt động thực tiễn của ngân hàng để đưa
ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay
DNNVV trước những khó khăn, thách thức ngân hàng phải đối mặt
6
7. Kết cấu của luận văn
Chuyên đề được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay doanh
nghiệp nhỏ và vừa của NHTM.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay DNNVV tại
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hai Bà Trưng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng trong cho
vay DNVVV tại SeABank Hai Bà Trưng.
7
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
CHO VAY DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NHTM
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mặc dù đã có sự thống nhất cao về vai trò và tầm quan trọng của DNNVV
trong nền kinh tế, nhưng cho đến nay, vẫn còn tồn tại nhiều định nghĩa và cách
phân loại khác nhau về DNNVV.
Theo tiêu chí phân loại của Ngân hàng thế giới (World Bank), căn cứ vào quy
mô, có thể chia DNNVV thành ba loại: doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Các tiêu chí để phân loại DNNVV của World
Bank chủ yếu dựa vào số lượng lao động bình quân, tài sản và doanh thu hàng năm
của doanh nghiệp. Ngoài ra, World Bank còn đưa thêm tiêu chí về quy mô vay
trung bình để phân loại DNNVV (Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV của World Bank
Quy mô công ty
Nhân viên
Tài sản
Doanh thu hàng năm
Siêu nhỏ
<10
<$100,000
<$100,000
Nhỏ
<50
<$3 triệu
<$3 triệu
Vừa
<300
<$15 triệu
<$15 triệu
Quy mô vay trung bình
Siêu nhỏ
<$10,000
Nhỏ
<$100,000
Vừa
<$1 triệu (<$2 triệu đối với một số quốc gia tiên tiến)
Nguồn: Tổng hợp từ World Bank
Ngoài ra, tại mỗi một quốc gia có nền kinh tế khác nhau, từng giai đoạn phát
triển kinh tế thì quan niệm về DNNVV cũng khác nhau. Chẳng hạn tại các quốc gia
thuộc khối Liên minh Châu Âu, DNNVV là những doanh nghiệp có số lượng nhân
viên dưới 250 người và doanh thu hàng năm là nhỏ hơn 50 triệu euro. Còn tại Châu
Mỹ, cụ thể là nước Mỹ thì DNNVV là những doanh nghiệp có số lượng người lao
8
động dưới 500 người (cho phần lớn hoạt động sản xuất và khai thác) và có doanh
thu hàng năm là dưới 7 triệu đô la với đa số các ngành không liên quan tới sản xuất
(dao động mức tối đa 35,5 triệu đô)
Tại Châu Á, các DNNVV tại Hong Kong được phân loại theo ngành sản xuất
và số lượng nhân viên. Theo đó, các DNNVV trong các ngành sản xuất có số nhân
viên dưới 100 người và ngành phi sản xuất có số nhân viên dưới 50 người. Bên
cạnh đó, từ góc độ là bên cung cấp dịch vụ, các ngân hàng tại Hong Kong còn đưa
ra việc phân loại dựa vào các tiêu chí như doanh thu hàng năm, mức độ tập trung tư
bản, năng lực tín dụng... (Kỉ yếu hội thảo, 2006 “Tăng cường hỗ trợ và hợp tác vì
sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ APEC”)
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNNVV tại một số quốc gia
Châu Âu
Châu Mỹ
Hoa Kỳ
Canada
Mexico
Châu Phi
Nam Phi
Châu Á
Thái Lan
HongKong
Nhân viên (người)
<250
<500 (cho phần lớn hoạt động
sản xuất và khai thác
<250
<500 trong hoạt động sản xuất
Doanh thu hàng năm
<50 triệu Euro
<7 triệu USD (đối với đa số các
ngành không liên quan tới sản xuất,
mức tối đa là 35,5 triệu đô)
<50 triệu CAD
<50 trong hoạt động dịch vụ
<200
<200 (ngành sử dụng nhiều lđ)
<100 (ngành sử dụng nhiều vốn)
<100 (ngành sản xuất)
<50 triệu ZAR
<200 triệu Bạt
<50 (ngành phi sản xuất)
Nguồn: IFC, 2009
Tại Thái Lan, việc phân loại các doanh nghiệp được đưa ra một cách chi tiết
và cụ thể hơn với sự tách biệt rõ ràng giữa các doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp
nhỏ. Các thông số quan trọng được sử dụng là số lượng nhân công, tài sản cố định
và ngành hàng kinh doanh. Theo đó, các doanh nghiệp nhỏ thuộc ngành sản xuất có
số lượng công nhân dưới 50 người, tài sản dưới 50 triệu bạt, các doanh nghiệp vừa
9
thì có số lượng công nhân từ 51-200 người và tài sản từ 50-200 triệu bạt; đối với
lĩnh vực bán buôn thì doanh nghiệp nhỏ có số lượng công nhân dưới 25 người, tài
sản dưới 50 triệu bạt, doanh nghiệp vừa có số lượng công nhân từ 26-50 người và
tài sản từ 50-200 triệu bạt...
Từ các tiêu chí phân loại DNNVV của World Bank và ở một số quốc gia trên
thế giới, chúng ta thấy rằng DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về
mặt vốn, lao động hay doanh thu. Tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của mỗi quốc
gia thì việc áp dụng các tiêu chí để xác định DNNVV có khác nhau. Tuy nhiên,
phần lớn khi xác định DNNVV, các quốc gia đã dựa chủ yếu vào các tiêu chí sau:
số lượng lao động thường xuyên; số lượng vốn góp; doanh thu hàng năm; đặc điểm
ngành nghề kinh doanh. Đây là các tiêu chí cơ bản để xác định DNNVV tại mỗi
quốc gia và cũng là những tiêu chí có tính định hướng để luận án làm rõ các tiêu chí
cụ thể khi xác định DNNVV ở Việt Nam.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả sử dụng định nghĩa DNNVV trong Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ làm cơ sở lí luận cho việc
nghiên cứu đề tài. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ về
việc trợ giúp phát triển DNNVV Việt Nam, DNNVV lại được định nghĩa:
“DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp, siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn
vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”
10
Bảng 1.3: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp
Doanh
nghiệp siêu
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
nhỏ
Số lao động
I-Nông, lâm
Tổng nguồn
vốn
10 người trở
20 tỷ đồng
xuống
trở xuống
II-Công nghiệp
10 người trở
20 tỷ đồng
và xây dựng
xuống
trở xuống
III-Thương
10 người trở
10 tỷ đồng
mại và dịch vụ
xuống
trở xuống
nghiệp và thủy
sản
Số lao động
Tổng
Số lao động
Từ trên 10
nguồn vốn
Từ trên 20
người đến
tỷ đồng đến
người đến
200 người
Từ trên 10
100 tỷ đồng
Từ trên 20
300 người
Từ trên 200
người đến
tỷ đồng đến
người đến
200 người
Từ trên 10
100 tỷ đồng
Từ trên 10
300 người
Từ trên 50
người đến
tỷ đồng đến
người đến
50 người
50 tỷ đồng
100 người
Từ trên 200
Nguồn: Tổng hợp từ Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Theo nghị định trên, DNNVV phải đáp ứng các tiêu chí sau:
- Về mặt pháp lý: phải là cơ sở kinh doanh đã đăng ký theo quy định của pháp luật
- Về quy mô: được phân thành 3 cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn
- Về vốn đăng ký: phụ thuộc vào quy mô và loại hình doanh nghiệp
- Về số lượng lao động trung bình hàng năm: phụ thuộc vào quy mô và loại
hình doanh nghiệp
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngoài những đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế, DNNVV còn có những đặc điểm riêng biệt xuất phát từ tính chất hoạt động
như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh
và tiềm lực tài chính nhỏ
11
Với lượng vốn đầu tư giới hạn và số lượng lao động tối đa là 300 người thì
quy mô của doanh nghiệp là tương đối nhỏ. Điều này mang lại một số lợi thế cho
DNNVV như khả năng dễ thành lập, dễ gia nhập thị trường, khả năng thu hồi vốn
nhanh. Những lợi thế này đã tạo điều kiện cho các DNNVV phát triển trong nhiều
ngành nghề, trên nhiều địa bàn, lấp vào các khoảng trống mà các doanh nghiệp lớn
để lại.
Tuy nhiên, do quy mô vốn nhỏ nên DNNVV bị hạn chế trong khả năng tiến
hành đầu tư vào mặt bằng, nhà xưởng, máy móc thiết bị và nguyên vật liệu. Các
DNNVV thường không đạt được lợi thế về quy mô như các doanh nghiệp lớn. Hơn
nữa, quy mô nhỏ và vấn đề minh bạch thông tin hạn chế cũng khiến cho các doanh
nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận với các nhà đầu tư để huy động vốn từ các ngân
hàng cũng như từ thị trường chứng khoán. Vì vậy, các DNNVV phụ thuộc nhiều
vào nguồn vốn phi chính thức, chiếm dụng từ đối tác và lợi nhuận giữ lại. Đối với
các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng, nguồn tài trợ này
cũng không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp do hạn chế
về thủ tục vay vốn đối với ngân hàng, phương án sản xuất kinh doanh chưa hoàn
thiện, tài sản bảo đảm chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn của ngân hàng...
Thứ hai, loại hình doanh nghiệp và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh phong phú
DNNVV hoạt động dưới nhiều loại hình doanh nghiệp như hộ kinh doanh cá
thể, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần,... trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Nhờ quy mô nhỏ, có khả năng
tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu tại trong địa phương, dễ dàng đáp
ứng được những thay đổi trong nhu cầu của thị trường nên DNNVV phát triển
nhanh chóng, là nhân tố đóng góp vào ổn định đời sống xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế
Thứ ba, chiến lược sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật và năng
lực cạnh tranh hạn chế
Nhiều DNNVV thiếu một chiến lược kinh doanh rõ ràng, phù hợp với sứ
mệnh, mục tiêu của doanh nghiệp mà đa phần chỉ xây dựng các kế hoạch sản xuất
12
kinh doanh mang tính tạm thời, ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu biến động của thị
trường. Do đó, DNNVV thường có xu hướng đi chệch ra sứ mệnh và mục tiêu đề ra
ban đầu và thiếu sự điều chỉnh kịp thời và hợp lý.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, đầu tư vào khoa học
kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tiết kiệm chi phí trở thành điều
kiện cốt lõi để giúp bất kỳ một doanh nghiệp nào nâng cao năng lực canh tranh. Đối
với DNNVV, do quy mô vốn bị hạn chế nên việc đầu tư nâng cấp, đổi mới các máy
móc thiết bị, quy trình sản xuất thường không được thường xuyên nên dẫn tới xu
hướng rơi vào tình trạng công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém. Hệ quả là các
DNNVV thường sử dụng công nghệ lạc hậu, chi phí sản xuất cao, thiếu kinh
nghiệm và trình độ trong nắm bắt thông tin thị trường cũng như marketing sản
phẩm, dịch vụ.
Thứ tư, bộ máy điều hành gọn nhẹ, có tính linh hoạt cao những năng lực quản
trị chưa cao.
Với số lượng lao động không nhiều, cơ cấu tổ chức sản xuất cũng như bộ máy
quản lý trong các DNNVV tương đối gọn, không có quá nhiều các khâu trung gian.
Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; các quyết định, các chỉ
tiêu... đến với người lao động một các nhanh chóng, tiết kiệm chi phí quản lý trực
tiếp nên các quyết định thường được đưa ra nhanh chóng, nhạy bén với những thay
đổi trong môi trường kinh doanh.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế
Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo công ăn việc làm cho người lao động,
góp phần giảm thất nghiệp. Do các DNNVV tham gia kinh doanh ở tất cả các
ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế với đa dạng các sản phẩm nên có thể đảm bảo
cơ hội việc làm cho nhiều đối tượng lao động ở nhiều vùng miền khác nhau. Mặt
khác, do đặc điểm sản xuất kinh doanh không yêu cầu trình độ cao nên có thể sử
dụng được cả lao động ở các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa kinh tế chưa phát triển.
Đặc biệt khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái, trong khi các doanh nghiệp lớn
thường phải sa thải nhân công để cắt giảm chi phí thì các DNNVV, với tính chất
linh hoạt và năng động của mình, có thể thích ứng nhanh với sự biến động của thị
13
trường, có thể đứng vững mà không phải cắt giảm nhân công, hoặc có thể nhanh
chóng thu hút lại lực lượng lao động khi nền kinh tế đi vào chu kì phục hồi.
Thứ hai, doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ở hầu hết các nền kinh tế, các DNNVV là những
nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các
thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì vậy, DNNVV được xem như
thanh giảm sốc cho nền kinh tế trước những biến động lớn. Với lợi thế về vốn đầu
tư ít và nguồn lao động dồi dào, trong những năm qua, DNNVV phát trển ngày
càng nhanh và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng số doanh nghiệp. DNNVV
cung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn, đáp ứng được mọi nhu cầu của người tiêu
dùng, từ đó thúc đẩy sức tiêu thụ của nền kinh tế. Vì thế mức độ đóng góp của các
DNNVV vào tổng sản lượng của nền kinh tế rất lớn
Thứ ba, doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác và phát huy các nguồn lực địa
phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế bao giờ cũng có
những vùng sâu, vùng xa, là những vùng kém phát triển, có điều kiện tự nhiên
không thuận lợi hoặc cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Nếu nền kinh tế chỉ tồn tại các
doanh nghiệp lớn có xu hướng tập trung ở các thành phố, thị xã, các khu công
nghiệp mà thiếu đi các doanh nghiệp nhỏ thì sẽ xảy ra tình trạng phát triển mất cân
đối giữa các vùng miền, không tận dụng hết nguồn tài nguyên quốc gia, làm giảm
hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Trong khi đó, với quy mô vốn đầu tư nhỏ, bộ
máy tổ chức gọn nhẹ, dễ khởi sự, các DNNVV có thể tham gia vào nhiều thị trường
nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh về đất đai, tài nguyên và lao động của từng
vùng, đặc biệt là các ngành nông-lâm-hải sản và ngành công nghiệp chế biến.
DNNVV cũng chính là chủ thể tác động tích cực nhất vào việc duy trì và phát triển
các ngành nghề truyền thống như mây, tre, đan, gốm, sứ, dệt,... Vì vây, có thể nói
DNNVV đóng vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại
hóa nông thôn góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn,
đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, tiểu thương phát triển góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
14
Thứ tư, doanh nghiệp nhỏ và vừa thúc đẩy nền kinh tế năng động. Một nền
kinh tế đặt tỉ lệ quá lớn nguồn lực tài nguyên và lao động vào các doanh nghiệp lớn
thì nền kinh tế sẽ chậm chạp do quy mô lớn dẫn tới bộ máy quản lý cồng kềnh với
các quyết định kinh doanh chậm chạp. Ngược lại, với một tỉ lệ thích hợp các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ, dễ điều chỉnh hoạt động, nền kinh tế sẽ trở nên năng động,
linh hoạt hơn, thích nghi được với những biến động thị trường bắt kịp xu hướng của
nền kinh tế thế giới.
1.1.2. Hoạt động cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng và cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong phạm vi của luận văn, ngân hàng được hiểu là tổ chức tín dụng có thể
thực hiện các hoạt động như nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ
thanh toán. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm
ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính
sách, ngân hàng hợp tác xã.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng và các tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả dựa trên cơ sở tín nhiệm
nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp, cá nhân trong sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng
Theo Điều 4, khoản 14 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì “Cấp tín dụng
là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho
phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp
vụ cấp tín dụng khác”.
Theo Điều 4, khoản 16 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, “Cho vay là hình
thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Như vậy, cho vay DNNVV có thể hiểu một cách khái quát là một hình thức
cấp tín dụng, theo đó ngân hàng thương mại giao cho DNNVV một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo nguyên tắc trả cả gốc và lãi.
1.1.2.2. Phân loại cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
15
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Nếu việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học sẽ là tiền đề
để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả và chất lượng cho
vay. Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay nói chung và cho vay DNNVV nói riêng, tuy
nhiên, trên thực tế, người ta thường phân loại cho vay theo các tiêu thức sau:
a) Căn cứ vào thời gian vay
- Cho vay ngắn hạn: Là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng được
sử dụng bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp
- Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 12 tháng đến
60 tháng; được sử dụng chủ yếu đầu tư tài sản cố đinh, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới, có quy mô nhỏ và thời gian thu hổi vốn nhanh. Bên
cạnh đầu tư tài sản cố định, nó còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp
- Cho vay dài hạn: là khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên,
được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh hay dự án dài hạn
như: xây dựng nhà ở, phương tiện vận tải, xây dựng nhà xưởng mới.
Hiện nay, các NHTM đang nâng dần thời gian cho vay trung và dài hạn trong
tổng dư nợ của ngân hàng
b) Căn cứ theo tính chất bảo đảm nợ vay:
- Cho vay không có bảo đảm: là hoạt động cho vay không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc không cần bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng xin vay. Đối với những khách hàng tốt, trung thực
trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị công ty tốt thì ngân
hàng có thể cho vay dựa trên uy tín của khách hàng, mà không cần có sự đảm bảo
về nguồn thu nợ bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng trên cơ sở
nguồn vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ
ba. Đối với các khách hàng không thuộc đánh giá tốt về năng lực tài chính và các
16
yếu tố khác, không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có sự bảo
đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ để ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai bổ sung.
c) Căn cứ vào các phương thức cho vay
- Cho vay từng lần: áp dụng cho các trường hợp khách hàng vay vốn bổ sung
vốn lưu động không thường xuyên hoặc khách hàng có vòng quay vốn kinh doanh
dài. Theo phương thức này, mỗi lần vay vốn, khách hàng và NHTM thực hiện thủ
tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng cho các trường hợp khách hàng có
nhu cầu bổ sung vốn lưu động thường xuyên, có mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có
uy tín với ngân hàng. Khi hợp đồng tín dụng theo hạn mức có hiệu lực, khách hàng
cần rút vốn sẽ không cần phải ký thêm hợp đồng tín dụng mà chỉ cần lập giấy nhân
nợ kèm bảng kê và bản sao chứng từ để chứng minh mục đích sử dụng tiền vay.
- Cho vay theo dự án đầu tư: NHTM cho khách hàng vay vốn để thực hiện các
dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ
đời sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm NHTM cùng cho vay đối với một dự án vay
vốn cho các phương án vay vốn của khách hàng; trong đó có một NHTM làm đầu
mối dàn xếp, phối hợp với các NHTM khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo
Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và Quy chế đồng tài trợ
của các tổ chức tín dụng do Thống đốc NHNN ban hành
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, NHTM và khách hàng xác định và thỏa thuận
số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời gian cho vay
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: NHTM cam kết đảm bảo sẵn sang
cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và
khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí
trả cho hạn mức tín dụng dự phòng
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát sinh và sử dụng thẻ tín dung: NHTM chấp
thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để
17
thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc
điểm ứng tiền mặt là các đại lý của NHTM. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ và NHNN Việt Nam về
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà NHTM thỏa thuận bằng
văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN Việt Nam về huy
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
1.1.2.3. Đặc điểm và rủi ro trong cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Xuất phát từ đặc điểm của các DNNVV như quy mô vốn và tài sản nhỏ bé; sổ
sách và báo cáo kế toán không rõ ràng, minh bạch; sử dụng công nghệ lạc hậu trong
sản xuất kinh doanh; trình độ tay nghề công nhân viên cũng như trình độ quản lý
của chủ doanh nghiệp còn ở mức thấp… Do đó, cho vay DNNVV có những đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất, về quy mô cho vay: rất thấp nếu tính bình quân trên một DNNVV
Thứ hai, về thời hạn cho vay: chủ yếu là cho vay ngắn hạn
Thứ ba, về đảm bảo cho vay: hầu hết các DNNVV phải có tài sản đảm bảo khi
vay vốn các NHTM
Thứ tư, về mục đích sử dụng vốn vay: chủ yếu sử dụng bổ sung vốn lưu động.
Thứ năm, về lãi suất: ít được ưu đãi lãi suất, lãi suất theo sự ấn định của các
NHTM do DNNVV chưa có sự tín nhiệm cao từ các NHTM
Thứ sáu, về khả năng hoàn trả nợ vay: DNNVV dễ gặp khó khăn trong việc trả
nợ vay khi có sự biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ như: lạm phát, khủng
hoảng kinh tế, tài chính,..
Với các đặc điểm của DNNVV nên cho vay DNNVV tiềm ẩn các rủi ro sau đây:
- Tình trạng thông tin bất cân xứng làm cho ngân hàng không nắm bắt được
các dấu hiệu rủi ro của DNNVV một cách toàn diện và đầy đủ. Do đó, các ngân
hàng dễ bị mất vốn khi quyết định cho vay
18
- Các DNNVV, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ thường kinh doanh dựa vào mối
quan hệ quen biết nên ngân hàng khó phát hiện được các rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khi đã giải ngân
- Khả năng tài chính của các DNNVV bị hạn chế, cụ thể là vốn tự có thấp, do
đó, khi gặp khó khăn dễ bị mất thanh khoản, dẫn đến việc thu hồi nợ vay của ngân
hàng gặp khó khăn.
- Việc sử dụng vốn sai mục đích của các DNNVV cũng làm nảy sinh các rủi
ro mất vốn của ngân hàng. Các DNNVV thường sử dụng vốn vay cho mục đích cá
nhân và gia đình.
- Các DNNVV kinh doanh thường phụ thuộc vào một số khách hàng lớn, khi
những khách hàng này gặp khó khăn thì DNNVV cũng sẽ khó khăn theo, từ đó gây
rủi ro cho ngân hàng.
- Khả năng quản lý tài chính yếu kém của các DNNVV cũng làm nảy sinh rủi
ro ngân hàng trong việc thu nợ vay đúng hạn.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA
1.2.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Rủi ro trong kinh doanh
Trong kinh tế học và kinh doanh, thuật ngữ “rủi ro” (risk) đã được đưa ra từ
lâu nhưng cho đến gần đây, với sự phát triển của các ngành khoa học kinh tế lượng,
giúp lượng hóa các biến ngẫu nhiên trong hoạt động kinh doanh, rủi ro mới trở
thành một đối tượng nghiên cứu và kinh doanh.
Theo định nghĩa truyền thống, dưới góc độ kinh doanh, rủi ro là những sự
kiện xảy ra có thể làm cho mất mát tài sản hay làm phát sinh một khoản nợ. Mục
tiêu quan trọng hàng đầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp
là lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận bao giờ cũng đi kèm với nguy cơ thua lỗ và mất mát,
đó chính là “rủi ro”. Như vậy, rủi ro theo định nghĩa thuần túy này đe dọa khả năng
tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh.
19
Theo định nghĩa hiện đại, rủi ro kinh doanh là sự kiện mà kết quả kinh doanh
hiện tại hoặc tương lai có khả năng khác biệt đáng kể so với mức dự kiến từ trước,
hay còn gọi là mức kỳ vọng. Sự chênh lệch tạo ra rủi ro vì giới kinh doanh – đầu tư
quan niệm rằng những bất trắc không thể lường hoặc kiểm soát được chính là bản
chất của rủi ro.
1.2.1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Như bất kỳ một công ty hay tổ chức nào khác, một ngân hàng thực hiện mục
tiêu kiếm tiền bằng việc chấp nhận phải sống chung với rủi ro. Do đó, ngân hàng sẽ
có thể đối mặt với thua lỗ. Trong trường hợp tệ nhất, ngân hàng có thể phá sản.
Từ đó có thể thể thấy, ngân hàng là ngành kinh doanh rủi ro và việc tìm hiểu
rủi ro có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Vậy rủi ro ngân
hàng là gì?
Một cách khái quát, rủi ro ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra,
gây mất mát thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động.
Rủi ro ngân hàng rất đa dạng và có thể được phân tích theo nhiều khía cạnh
khác nhau. Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro có thể bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp, rủi ro chiến lược,..
1.2.1.3. Rủi ro tín dụng của NHTM
Thực tế đã có rất nhiều khái niệm về RRTD ngân hàng, cụ thể như:
Anthony Sauders (2007) định nghĩa: “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm năng
khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là luồng thu nhập dự tính
mang lại từ khoản vay của ngân hàng không thể được thực hiện cả về số lượng và
thời hạn”.
Theo Timothy W.Koch (2006) thì “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của
thu nhập thuần và thị giá khi khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn”.
Theo khoản 1 Điều 3 Thông tư số 02/2013/TT-NHNN: “Rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
20
Như vậy, có thể hiểu RRTD là những tổn thất tiềm năng có thể xảy ra trong
quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, do khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ
trả nợ (bao gồm lãi vay và gốc) hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng như đã
cam kết trong hợp đồng. Đây là rủi ro gắn liền với hoạt động tín dụng, dẫn đến tổn
thất tài chính như giảm thu nhập ròng và giảm giá thị trường của vốn
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng.
RỦI RO TÍN DỤNG
Nguyên nhân
phát sinh
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
bảo đảm
Rủi ro tác
nghiệp
Rủi ro
ngiệp vụ
Khả năng
trả nợ
Rủi ro
danh mục
Rủi ro
nội tại
Rủi ro
tập trung
Rủi ro đọng
vốn
Rủi ro mất
khả năng chi
trả
Rủi ro không
giới hạn ở hoạt
động cho vay
1.2.2.1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro
- Rủi ro giao dịch: Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh do
hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro
giao dịch có ba bộ phận:
+ Rủi ro lựa chọn là loại rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá, phân tích tín
dụng khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay