Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan để kiểm tra đánh giá kiến thức học phần các phương pháp phân tích hoá lý trong hoá phân tích đối với sinh viên hệ cử nhân trường đại học sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 141 trang )

Header Page 1 of 166.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
..............................

ĐÀO VIỆT HÙNG

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

ĐỂ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC HỌC PHẦN CÁC
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HOÁ LÝ TRONG HOÁ PHÂN TÍCH
ĐỐI VỚI

SINH VIÊN HỆ CỬ NHÂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC HOÁ HỌC

THÁI NGUYÊN - 2008

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
..............................

ĐÀO VIỆT HÙNG

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN


ĐỂ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC HỌC PHẦN CÁC
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HOÁ LÝ TRONG HOÁ PHÂN TÍCH
ĐỐI VỚI SINH VIÊN HỆ CỬ NHÂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HÀ NỘI
Chuyên ngành : Hoá phân tích
Mã số : 60.44.29

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC HOÁ HỌC

Hướng dẫn khoa học :
PGS. TS. TRẦN THỊ HỒNG VÂN

THÁI NGUYÊN 09 - 2008

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trong những thập niên gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế thế giới, của khoa học kĩ thuật. Thế giới đã tạo ra được rất nhiều công
trình khoa học có ý nghĩa thực tiễn cũng như ý nghiã khoa học, phục vụ trực
tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của con người. Để có được những thành tựu
như vậy giáo dục đóng góp một vai trò rất quan trọng. Tuy vậy, nền giáo dục
ở mỗi quốc gia, mỗi châu lục lại có nội dung và cách thức thực hiện khác
nhau. Chính điều đó đã làm cho chất lượng giáo dục ở mỗi quốc gia có được
những thành tựu khác nhau. Đối với Việt Nam - là một đất nước đang phát
triển, chắc chắn chưa thể có một nền giáo dục hiện đại và hoàn chỉnh. Chính
vì vậy trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ

trương, đường lối nhằm đầu tư phát triển cho giáo dục - xác định giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Muốn vậy, chúng ta cần phải tiến hành đổi mới cho giáo
dục: đổi mới về nội dung chương trình, về phương thức thực hiện, về kiểm tra
đánh giá, về công tác quản lí...ở tất cả các cấp học bậc học. Trong các công
tác cần phải đổi mới đó, việc đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá chất lượng
học sinh là rất quan trọng. Từ trước tới nay chúng ta chỉ sử dụng chủ yếu hình
thức kiểm tra tự luận, vấn đáp để đánh giá xếp loại học sinh vì vậy thường
hay mắc phải một số khuyết điểm như: nội dung kiểm tra không bao trùm
khối lượng kiến thức được học, kết qủa đánh giá phụ thuộc vào chủ quan của
người chấm, mất một quỹ thời gian lớn cho việc chấm thi....Để khắc phục
những nhược điểm trên đây đã có nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thực
hiện một hình thức kiểm tra đánh giá mới - đó là phương pháp trắc nghiệm
khách quan (TNKQ).
Là một học viên chuyên ngành Hoá phân tích, tôi nhận thấy: Đối với các
môn học chuyên ngành vẫn chưa thực hiện được hình thức kiểm tra TNKQ.
Vì vậy, chúng tôi muốn xây dựng một hệ thống các câu hỏi TNKQ dùng cho
sinh viên hệ cử nhân sư phạm và có thể dùng cho sinh viên chất lượng cao

Footer Page
166.
Số hóa3
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-1-





Header Page 4 of 166.
ngành sư phạm (với những câu hỏi nâng cao) hoặc còn có thể dùng cho học
viên cao học Hoá phân tích. Nếu vận dụng tốt lý thuyết về trắc nghiệm khách
quan để xây dựng thành công hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan học
phần “Các phương pháp phân tích hoá lý” sẽ giúp cho việc kiểm tra - đánh giá
kết quả học tập của sinh viên một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học.
Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan học phần “Các
phương pháp phân tích hoá lý” sẽ giúp sinh viên chủ động và tích cực hơn
trong học tập học phần này.
Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
“Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan để kiểm tra đánh giá
kiến thức học phần “Các phương pháp phân tích hoá lý” trong Hoá Phân
tích đối với sinh viên hệ cử nhân trường Đại học Sư phạm Hà Nội”.
II. Nội dung chính của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Áp dụng quy trình xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để xây
dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm cho học phần “Các phương pháp phân tích hoá
lí, dành cho hệ Cao đẳng và Đại học Sư phạm.
- Xây dựng các đề kiểm tra trắc nghiệm tạo cơ sở xác định giá trị của câu
hỏi.
- Định hướng việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm học phần “Các phương
pháp phân tích hoá lí” trong các khâu của quá trình dạy học.
Do thời gian và trình độ hạn chế nên bản luận văn còn có nhiều sai sót,
chúng tôi mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn đồng nghiệp để
bản luận văn được hoàn thiện hơn.

Footer Page
166.
Số hóa4

bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-2-




Header Page 5 of 166.
Chƣơng I
TỔNG QUAN VỀ PHƢƠNG PHÁP
TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
I.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng phƣơng pháp trắc nghiệm trên
thế giới và ở Việt Nam vào quá trình dạy học
Từ thế kỷ 19 người ta đã sử dụng trắc nghiệm để đo các khả năng của con
người. Đến thế kỷ 20, E. Toocdaica là người đầu tiên dùng trắc nghiệm để đo
trình độ kiến thức của học sinh đối với một số môn học [7; 9].
Năm 1940 đã xuất hiện nhiều hệ thống trắc nghiệm đánh giá kết quả học
tập của học sinh, tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này còn ít và phạm vi
áp dụng còn nhiều hạn chế. Cùng với việc ứng dụng của công nghệ thông tin
vào nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống thì trắc nghiệm cũng có điều kiện
phát triển mạnh.
Năm 1961, ở Mỹ đã xây dựng một bộ gồm 2000 câu hỏi trắc nghiệm
chuẩn để đánh giá kết quả học tập của học sinh - sinh viên và sử dụng cho các
kỳ thi tuyển sinh.
Năm 1963, với sự trợ giúp của máy tính điện tử để xử lý kết quả thực
nghiệm trên diện rộng đã tạo điều kiện phát triển cho phương pháp trắc
nghiệm trong nhiều lĩnh vực.
Những năm gần đây, hầu hết các nước trên thế giới đều đã sử dụng

phương pháp trắc nghiệm một cách rộng rãi và phổ biến vào quá trình dạy học
ở cấp phổ thông cũng như đại học, đặc biệt là ở các nước phương Tây.
Ở Việt Nam, từ những năm 1960 đã có những nghiên cứu thử nghiệm
phương pháp trắc nghiệm trong ngành tâm lý học.
Năm 1972, trắc nghiệm đã được sử dụng rộng rãi để ôn tập và thi tú tài.
Năm 1976, tác giả Nguyễn Như An dùng phương pháp trắc nghiệm trong việc
thực hiện đề tài: “Bước đầu nghiên cứu nhận thức tâm lý của sinh viên Đại học Sư

Footer Page
166.
Số hóa5
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-3-




Header Page 6 of 166.
phạm” và năm 1978 với đề tài “Vận dụng kết hợp phương pháp test và phương
pháp kiểm tra truyền thống trong dạy học tâm lý học [7].
Năm 1995 - 1996 trường Đại học Đà Lạt đã tổ chức kỳ thi tuyển sinh
vào Đại học bằng hình thức kiểm tra trắc nghiệm và có rất nhiều bộ sách
luyện thi ở khu vực phía Nam sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm được in.
Trong những năm gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường Đại học
đã có một số hoạt động bước đầu nâng cao chất lượng đào tạo của học sinh sinh viên ở các các cấp học. Tổ chức hội thảo trao đổi thông tin về việc cải tiến
hệ thống phương pháp kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của sinh viên trong
nước và trên thế giới, các khoá huấn luyện và cung cấp những hiểu biết cơ bản

về chất lượng giáo dục và các phương pháp trắc nghiệm.
Tháng 4 - 1998, trường Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội có
cuộc hội thảo Khoa học về việc sử dụng trắc nghiệm khách quan trong dạy học
và tiến hành xây dựng bộ trắc nghiệm để kiểm tra - đánh giá một số học phần
của các khoa trong trường.
Đặc biệt là việc áp dụng rộng rãi trong giảng dạy ở phổ thông và sử dụng
đại trà hình thức thi trắc nghiệm cho kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học và
tuyển sinh vào Đại học năm 2007 - 2008 các môn Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ của
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cho đến nay, đã có rất nhiều các khoá luận tốt nghiệp,
luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ, các nghiên cứu của sinh viên, học viên của
giảng viên ở các trường Đại học nghiên cứu và áp dụng hình thức này.
I.2. Trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận
I.2.1. Trắc nghiệm là gì?
Theo chữ hán “trắc” có nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” có nghĩa là “suy xét,
chứng thực” [9; 16]. Cả trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận đều là
những phương tiện để kiểm tra khả năng học tập của học sinh - sinh viên, cả hai
đều là trắc nghiệm (test).

Footer Page
166.
Số hóa6
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-4-





Header Page 7 of 166.
Để thuận tiện, trong bản luận văn này chúng tôi dùng từ “trắc nghiệm”
thay cho “trắc nghiệm khách quan” và “tự luận” (luận đề) thay cho trắc
nghiệm tự luận.

I.2.2. Bản chất của câu hỏi trắc nghiệm
Để hiểu rõ khái niệm của câu hỏi trắc nghiệm, chúng ta hãy tìm hiểu một
số định nghĩa của các nhà lý luận về trắc nghiệm như sau:
A. R. Petropxli (1970) cho rằng: “Test là bài tập làm trong thời gian
ngắn mà việc thực hiện bài tập đó nhờ có sự đánh giá về số lượng và chất
lượng có thể coi là dấu hiệu của sự hoàn thiện một số chức năng tâm lý” [7;
9].
S. G. Gellerterin (1976) cho rằng: “Test là thử nghiệm mang tính chất
bài tập xác định, kích thích hình thức nhất định của tính tích cực và thực hiện
cái dùng để đánh giá định lượng và định tính, dùng làm dấu hiệu của sự hoàn
thiện những chức năng nhất định” [7; 9]...
Theo K. M. Gurevich (1970): “Test là sự thi cử, bài tập hay sự thử tâm
sinh lý, trong thời gian thử ngắn và hạn chế, được chuẩn hoá, dùng để xác
định với mục đích thực hành những sự khác biệt giữa các cá nhân về trí tuệ
và năng lực chuyên môn” [7; 9].
Theo Trần Bá Hoành: “Test có thể tạm dịch là phương pháp trắc nghiệm,
là hình thức đặc biệt để thăm dò một số đặc điểm về năng lực, trí tuệ của học
sinh (thông minh, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý...)’’ [7; 9].
Cho tới nay, người ta vẫn hiểu trắc nghiệm là một bài tập nhỏ hoặc các
câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn yêu cầu học sinh, sinh viên suy nghĩ rồi
dùng ký hiệu đơn giản đã quy ước để trả lời. Hay trắc nghiệm là một hình
thức đo đạc đã được “tiêu chuẩn hoá” cho mỗi cá nhân học sinh bằng điểm.
Trên đây là một số ý kiến của tác giả trong và ngoài nước, qua đó ta thấy
được nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau thuộc về bản chất của câu hỏi trắc


Footer Page
166.
Số hóa7
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-5-




Header Page 8 of 166.
nghiệm khách quan. Đa số các nhà tâm lý học, dạy học hiện nay đều có xu
hướng xem trắc nghiệm là một phương pháp dạy học dùng những bài tập
ngắn để kiểm tra, đánh giá khả năng hoạt động nhận thức, năng lực trí tuệ và
kỹ năng của học sinh.
Điều này được coi là dấu hiệu bản chất của phương pháp trắc nghiệm vì
nó cho thấy chức năng cơ bản của trắc nghiệm trong quá trình dạy học mà cụ
thể là trong kiểm tra và đánh giá kết quả của học sinh - sinh viên.
I.2.3. Khái niệm về trắc nghiệm tự luận
Trắc nghiệm tự luận (luận đề) là hình thức tự trình bày câu trả lời bằng
ngôn ngữ của mình. Loại trắc nghiệm này ngược với trắc nghiệm khách quan,
cho phép có một sự tự do tương đối để trả lời vấn đề đặt ra, đòi hỏi người được
kiểm tra biết sắp xếp câu trả lời cho đúng và sáng sủa. Bài trắc nghiệm luận đề
được chấm điểm một cách chủ quan, điểm số cho bởi những người chấm khác
nhau có thể không thống nhất nên loại trắc nghiệm này gọi là trắc nghiệm chủ
quan [7].
I.2.4. Khái niệm về trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan là hình thức học sinh chỉ sử dụng các ký hiệu

đơn giản để xác nhận câu trả lời đúng. Thông thường có nhiều câu trả lời được
cung cấp cho mỗi câu hỏi nhưng chỉ có một câu trả lời đúng nhất. Bài trắc
nghiệm được chấm bằng cách đếm số lần học sinh chọn câu trả lời đúng. Do đó
hệ thống cho điểm là khách quan và không phụ thuộc vào người chấm [7; 9] .
I.2.5. So sánh câu hỏi trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận
I.2.5.1. Những điểm tương đồng giữa câu trắc nghiệm khách quan và tự luận
Trắc nghiệm khách quan cũng như trắc nghiệm tự luận đều được dùng
với mục đích đo lường thành quả học tập mà một bài kiểm tra có thể khảo sát
được. Hai loại câu hỏi có thể sử dụng để khuyến khích học sinh - sinh viên
học tập nhằm đạt các mục đích tiêu dạy học.

Footer Page
166.
Số hóa8
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-6-




Header Page 9 of 166.
Giá trị của cả câu hỏi tự luận và trắc nghiệm đều tuỳ thuộc vào tính
khách quan và độ tin cậy của chúng.
I.2.5.2. Những điểm khác nhau giữa các câu hỏi trắc nghiệm khách quan và tự luận
Phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận đều là hai phương pháp hữu
hiệu để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Mỗi phương pháp đều có
ưu, nhược điểm nhất định thể hiện qua bảng so sánh sau:


Bảng I-1: So sánh ưu điểm phương pháp trắc nghiệm khách quan và
trắc nghiệm tự luận [4; 17]
Ƣu thế thuộc về

Vấn đề so sánh

TNKQ

Ít tốn công ra đề

TNTL
+

Đánh giá được khả năng diễn đạt, đặc biệt là diễn đạt

+

tư duy hình tượng
Đề thi bao quát được phần lớn nội dung bài học

+

Ít may rủi do trúng tủ, lệch tủ

+

Ít tốn công chấm thi và khách quan trong chấm thi

+


Áp dụng công nghệ mới trong chấm thi, phân tích kết

+

quả thi
Khuyến khích khả năng phân tích và hiểu đúng ý

+

Khuyến khích sự suy nghĩ độc lập của cá nhân

+

Dấu (+) để chỉ ưu thế thuộc về phương pháp đó
Để phân biệt dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan và dạng câu hỏi trắc
nghiệm tự luận, ta tìm hiểu bằng so sánh sau:

Footer Page
166.
Số hóa9
bởiof
Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-7-





Header Page 10 of 166.
Bảng I-2: So sánh dạng câu hỏi TNKQ và TNTL [4]
Tiêu chuẩn đánh giá
Kết quả đánh giá

TNKQ

TNTL

- Tốt ở mức độ hiểu, biết ứng - Không thích hợp ở mức
dụng, phân tích

độ nhận biết.

- Không thích hợp ở mức độ - Tốt ở mức độ hiểu, áp
tổng hợp, đánh giá, so sánh.

dụng, phân tích.
- Tốt ở mức độ tổng hợp,
phê phán, suy luận.

Tính đại diện của nội - Nội dung có thể bao quát - Phạm vi kiểm tra chỉ
dung

toàn diện với nhiều câu hỏi.

tập trung vào một số khía
cạnh cụ thể.

Chuẩn bị câu hỏi.


- Tốn nhiều thời gian hơn.

Cách cho điểm

- Khách quan, đơn giản và ổn - Chủ quan, khó và ít ổn
định.

- Tốn ít thời gian hơn.

định.

Những yếu tố làm sai - Khả năng đọc, hiểu, phán - Khả năng viết, các cách
lệch điểm

đoán.

thể hiện.

Kết quả có thể có

- Khuyến khích ghi nhớ, hiểu, - Khuyến khích tổng hợp,
phân tích ý kiến của người diễn đạt ý kiến của bản
khác.

thân.

- Khả năng bật nhanh

- Thể hiện tư duy logic

của bản thân.

Qua bảng so sánh trên ta thấy, sự khác nhau rõ rệt nhất giữa hai phương
pháp là ở tính khách quan, công bằng, chính xác. Đặc biệt là ở tính khách
quan. Do đó cần nắm vững bản thân, ưu nhược điểm của từng phương pháp
để có thể sử dụng mỗi phương pháp hữu hiệu, đúng lúc, đúng chỗ.
I.3. Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan thông dụng
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu
các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan.

Footer Page
of 166.
Số hóa10
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-8-




Header Page 11 of 166.
I.3.1. Loại câu điền khuyết [1; 2; 4; 8; 10; 17]
Đây là loại câu hỏi đòi hỏi phải điền hay liệt kê một hay nhiều từ để hoàn
thành một câu hỏi trực tiếp hay một nhận định chưa đầy đủ. Với loại câu này
học sinh phải tìm hiểu câu trả lời đúng hơn là nhận ra câu trả lời đúng.
* Ưu điểm: Học sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời khác thường,
phát huy óc sáng kiến. Học sinh không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ ra,
nghĩ ra, tìm cây trả lời. Từ đó giúp học sinh luyện trí nhớ khi học. Loại này
cũng dễ soạn hơn loại câu hỏi lựa chọn.

* Nhược điểm: Khi soạn thảo loại câu hỏi này thường dễ mắc sai lầm là
trích nguyên văn các câu từ trong giáo trình. Phạm vi kiểm tra loại câu hỏi
này thường chỉ giới hạn vào các chi tiết vụn vặt. Việc chấm bài mất nhiều thời
gian và thiếu khách quan hơn loại câu hỏi nhiều lựa chọn.
Ví dụ 1: Hãy điền từ thích hợp vào chỗ trống để được câu hoàn chỉnh:
Hệ số hấp thụ phân tử  là một hàm số của độ dài bước sóng, nó không
phụ thuộc vào................ của hợp chất màu hấp thụ ánh sáng. Hệ số hấp thụ
phân tử  đặc trưng cho ......... riêng biệt của chất nghiên cứu, nó dùng để xác
định ............ của phản ứng trắc quang ở một bước sóng xác định.
I.3.2. Loại câu đúng sai [1; 2; 4; 8; 10; 17]
Người ta gọi câu “đúng - sai” là cách lựa chọn liên tiếp. Đây là loại câu
cung cấp một nhận định và học sinh được hỏi để xác định xem điều đó là “đúng”
hay “sai”. Hoặc có thể là câu hỏi trực tiếp để được câu trả lời là “Có” hay
“không”. Đôi khi chúng được nhóm lại dưới một câu dẫn. Các phương án trả lời
là thích hợp để gợi nhớ lại kiến thức được kiểm tra một cách nhanh chóng.
* Ưu điểm: Là loại câu hỏi đơn giản dùng để trắc nghiệm kết thúc về
những sự kiện, vì vậy viết loại câu hỏi này tương đối dễ dàng, ít phạm lỗi,
mang tính khách quan khi chấm.
* Nhược điểm: Học sinh có thể đoán mò, vì vậy có độ tin cậy thấp, dễ
tạo điều kiện cho học sinh học thuộc lòng hơn là hiểu. Học sinh giỏi có thể

Footer Page
of 166.
Số hóa11
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-9-





Header Page 12 of 166.
không thoả mãn khi buộc phải chọn đúng hay sai, hoặc có thể có những
trường hợp ngoại lệ chứ không phải chỉ có hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai.
Ví dụ 2: Khoanh tròn Đ nếu phát biểu đúng, S nếu câu phát biểu sai
1

Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử không thể xác định
được các kim loại kiềm, kiềm thổ

Đ

S

2

Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử cho phép xác định độ
cứng của nước

Đ

S

3

Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử có thể xác định hàm
lượng nhỏ hầu hết các ion kim loại trong nước thải

Đ


S

4

Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử không thể phân tích
được các nguyên tố từ xa

Đ

S

I.3.3. Loại câu ghép đôi [1; 2; 4; 8; 10; 17]
Loại câu này thường có hai dãy thông tin là câu dẫn và câu đáp, chúng
thường ghép đôi với nhau theo kiểu tương ứng một - một. Hai dãy thông tin
này không nên có số câu bằng để cho cặp ghép cuối cùng chỉ đơn giản gắn kết
của sự loại trừ liên tiếp. Nhiệm vụ của người học sinh là ghép chúng lại một
cách thích hợp.
* Ưu điểm: Dễ viết, dễ dùng, có thể dùng để đo các mức trí năng khác
nhau. Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức
hay lập các mối tương quan.
* Nhược điểm: Không thích hợp cho việc thẩm định các khả năng như
sắp đặt và vận dụng các kiến thức. Muốn soạn câu hỏi này để đo mức trí năng
cao đòi hỏi nhiều công phu. Ngoài ra, nếu danh sách mỗi cột dài thì tốn nhiều
thời gian cho học sinh đọc nội dung mỗi cột trước khi ghép đôi.
I.3.4. Loại câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn [1; 2; 4; 8; 10; 17]
Loại câu này thường có hình thức của một câu phát biểu không đầy đủ
hay một câu hỏi có câu dẫn được nối tiếp bằng một số câu trả lời mà học sinh
phải lựa chọn: Câu trả lời đúng, câu trả lời tốt nhất, câu trả lời kém nhất hay


Footer Page
of 166.
Số hóa12
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-10-




Header Page 13 of 166.
câu trả lời không có liên quan nhất; hoặc có nhiều hơn một câu trả lời thích
hợp.
Một câu hỏi nhiều lựa chọn gồm 2 bộ phận: câu dẫn và câu chọn. Trong
câu chọn chia thành 2 loại: câu đúng (hoặc câu sai phải lựa chọn) và câu nhiễu.
- Câu dẫn: Ở đầu câu kiểm tra có thể viết dưới dạng một câu trực tiếp
hay một cách phát biểu không đầy đủ. Điều này có tác dụng như cách phát
biểu để tạo ra một kích thích gợi ý câu trả lời cho học sinh.
- Câu chọn: Thường gồm từ 3 đến 5 câu là phù hợp, câu lựa chọn không
nên quá ít (2 câu) hoặc quá nhiều (10 câu) dựa vào quy luật tâm lý và các quy
luật xác suất thống kê.
+ Câu đúng: Là câu đúng nhất trong các câu lựa chọn
+ Câu sai: Là câu kém chính xác nhất
+ Câu nhiễu: Là câu trả lời có vẻ hợp lý, chúng có tác động nhiều đối với
học sinh có năng lực tốt và tác dụng thu hút đối với học sinh có năng lực kém.
* Ưu điểm:
- Giáo viên có thể dùng loại câu này để kiểm tra - đánh giá những mục
tiêu dạy học khác nhau, chẳng hạn như:
+ Xác định mối tương quan nhân quả

+ Nhận biết các điều sai lầm
+ Ghép các kết quả hay các điều quan sát được với nhau
+ Định nghĩa các thành ngữ
+ Tìm nguyên nhân của một số sự kiện
+ Nhận biết điểm tương đồng hay khác biệt giữa hai hay nhiều vật
+ Xác định nguyên lý hay ý niệm tổng quát từ những sự kiện
+ Xác định thứ tự hay cách sắp đặt nhiều vật.
+ Xét đoán vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm

Footer Page
of 166.
Số hóa13
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-11-




Header Page 14 of 166.
- Độ tin cậy cao hơn: Yếu tố đoán mò hay may rủi giảm đi nhiều so với
các loại trắc nghiệm khách quan khác khi số phương án lựa chọn tăng lên.
- Tính giá trị tốt hơn: Loại trắc nghiệm này có độ giá trị cao nhờ tính
chất có thể dùng đo những mức tư duy khác nhau. Với một bài trắc nghiệm có
nhiều câu trả lời cho sẵn để chọn, người ta có thể đo được khả năng nhớ, áp
dụng các nguyên lý, định luật, tổng quát hoá... rất hữu hiệu.
- Tính chất khách quan khi chấm bài. Điểm số của bài trắc nghiệm khách
quan không phụ thuộc vào chữ viết, khả năng diễn đạt của học sinh và trình
độ người chấm bài.

* Nhược điểm:
- Loại câu này khó soạn vì phải tìm câu trả lời đúng nhất, còn những câu còn
lại gọi là câu nhiễu thì cũng có vẻ hợp lý. Hơn nữa, các câu hỏi phải đo được các
mục tiêu ở mức năng lực nhận thức cao hơn mức biết, nhớ, hiểu.
- Có những học sinh có óc sáng tạo, tư duy tốt, có thể tìm ra những câu
trả lời hay hơn đáp án thì sẽ làm cho học sinh đó cảm thấy không thoả mãn.
- Các câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn có thể không đo được khả năng
phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách
hiệu nghiệm bằng loại câu hỏi trắc nghiệm tự luận soạn kỹ.
- Tốn kém giấy mực khi in loại câu hỏi này so với loại câu hỏi khác và
cũng cần nhiều thời gian để học sinh đọc nội dung câu hỏi.
- Câu hỏi loại này có thể dùng để thẩm định trí năng ở mức biết, khả năng
vận dụng, phân tích, tổng hợp hay ngay cả khả năng phán đoán cao hơn.
Ví dụ 3: Năng lượng photon của phần phổ có bước sóng ngắn so với phần phổ
có bước sóng dài hơn sẽ:
A. Bằng nhau

B. Nhỏ hơn

C. Lớn hơn

D. Không xác định được

Footer Page
of 166.
Số hóa14
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-12-





Header Page 15 of 166.
Có thể có những biến thể của loại câu hỏi nhiều lựa chọn. Các biến thể này
đòi hỏi học sinh phải tìm hiểu sâu. Một số biến thể rất nguy hiểm đối với những
người soạn câu hỏi không thận trọng, phổ biến là 2 loại biến thể sau:
a. Câu hỏi nhiều lựa chọn có nhiều câu trả lời
b. Câu kết hợp: Loại câu này cho phép có thể có nhiều câu trả lời đối với
một khối lượng tư liệu hạn chế.
I.4. Một số chỉ dẫn về phƣơng pháp soạn câu trắc nghiệm
I.4.1. Những chỉ dẫn chung [7; 9]
- Cần diễn đạt câu hỏi càng rõ ràng càng tốt, đặc biệt cần chú ý tới cấu
trúc ngữ pháp của câu.
- Chọn từ có nghĩa chính xác
- Đưa tất cả thông tin cần thiết vào trong các câu dẫn nếu được.
- Dùng những câu đơn giản, thử nhiều cách đặt câu hỏi và chọn cách đơn
giản nhất.
- Hãy tìm và loại trừ cách gây hiểu lầm mà chưa phát hiện được trong câu.
- Đừng cố gắng tăng mức độ khó của câu hỏi bằng cách diễn đạt câu hỏi
thêm cách phức tạp hơn, trừ khi người soạn muốn kiểm tra về phần đọc hiểu.
- Tránh cung cấp những đầu mối tới câu trả lời. Thói quen xây dựng câu
trả lời đúng dài hơn câu nhiễu sẽ sớm bị phát hiện. Câu dẫn của một câu hỏi
có thể chứa thông tin cần thiết để trả lời một câu hỏi khác.
- Tránh gây ra những tác động không mong muốn về mặt giáo dục,
không khuyến khích lối học vẹt.
- Tránh nêu nhiều hơn một ý tưởng độc lập trong câu dẫn
- Tránh những câu hay từ đoán ra câu trả lời
- Tránh câu hay từ thừa


Footer Page
of 166.
Số hóa15
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-13-




Header Page 16 of 166.
- Giữ cho việc đọc hiểu không quá khó khăn- Khi lên kế hoạch cho một
câu hỏi của một câu trắc nghiệm cần chú ý sao cho một câu hỏi không cung
cấp đầu mối cho việc trả lời một hay nhiều câu hỏi khác.
- Trong một bộ câu hỏi, sắp xếp các câu trả lời đúng theo cách ngẫu nhiên.
- Tránh các câu hỏi mang tính chất đánh lừa, gài bẫy.
- Cố gắng tránh sự mơ hồ về mặt ý nghĩa trong câu nhận định.
- Đề phòng các câu hỏi thừa giả thiết.
Để soạn tốt các câu hỏi trắc nghiệm cần phải nắm vững các nguyên tắc dạy
học, nhiệm vụ môn học, nội dung chương trình và đối tượng người học để soạn
thảo hệ thống câu hỏi vừa đảm bảo nội dung kiến thức vừa phù hợp với học sinh.
I.4.2. Những chỉ dẫn riêng cho từng loại câu hỏi
I.4.2.1. Câu hỏi điền khuyết [7; 9; 10]
- Nên sử dụng câu hỏi này khi rõ ràng duy nhất một câu trả lời đúng.
- Nên nói rõ ràng, trong điều kiện thích hợp nên nói rõ những con số có ý
nghĩa hay phần thập phân khi cần thiết. Nếu cần các đơn vị đo lường trong
câu trả lời có con số cũng phải nói rõ.
- Trong những câu buộc phải điền thêm chỗ trống, không nên để quá

nhiều khoảng trống làm cho các câu trở nên khó hiểu.
I.4.2.2. Câu hỏi đúng sai [7; 9; 10]
- Câu nhận định phải rõ ràng để có thể nhận xét một cách không mập mờ
về đúng - sai.
- Câu nhận định phải ngắn, ngôn ngữ phải đơn giản và tránh có hai câu
phủ định cùng một lúc.
- Độ dài và mức độ phức tạp của câu nhận định không nên tạo thành đầu
mối để suy ra đúng - sai.
- Đề phòng trường hợp mà câu trả lời đúng tuỳ thuộc vào một chữ, một
từ hay một câu không quan trọng.

Footer Page
of 166.
Số hóa16
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-14-




Header Page 17 of 166.
I.4.2.3. Câu ghép đôi [7; 9; 10]
- Phải đảm bảo cho hai danh mục đồng nhất
- Nên giữ các danh mục tương đối ngắn.
- Sắp xếp các danh mục một cách rõ ràng
- Giải thích rõ ràng cơ sở ghép đôi.
- Tránh tạo điều kiện ghép đôi một - một vì nó tạo nên một quá trình
loại trừ dần.

I.4.2.4. Câu hỏi nhiều lựa chọn [7; 9; 10]
- Dùng một câu hỏi hay một câu nhận định chưa đầy đủ làm câu dẫn,
chọn loại câu sao cho trong tình huống rõ ràng hơn và trực tiếp hơn.
- Nói chung tránh các câu dẫn mang tính phủ định. Tuy nhiên, nếu cần
câu dẫn phủ định phải chú ý gạch chân hoặc in nghiêng chữ “không”.
- Phải đảm bảo câu trả lời đúng rõ ràng là câu tốt nhất.
- Phải đảm bảo câu dẫn và câu trả lời khi gắn với nhau đúng ngữ pháp.
- Với một câu hỏi đã nêu, phải giữ cho một câu trả lời theo cùng một
dạng hành văn.
- Soạn càng nhiều câu nhiễu có vẻ hợp lý và có sức hút càng tốt. Tạo ra
câu nhiễu dựa vào những chỗ sai học sinh hay mắc phải.
- Tránh các câu nhiễu ở trình độ cao hơn so với câu trả lời đúng.
- Sắp xếp các câu trả lời theo thứ tự ngẫu nhiên, không ưu tiên vị trí nào.
- Cố gắng kiểm tra các câu hỏi và thử xem sự kiểm tra đó có vạch ra
được những chỗ yếu tiềm ẩn trong câu đó không.
- Dùng một câu hỏi hay câu nhận định chưa đầy đủ làm câu dẫn, tuỳ hình
thức nào hợp lý hơn.
- Không nên đưa quá nhiều ý vào một câu hỏi. Tập trung vào một ý cho
mỗi câu hỏi.

Footer Page
of 166.
Số hóa17
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-15-





Header Page 18 of 166.
- Giữ các câu trả lời của một câu hỏi văn phong ngắn câu dẫn không phải
câu trả lời phải chứa đủ thông tin cần thiết.
- Khi sử dụng các đơn số trong câu lựa chọn có thể đảo ngược các con số
để tăng tính hấp dẫn của câu lựa chọn.
- Không nên đưa quá nhiều tư liệu không thích hợp vào câu dẫn
I.5. Quy hoạch một bài trắc nghiệm
Quy hoạch một bài trắc nghiệm là dự kiến phân bố các phần của bài trắc
nghiệm theo mục tiêu và nội dung môn học sao cho nó có thể đo luờng chính
xác khả năng học tập của học sinh. Để làm được việc này đòi hỏi người soạn
thảo trắc nghiệm cần phải biết khảo sát những gì? Đặt tầm quan trọng vào
phần nào của môn học? Phải trình bày các câu hỏi dưới hình thức nào cho
hiệu quả nhất? Mức độ khó của câu hỏi đến đâu?
I.5.1. Mục đích của bài trắc nghiệm [7; 9]
Xác định mục đích muốn kiểm tra - đánh giá cho rõ ràng. Cần phân chia
nội dung chương trình thành các nội dung cụ thể và xác định tầm quan trọng
của từng nội dung đó để phân bố trọng số. Các mục đích phải được phát biểu
dưới dạng những điều có thể quan sát được, đo được để đặt ra các yêu cầu về
mức độ đạt được của kiến thức, kỹ năng...
Mục đích của bài trắc nghiệm chi phối nội dung, hình thức bài trắc
nghiệm dự định soạn thảo.

I.5.2. Phân tích nội dung môn học [7; 9]
Phân tích nội dung môn học bao gồm chủ yếu phân biệt bốn loại học tập sau:
- Những thông tin mang tính chất sự kiện mà học sinh phải nhớ hay nhận ra.
- Những khái niệm và ý tuởng mà học sinh phải giải thích.
- Những ý tưởng phức tạp cần phải giải nghĩa.

Footer Page

of 166.
Số hóa18
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-16-




Header Page 19 of 166.
- Những thông tin, kỹ năng cần ứng dụng hoặc là được chuyển sang tình
huống khác.
Các bước phân tích nội dung môn học:
- Tìm ra ý tưởng chính của môn học.
- Lựa chọn các khái niệm, các ký hiệu mà học sinh phải giải nghĩa được,
đòi hỏi người soạn phải nêu ra các khái niệm trọng tâm của nội dung môn học.
- Phân loại thông tin được trình bày trong các môn học.
- Lựa chọn một số thông tin và ý tưởng đòi hỏi học sinh phải vận dụng
những điều đã học để xử lý các tình huống mới.
I.5.3. Thiết lập dàn bài trắc nghiệm [ 9]
Sau khi nắm vững mục đích của bài trắc nghiệm và phân tích nội dung
dung môn học người soạn thảo thiết lập một dàn bài cho bài trắc nghiệm.
Một trong những cách thông dụng là lập ma trận hai chiều, một chiều biểu
thị nội dung hay mạch kiến thức cần đánh giá và chiều kia biểu thị cho các mức
độ nhận thức của học sinh (mục tiêu) mà bài trắc nghiệm muốn khảo sát.
Ví dụ: Ta có thể áp dụng bảng quy định hai chiều đơn giản cho một bài
trắc nghiệm ở lớp học nhằm khảo sát một phần nào đó của môn học:
Dàn bài trắc nghiệm
Đề mục:........................

Các ý tƣởng quang
Chủ đề

trọng

Các khái niệm

Kiến thức

(2)

(3)

(1)
Chủ đề 1
Chủ đề 2
Chủ đề 3
...

Footer Page
of 166.
Số hóa19
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-17-





Header Page 20 of 166.
(1) Các ý tưởng, các nguyên tắc, các mối liên hệ, các quy luật, khái quát
mà học sinh phải giải thích hoặc ghi nhớ.
(2) Các khái niệm, ký hiệu, công thức mà học sinh phải hiểu, giải thích
(3) Các loại thông tin, kiến thức mà học sinh phải nhớ và nhận ra.
Tuỳ theo môn học, cấp học và mục đích của bài trắc nghiệm mà người
soạn thảo có thể thiết lập dàn bài cho phù hợp.
I.5.4. Số câu hỏi trong một bài trắc nghiệm
Tuỳ thuộc vào thời gian mà số câu hỏi được đưa ra trong một bài trắc
nghiệm là bao nhiêu. Thông thường mỗi câu hỏi được giới hạn trả lời từ 1 đến
1,5 phút, những câu hỏi khó hơn có thể từ 2 đến 5 phút. Đa số một bài trắc
nghiệm thường làm trong 15 - 45 phút đối với kiểm tra lên lớp, còn trong các kỳ
thi có thể lên tới 120 phút hoặc nhiều hơn. Nói chung thời gian càng dài, bài
càng có nhiều câu hỏi thì điểm số có được từ bài trắc nghiệm đó càng đáng tin
cậy.
Vấn đề quan trọng hơn là các câu hỏi trong bài trắc nghiệm tiêu biểu cho
toàn bộ kiến thức mà học sinh cần phải đạt được qua mỗi bài học, môn học
hay học phần.
I.6. Đánh giá câu hỏi trắc nghiệm khách quan
I.6.1. Cơ sở chung [7; 17]
Đánh giá câu trắc nghiệm khách quan là việc làm cần thiết cho người
soạn thảo. Khi xây dựng bài trắc nghiệm khách quan phải gồm các câu hỏi đạt
được hai yếu tố là độ khó thích hợp và độ phân biệt cao.
Độ khó và độ phân biệt được xác định thống kê như sau:
Chia mẫu học sinh thành 3 nhóm làm bài kiểm tra:
- Nhóm điểm cao (H): 25% - 27% số học sinh đạt điểm cao nhất.
- Nhóm điểm thấp (L): 25% - 27% số học sinh đạt điểm thấp nhất.
- Nhóm điểm trung bình (M): 46% - 50% (học sinh còn lại)
I.6.2. Độ khó của một hỏi trắc nghiệm (K)


Footer Page
of 166.
Số hóa20
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-18-




Header Page 21 of 166.
a. Cách thứ nhất [8; 17]:
- Định nghĩa: Là tỷ số của tổng số học sinh trả lời đúng câu hỏi đó trên
tổng số học sinh tham dự.
- Chỉ số khó (K): K = R/N
Trong đó 0  K  1 hay 0%  K  100% với: R là tổng số học sinh trả lời
đúng và N là tổng số học sinh tham gia làm bài kiểm tra.
b. Cách thứ hai [17]: Chia thí sinh làm 3 nhóm:
+ Nhóm giỏi: Gồm 27% số lượng thí sinh có điểm cao nhất của kỳ kiểm
tra.
+ Nhóm kém: Gồm 27% số lượng thí sinh có điểm thấp nhất của kỳ kiểm
tra.
+ Nhóm trung bình: Gồm 40% số lượng thí sinh còn lại, không thuộc 2
nhóm trên. Khi đó hệ số về độ khó của câu hỏi được tính như sau:
K=

N G N K
x 100%
2n


Với: NG là số thí sinh thuộc nhóm giỏi trả lời đúng câu hỏi
NK là số thí sinh thuộc nhóm kém trả lời đúng câu hỏi
n là tổng số thí sinh thuộc nhóm giỏi (hoặc nhóm kém)
* Nhận xét: K càng lớn thì câu hỏi càng dễ, cụ thể:
+ 0  K  0,2
+ 0,21  K  0,4
+ 0,41  K  0,6
+ 0,61  K  0,8
+ 0,81  K  1
Nên dùng các câu

Là câu hỏi rất khó
Là câu hỏi khó
Là câu hỏi trung bình
Là câu hỏi dễ
Là câu hỏi rất dễ
trắc nghiệm có độ khó K nằm trong khoảng 25% đến

75%; trong khoảng từ 10% - 25% và 75% - 90%: cẩn trọng khi dùng; Nếu K
< 10% hoặc K > 90% thì không nên dùng.
Tuy nhiên, nếu để tuyển sinh, nên thêm một số câu có K < 25% hay nếu
chỉ đánh giá đạt hay không đạt có thể dùng một số câu K > 75%.

Footer Page
of 166.
Số hóa21
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


-19-




Header Page 22 of 166.
I.6.3. Độ phân biệt của một câu hỏi trắc nghiệm (P) [15; 17]
Khi ra một câu trắc nghiệm cho một nhóm thí sinh nào đó, người ta
muốn phân biệt nhóm ấy những người có năng lực khác nhau như: giỏi, khá,
trung bình, kém.. Câu trắc nghiệm khách quan thực hiện được khả năng đó
gọi là có độ phân biệt.
Như vậy độ phân biệt của câu trắc nghiệm là chỉ số xác định khả năng
phân biệt giữa học sinh giỏi và học sinh kém của câu trắc nghiệm đó.
Thực hiện phép tính thống kê, người ta tính được độ phân biệt theo công thức:
P=

NG  N K
n

Với: NG là số học sinh có câu trả lời đúng của nhóm giỏi, N K là số học
sinh có câu trả lời đúng của nhóm kém và n là tổng số học sinh của mỗi nhóm
(nhóm giỏi hoặc nhóm kém).
- Độ phân biệt của phương án đúng càng dương thì câu hỏi đó càng có
độ phân biệt cao.
- Độ phân biệt của phương án mồi càng âm thì câu mồi đó càng hay vì
nhử được nhiều học sinh kém chọn. Cụ thể:
+ 0  P  0,2
+ 0,21  P  0,4
+ 0,41  P  0,6
+ 0,61  P  0,8

+ 0,81  P  1
+ P = -1

Độ phân biệt rất thấp hay không có sự phân biệt
Câu hỏi có sự phân biệt thấp.
Câu hỏi có sự phân biệt trung bình
Câu hỏi có sự phân biệt cao.
Câu hỏi có sự phân biệt rất cao
Câu hỏi có độ phân biệt rất cao nhưng mang tính
tiêu cực, chứng tỏ câu hỏi này có vấn đề.
* Tiêu chuẩn chọn câu hay: Các câu thoả mãn các tiêu chuẩn sau đây
được xếp vào các câu hỏi hay.
- Độ khó nằm trong khoảng 0,4  K  0,6
- Độ phân biệt 0,5  P  0,7
- Câu mồi nhử có tính chất hiệu nghiệm tức là có độ phân biệt âm.

Footer Page
of 166.
Số hóa22
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-20-




Header Page 23 of 166.
Bảng I-3: Minh họa về độ phân biệt, không phân biệt, phân biệt âm
Câu hỏi

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Tổng
điểm của
bài trắc
nghiệm

A

S

Đ


S

Đ

S

S

Đ

Đ

Đ

Đ

6

B

S

S

Đ

Đ

Đ


S

Đ

S

S

Đ

5

C

Đ

S

S

S

S

S

S

S


S

Đ

2

D

S

Đ

Đ

Đ

Đ

S

Đ

Đ

Đ

Đ

8


Học sinh

(Đ: Câu hỏi được trả lời đúng và S: Câu trả lời sai)
Qua bảng trên thấy câu 1, câu 6, câu 10 là những là những câu cần chú ý.
Câu 1 là câu có độ phân biệt âm. Những học sinh có tổng điểm cao trên
toàn bài trắc nghiệm đã trả lời sai câu hỏi này, trong khi những người có điểm
thấp lại trả lời đúng. Hiệu quả làm cho điểm tổng bị cụm lại vì nó làm tăng
điểm của người đạt điểm thấp và hạ điểm của người đạt điểm cao.
Câu 10: Tất cả học sinh đều trả lời đúng
Câu 6: Tất cả học sinh đều trả lời sai
Cả hai câu này đều không có độ phân giải. Vậy để đánh giá câu hỏi trắc
nghiệm cần thông qua độ khó K và độ phân biệt P. Từ đó chúng ta sẽ có kế
hoạch điều chỉnh hợp lý các câu trắc nghiệm đã soạn.
Bảng 1- 4: Sử dụng sự phân tích câu hỏi trong kế hoạch chỉnh lý
để tăng độ phân biệt
Câu

A

B

C

D

E

Nhóm cao


17

20

3

4

6

Nhóm thấp

14

12

6

5

13

(Nhóm cao bằng 27% học sinh đạt điểm cao nhất, nhóm thấp bằng 27%
học sinh đạt điểm thấp nhất, mỗi nhóm có 50 thí sinh: câu đúng là câu B).
Độ khó: K = 0,32 độ phân biệt: P = 0,16

Footer Page
of 166.
Số hóa23
bởi Trung

tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-21-




Header Page 24 of 166.
Ta thấy câu này có khả năng phân biệt kém. Cần xem xét lại A và ý B có
thể chưa rõ nghĩa, ý C và D cần có điều chỉnh để tăng sức hút đối với học
sinh.
I.7. Đánh giá một bài trắc nghiệm khách quan
Nếu như phân biệt câu trắc nghiệm để giúp chúng ta sửa chữa các câu
nhiễu nhằm làm thay đổi bộ phân biệt và độ khó của câu trắc nghiệm, thì đánh
giá bài trắc nghiệm sẽ giúp chúng ta thay đổi độ tin cậy và độ giá trị của bài
trắc nghiệm thông qua việc thay đổi và bổ sung câu hỏi.
I.7.1. Độ tin cậy [4; 9; 17]
Một bài trắc nghiệm khách quan tin cậy để sử dụng kiểm tra - đánh giá
khi gồm những câu hỏi tương đối đạt tiêu chuẩn dựa vào những đặc điểm sau:
* Trung bình cộng số câu đúng: X =

fi
N

Với: X là số câu hỏi; N là số học sinh tham gia kiểm tra và fi là số học
sinh trả lời đúng câu hỏi thứ i.
Trung bình cộng số câu trả lời đúng phải vào khoảng X/2.
* Phương sai, độ lệch chuẩn của bài trắc nghiệm khách quan:
 X i  X 
- Phương sai có công thức: S =

N

2

2

Với: X là trung bình cộng số câu đúng, Xi là số câu trả lời đúng của học
sinh thứ i và N là số học sinh tham gia kiểm tra.
- Độ lệch chuẩn có công thức: S = S 2
Độ lệch chuẩn cho ta biết mức độ khác nhau trong điểm số của một
nhóm học sinh.
* Độ tin cậy: Độ tin cậy của bài trắc nghiệm khách quan được xem như
là một số đo về sự sai khác giữa điểm số quan sát được và điểm số thực.
Điểm số quan sát được là điểm số trên thực tế học sinh có được. Điểm số thực
là điểm số lý thuyết mà học sinh sẽ phải có nếu phép đo lường không có sai số.

Footer Page
of 166.
Số hóa24
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-22-




Header Page 25 of 166.
Tính chất tin cậy của bài trắc nghiệm khách quan cho chúng ta biết mức
độ chính xác khi thực hiện phép đo. Có hai nguồn sai số phép đo là sai số bên

ngoài (điều kiện tiến hành làm bài kiểm tra và điều kiện chấm bài) và sai số
bên trong (bản thân bài kiểm tra). Vì vậy, một bài trắc nghiệm khách quan có
thể chấp nhận nếu nó thoả đáng về nội dung và có độ tin cậy 0,60  R  1,00.
Như vậy, một bài trắc nghiệm khách quan hay là bài phải có giá trị, tức
là nó đo được cái cần đo, định đo, muốn đo.
Bài trắc nghiệm khách quan phải có độ tin cậy, một bài trắc nghiệm khách
quan hay nhưng có độ tin cậy thấp thì cũng không có ích; một bài trắc nghiệm
khách quan có độ tin cậy cao nhưng vẫn có thể có độ giá trị thấp, như vậy một bài
trắc nghiệm khách quan có độ tin cậy thấp thì không thể có độ giá trị cao.
Để đánh giá độ tin cậy cần chú ý đến sai số đo lường chuẩn, số học sinh
tham gia làm bài kiểm tra và đặc điểm thống kê của bài trắc nghiệm khách quan.
Tóm lại: Độ tin cậy của bài trắc nghiệm chính là đại lượng biểu thị mức
độ chính xác của phép đo nhờ bài trắc nghiệm.
I.7.2. Độ giá trị [4; 9; 17]
Độ giá trị là khái niệm cho biết mức độ mà một bài trắc nghiệm đo được
đúng cái cần đo. Độ giá trị nói đến tính hiệu quả của một bài trắc nghiệm
trong việc đạt được những mục đích xác định.
Đảm bảo tính giá trị: Một bài kiểm tra coi là giá trị khi nó phản ánh được
mục tiêu đào tạo. Tính giá trị thể hiện trong việc lựa chọn nội dung kiểm tra phải
gắn với các mức độ nhận thức khác nhau. Nếu một bài kiểm tra chỉ gồm toàn câu
hỏi để khảo sát trí nhớ ở mức độ nhận biết thì việc đánh giá kết quả là rất thấp.
Để đảm bảo tính giá trị của bài kiểm tra cần phải được quan tâm đến tính
toàn diện của nó tức là cả chất lượng và số lượng. Trong quá trình kiểm tra đánh giá tuyệt đối không được đánh giá phiến diện, riêng lẻ từng mặt một.
Theo Ebel độ giá trị chia làm hai loại:

Footer Page
of 166.
Số hóa25
bởi Trung
tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


-23-




×