Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Thành phần loài, tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn đường tiêu hóa ở huyện Đức Thọ, Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh và biện pháp phòng trừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.83 KB, 64 trang )

Header Page 1 of 166.
Phần I

MỞ ĐẦU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ lâu ở nhiều nước trên thế giới chó đã được xem như một người bạn
thân thiện của con người nhờ vào bản tính thông minh, nhanh nhẹn, dũng cảm
và đặc biệt trung thành với người nuôi nên được dùng cho nhiều mục đích khác
nhau của con người như: trông nhà, đi săn, kéo xe, làm xiếc, làm cảnh. Đồng
thời nhờ khứu giác phát triển loài chó được huấn luyện để dùng trong ngành
cảnh sát như đánh hơi tội phạm, tìm kiếm ma túy, các chất cấm khác cũng như
tìm kiếm người mất tích. Với mức sống ngày càng cao thì chó ngày càng được
nuôi nhiều làm thú cưng trong nhiều gia đình. Ngoài ra ta còn thấy chó còn lá
nguồi thực phẩm cho con người với giá trị dinh dưỡng cao. Hiện nay hầu hết các
gia đình Việt Nam đều có nuôi chó. Do điều kiện kinh tế và trình độ người dân
ngày càng tăng nên người dân đã biết áp dụng các tiến bộ khoa học vào chăn
nuôi do đó đã hạn chế được nhiều bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên ngoài các thuận
lợi nêu trên thì vẩn còn những thiếu tồn tại như đa số các gia đình nuôi chó theo
phương thức thả rông, bán thả rông và không có sự chăm sóc của cán bộ thú y.
Đó là điều kiện cho các mầm bệnh của chó phát triển trong đó có bệnh ký sinh
trùng nói chung và bệnh giun tròn trên chó nói riêng.
Bệnh ký sinh trùng không phải xảy ra một cách ồ ạt, nhanh chóng, lây lan
mạnh và gây chết nhiều như các bệnh truyền nhiễm…. Mà nó xảy ra một cách từ
từ, lặng lẻ, tác động dần dần đến sức khỏe vật nuôi. Bệnh giun sán là bệnh phổ
biến nhất ở loài chó. Nó ký sinh ở đường tiêu hóa của ký chủ, thường xuyên
cướp chất dinh dưỡng của ký chủ, tiết ra độc tố gây độc và làm tổn thương cơ
quan cư trú làm cho vật nuôi chậm lớn, còi cọc, giảm sức đề kháng tạo cơ hội
cho các mầm bệnh khác phát triển. Do bệnh tiến triển từ từ với các biểu hiện

Footer Page 1 of 166.


1


Header Page 2 of 166.
không rõ ràng do đó các nhà chăn nuôi thường không chú ý cho đến khi thấy
con vật còi cọc, gầy yếu. Do đó gây ra các thiệt hại về kinh tế do các bệnh giun
tròn gây ra là không nhỏ.
Xuất phát từ những vấn đề trên, để có những hiểu biết về tình hình nhiễm
giun tròn ở đàn chó nuôi tại các địa điểm khác nhau thuốc tỉnh Hà Tĩnh. Chúng
tôi thực hiện đề tài “Thành phần loài, tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn
đường tiêu hóa ở huyện Đức Thọ, Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh và biện pháp
phòng trừ”.
1.2 MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Xác định thành phần loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa tại điểm:
huyện Đức Thọ và Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh qua phương pháp xét nghiệm phân
và mổ khám toàn diện đường tiêu hóa.
Xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm một số giun tròn đường tiêu hóa qua
phương pháp xét nghiệm phân và phương pháp mổ khám.
Xác định biến động nhiễm một số giun tròn chủ yếu đường tiêu hóa của chó
ở các lứa tuổi khác nhau.
Xác định hiệu lực tẩy trừ của thuốc Pharmectin.

Footer Page 2 of 166.

2


Header Page 3 of 166.
Phần II


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 NHỮNG BỆNH GIUN TRÒN CHỦ YẾU KÝ SINH Ở ĐƯỜNG TIÊU
HÓA CỦA CHÓ
Giun tròn thuộc lớp Nematoda, ngành Nemathelminthes. Có hơn 5000 loài
trong đó có hơn 1000 loài sống tự do, hơn 3000 loài sống ký sinh. Trong đó có các
loài thường hay gây bệnh của chó như giun thực quản (Spiroceca lupi), giun đũa
(Toxocara canis, Toxocaris leonine), giun móc (Ancylostoma caninum, Ancylotoma
braziliense, Uncinaria stenocephara), giun tóc (Trichocephalus vulpis).
2.1.1 Bệnh giun đũa chó
Theo nghiên cứu của tác giả Phan Lục, bệnh giun đũa xảy ra ở chó chủ yếu là do
2 loài gây ra Toxocara canis, Toxocaris leonine.
2.1.1.1 Vị trí phân loại
Trong hệ thống phân loại động vật, giun đũa ký sinh ở chó thuộc Lớp:
Nematoda Rudolphi, 1880
Bộ: Spirurida Chiwood, 1938
Phân bộ: Spirurata Railliet, 1914
Họ: Anisakidae Skriabin et Karokhin, 1945
Giống: Toxocara Stiles
Loài: Toxocara canis Warner, 1782
Những giun tròn thuộc giống Toxocara không có cánh bên. Lớp cutin ở đuôi có
vân ngang giống như toàn cơ thể.
Loài thứ 2 thuộc:
Họ: Ascarididae Braird, 1853
Giống: Toxocaris Lieper, 1907
Loài: Toxascaris leonina Linstow, 1902

Footer Page 3 of 166.

3



Header Page 4 of 166.
Những giun đũa thuộc giống Toxocaris có đặc điểm không có môi trung
gian, đuôi con đực có cánh đuôi hẹp hoặc không có, có nhiều nhú trước và
sau hậu môn.
Ký chủ cuối cùng: chó
Nơi ký sinh: dạ dày, ruột non
2.1.1.2 Hình thái, cấu tạo
* Giun đũa Toxocara canis
Theo Werner, T. canis là giun tròn có kích thước lớn, màu vàng nhạt, đuôi
hơi cong về phía bụng. Đầu có 3 môi, trên mỗi môi đều có các răng nhỏ. Thực
quản hình trụ, đặc biệt ở giữa thực quản và ruột có đoạn phình to như dạ dày.
Giun đực dài 50 – 10 mm, đầu có cánh dài, hẹp. Hai gai giao cấu dài bằng
nhau, dài 0,75 – 0,95 mm.
Giun cái dài 90 – 180 mm, đuôi thẳng, lổ sinh sản ở nữa trước cơ thể.
Giun cái đẻ trứng, trứng có dạng tròn, vỏ ngoài lổ chổ hình tổ ong, đường
kính 0,068 – 0,075.

Ảnh 2.1 Hình thái trứng T. canis

Footer Page 4 of 166.

4


Header Page 5 of 166.
* Giun đũa Toxascaris leonina
Theo Linstow, T. leonina là loài giun tròn dài, màu vàng nhạt, cánh đầu
hẹp, đầu có 3 môi, thực quản hình trụ không có đoạn phình to như loài T. canis.
Giun đực dài 20 – 60 mm đuôi nhọn hơn, không có cánh đuôi. Gai giao cấu

dài bằng, dài 0,7 – 1.5 mm.
Giun cái dài 60 – 100 mm, trứng tròn, vỏ ngoài phẳng nhẵn, đường kính
trứng 0.075 – 0.085 mm.

Ảnh 2.2 Hình thái trứng T. leonina
2.1.1.3 Vòng phát triển
* Giun đũa Toxocara canis: Giun trưởng thành ký sinh ở dạ dày, ruột non
vật chủ rồi đẻ trứng trong ruột vật chủ, trứng được thải theo phân ra ngoài, gặp
điều kiện nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng thích hợp. Sau 5 ngày sẽ phát triển thành ấu
trùng gây nhiễm, ấu trùng vẫn nằm trong vỏ trứng.
Nếu vật chủ nuốt phải trứng có chứa ấu trùng gây nhiễm. Khi vào trong
đường tiêu hóa, vỏ trứng vỡ, ấu trùng chui ra khỏi trứng, sau đó xuyên qua thành
ruột theo hệ tuần hoàn di hành đến gan, tim, phổi, vào khí quản, lên miệng rồi
trở lại ruột non để phát triển thành dạng trưởng thành.
Một số ấu trùng sau khi vào phổi tiếp tục theo hệ tuần hoàn về các tổ chức
làm thành kén, tồn tại và có khả năng gây nhiễm tiếp nếu bị động vật khác ăn

Footer Page 5 of 166.

5


Header Page 6 of 166.
phải. Khi chó mang thai ấu trùng khi di hành có thể qua nhau vào bào thai và
phát triển thành giun trưởng thành. Ở bào thai ấu trùng cư trú chủ yếu ở gan và
phổi. Ở chó sơ sinh sau 2 ngày tuổi, ấu trùng đã xâm nhập vào ruột qua khí quản
vào thực quan. Nếu các ký chủ tạm thời như chuột đồng, chuột nhà nuốt phải
trứng T. canis chứa ấu trùng gây nhiễm thì ấu trùng nở ra theo máu đến các cơ
quan vào mô và đóng kén tại đó. Ấu trùng đã đóng kén không phát triển nhưng
cấu tạo giải phẫu không thay đổi. Chó ăn phải các ký chủ chứa kén này thì ấu

trùng sẽ giải phóng kén, tới ruột và phát triển tới dạng trưởng thành.

Ký chủ cuối cùng
Giun trưởng thành
Thức
ăn
nước
uống

Tạo kèn
trong tổ chức

Trứng

Trứng gây
nhiễm

Bào thai
Sơ đồ 2.1: Vòng phát triển của Toxocara canis
Thời gian hoàn thành vòng đời hết 26 – 28 ngày. Khi nhiễm qua bào thai
là 21 đến 22 ngày.
Sprent quan sát thấy ấu trùng Toxocara canis ở giai đoạn II dài 0,335 –
0.444 mm và ký sinh trong các mô khác nhau của chó. Các ấu trùng lột xác 2 lần
ở gan, phổi, tim hoặc trong dạ dày. Ấu trùng giai đoạn III sống trong phổi và dạ

Footer Page 6 of 166.

6



Header Page 7 of 166.
dày, lột xác lần 3 thành ấu trùng giai đoạn IV và chuyển đến ruột non chó lột
xác lần 4. Ở chó sơ sinh, ấu trùng từ cơ thể này chuyển vào ruột sau 23 ngày
phát triển thành giun trưởng thành.
Động vật cảm nhiễm giun T. canis bằng 3 cách:
- Trực tiếp ăn, uống phải trứng gây nhiễm.
- Ăn thịt các ký chủ tạm thời có mang ấu trùng.
- Nhiễm ấu trùng qua nhau thai: ấu trùng từ cơ thể chó mẹ có chữa xâm
nhập vào bào thai qua máu
* Giun đũa Toxascaris leonine: Giun cái trưởng thành ký sinh ở dạ dày,
ruột non của ký chủ thường xuyên đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài nếu gặp
điều kiện thuận lợi, nhiệt độ ở 30o sau 3 ngày trứng phát triển thành trứng có ấu
trùng gây nhiễm.
Ký chủ cuối cùng
Giun trưởng thành

Thức
ăn,
nước
uống

Trứng gây nhiễm

Trứng

Sơ đồ 2.2: Vòng phát triển của Toxascaris leonina
Khi vào đường tiêu hóa của chó, ấu trùng được giải phóng chui qua niêm
mạc ruột tới tĩnh mạch cửa rồi vào gan, theo hệ tuần hoàn vào phổi, phế nang.
Khi con vật ho ấu trùng gây nhiễm theo đờm lên miệng rồi nuôt trở lại ruột non.
Tại đây ấu trùng lột xác 3 lần rồi phát triển thành dạng trưởng thành.

Thời gian hoàn thành vòng đời mất khoảng 55 – 72 ngày.
Ký chủ dự trữ là loài gặm nhấm, ấu trùng gây nhiễm ở sâu trong thành dạ
dày hay ruột của các động vật thuộc loài này.

Footer Page 7 of 166.

7


Header Page 8 of 166.
Chó nhiễm giun đũa T. leonine theo 2 đương chủ yếu sau:
- Trực tiếp ăn, uống phải ấu trùng gây nhiễm.
- Ăn phải ký chủ dự trữ có mang ấu trùng gây nhiễm.
2.1.1.4 Dịch tể học
- Phân bố: Bệnh có ở khắp nơi trên thế giới. Ở nước ta bệnh phân bố khắp
từ bắc vào nam.
- Động vật cảm nhiễm: Chó, chó sói và hầu hết các loài thú ăn thịt thuộc họ
chó. Chó nhập nội và chó cái thường có tỷ lệ nhiễm cao hơn chó nội và chó đực.
- Ký chủ dự trữ là chuột, chuột đồng và một số loài gặm nhấm khác.
- Tuổi cảm nhiễm: T. canis thường phổ biến ở chó con dưới 2 tháng tuổi,
thường gây bệnh nặng. T. leonine thường phổ biến ở chó lớn hơn 6 tháng tuổi. Tỷ
lệ nhiễm giun T. canis ở chó con thường thấp hơn so với tỷ lệ nhiễm T. leonine.
Chó trưởng thành trên 1 năm tuổi được nuôi dưỡng tốt thì có sức đề kháng cao
với giun đũa. Skrjabin và Petrov làm thực nghiệm gây nhiễm cho chó 2 năm tuổi,
mỗi chó 5000 trứng. Kết quả cả 3 chó đều không bị bệnh khi được nuôi dưỡng
tốt. Nhưng khi giảm vitamin A trong khẩu phần ăn thì chó bị mắc bệnh.
- Tỷ lệ nhiễm: Hầu hết các tác giả trong và ngoài nước đều thống nhất rằng
chó cũng như các thú ăn thịt khác nhiễm giun sán nặng ở giai đoạn chó non và
nhẹ hơn giai đoạn trưởng thành. Theo Phan Lục chó ta nhiễm giun đũa với tỷ lệ
29%, trong đó chó con 17 – 20 ngày tuổi bị nhiễm nặng với triệu chứng rõ ràng.

Chó con từ sơ sinh đến 4 tháng tuổi nhiễm 52%, tuổi chó càng tăng tỷ lệ nhiễm
giun đũa ngày càng giảm và chó trưởng thành (trên 1 năm tuổi) chỉ chiếm 12%.
Theo Phạm Văn Khuê, Trần Văn Quyết, Đoàn Văn Phúc cho biết chó từ 1- 3
tháng tuổi nhiễm T. canis chiếm 57,1%, chó từ 7-12 tháng tuổi chiếm 14,8%.
Chó trên 1 năm tuổi không nhiễm T. canis.

Footer Page 8 of 166.

8


Header Page 9 of 166.
- Nơi ký sinh: Toxocara canis, Toxascaris leonine đều ký sinh ở ruột non
của ký chủ.
- Sức đề kháng của trứng: Trứng của giun đũa có sức đề kháng cao với
điều kiện ngoại cảnh. Với các dung dịch thủy ngân clorua (HgCl), đồng sunfat
(CuSO4), kẽm sunfat (ZnSO4) ở nồng độ cao trứng vẫn phát triển được. Trứng T.
leonine khi làm khô trong phòng thí nghiệm để 45 ngày vẫn không chết, khoảng
100 ngày trứng mới chết. Nhưng khi phơi khô dưới ánh nắng trực tiếp của mùa
hè, với nhiệt độ 330C thì sau 3 ngày trứng mới chết. Ở nhiệt độ lớn hơn 400C
trứng T. leonine bị tiêu diệt [Võ Thị Hải Lê (2007)].
- Đường lây truyền: Chủ yếu qua đường tiêu hóa khi chó ăn, uống hay ăn
thịt các ký chủ dự trữ nhiễm giun đũa có chứa ấu trùng gây nhiễm. Ngoài ra chó
còn có thể nhiễm giun đũa do ấu trùng từ chó mẹ lây qua đường nhau thai.
- Ảnh hưởng của ngoài cảnh: Điều kiện ngoại cảnh, phương thức chăn nuôi
là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến bệnh ký sinh trùng nói chung và giun đũa nói
riêng. Khí hậu nóng ẩm quanh năm của nước ta rất thuận lợi cho giun tròn nói
chung và giun đũa nói riêng phát triển và gây bệnh. Chó nuôi trong điều kiện môi
trường kém, ẩm thấp, phẩm chất thức ăn không tốt thì tỷ lệ nhiễm bệnh cao.
2.1.1.5 Triệu chứng, bệnh tích

Chó bị bệnh thường không biểu hiện rõ ràng, chỉ thấy con vật gầy còm,
lông xơ xác, đôi khi nôn khan. Thường chỉ nhận thấy ở những con vật nhiễm
nặng với những biểu hiện như sau:
- Con vật thân gầy còm, lông xơ xác, kém ăn, xơ xác, thiếu máu.
- Bụng phình to như bụng cóc, căng tròn, thỉnh thoảng có từng đoạn ruột
nổi lên nhu động, ấn tay vào có cảm giác cứng chặt.
- Nôn mửa, tiêu chảy, chó thường rên rỉ do đau bụng, có khi nôn ra giun
hay phân thải ra ngoài màu xám trắng, thối khắm và ra cả giun.

Footer Page 9 of 166.

9


Header Page 10 of 166.
- Với những chó nhỏ bị bệnh nặng, các ấu trùng do quá trình di hành trong
cơ thể làm tổn thương, gây viêm gan, thận, phổi, tắc ống mật, đôi khi giun đũa
chọc thủng ruột.
- Độc tố giun đũa có thể tác động lên thần kinh trung ương gây co giật.
2.1.2 Bệnh giun móc chó
Bệnh giun móc chó do 3 loài giun tròn gồm Ancylostoma caninum,
Ancylostoma braziliense, Uncinaria stenocephara gây ra.
2.1.2.1 Vị trí phân loại
Theo sự phân loại động vật của các tác giả Phan Thế Việt và cs, (1977),
Nguyễn Thị Lê, (1996), loài giun móc ký sinh ở chó thuộc vào:
Lớp: Nematoda Rudolphi, 1808
Phân bộ: Rhabditata Oerley, 1980
Họ: Ancylosmatidae Looss, 1905
Giống: Ancylostoma Dubini, 1893
Loài: Ancylostoma braziliense Faria, 1910

Ancylostoma caninum Ercolani, 1859
Giống: Uncinaria Froelich, 1789
Loài: Uncinaria stenocephara
Những giun tròn thuộc họ Ancylostomatidae có đặc điểm xoang miệng
sâu, có hình cầu, xoang miệng hoàn toàn kitin hóa. Phía trước thực quản có phần
phình rộng.
Ở nước ta cho tới nay đã phát hiện ra được các loài: Ancylostoma
caninum, Ancylostoma braziliense, Uncinaria stenocephara trên các động vật
ăn thịt.
* Ancylostoma caninum
- Ký chủ cuối cùng: chó, mèo, hổ
- Nơi ký sinh: ruột non
- Phát triển: trực tiếp

Footer Page 10 of 166.

10


Header Page 11 of 166.
* Ancylostoma braziliense
- Ký chủ cuối cùng: mèo rừng, mèo nhà, hổ, báo, chó.
- Nơi ký sinh: ruột non
- Phát triển: trực tiếp
* Uncinaria stenocephara
- Ký chủ cuối cùng: cầy voi, chó, mèo, đôi khi ở lợn.
- Nơi ký sinh: ruột non
- Phát triển: trực tiếp
2.1.2.2 Hình thái, cấu tao
* Ancylostoma caninum có kích thước nhỏ, màu vàng nhạt và hồng

nhạt, đoạn trước cong về phía lưng. Túi miệng rất sâu, ở rìa mép phía mặt
bụng có 3 đôi răng lớn, cong hình lưỡi câu, dưới đáy túi miệng có một đôi
răng hình tam giác.
Giun đực dài 9 – 12 mm, túi đuôi phát triển, gai giao hợp dài 0,75 – 0,87
mm, đoạn cuối rất nhọn, bánh lái gai giao hợp tròn dài. Giun cái dài 10 – 21
mm, lổ sinh dục ở vào 1/3 nữa sau cơ thể. Đuôi có gai giao hợp. Trứng giun
hình bầu dục, vỏ nhẵn, mỏng, dài 0,06 – 0,066 mm, rộng 0,037 – 0,42 mm.
* Ancylostoma braziliense có kích thước nhỏ hơn A. caninum, giun đực dài
6 – 7 mm, 2 rìa mép bụng đều có 2 đôi răng, 1m, 1 to và 1 nhỏ. Trứng có kích
thước 0,075 – 0,095 mm x 0,041 – 0,045 mm, trứng có hình bầu dục và bắt đầu
phân chia ngay sau đẻ.
* Uncinaria stenocephara có màu vàng nhạt, hai đầu hơi nhọn. Túi miệng
rất lớn, về mặt bụng của túi miệng có 2 đôi răng hình bán nguyệt xếp đối xứng
nhau, cong về phía trong, thực quản dài 0,75 – 0,88 mm.
Giun đực dài 6 – 11 mm, rộng nhất 0,28 – 0,34 mm, có túi đuôi phát triển,
hai gai giao hợp dài bằng nhau, dài 0,65 – 0,75 mm, đầu mút của gai rất nhọn.

Footer Page 11 of 166.

11


Header Page 12 of 166.
Giun cái dài 9 – 16 mm rộng nhất 0,28 – 0,37 mm, lổ sinh giục ở vào 1/3
phía trước cơ thể. Trứng hình bầu dục, có kích thước 0,078 – 0,083 mm x 0,052
– 0,059 mm.
Phân biệt loài giun móc Uncinina stenocephara với loài Ancylostoma
caninum qua phần đầu và kích thước trứng.

Ảnh 2.3 Hình thái trứng giun móc

2.1.2.3 Vòng phát triển
Các loài giun tròn thuộc họ Ancylostomatidae đều là giun tròn phát triển
trực tiếp. Giun trưởng thành ký sinh ở ruột non, giun cái đẻ ra trứng, trứng theo
phân ra ngoài. Theo nghiên cứu của Foster Cony (1935), trong điều kiện có đủ
oxy, độ ẩm cao, pH trung tính thì sau 24- 28 giờ trứng sẽ phát triển thành ấu
trùng gây nhiễm.
Mỗi giun cái trưởng thành mỗi ngày có thể thải ra môi trường từ 10000 –
30000 trứng. Ở môi trường ngoài sau khoảng 1 – 3 tuần nếu gặp điều kiện thuận
lợi nhiệt độ, độ ẩm thích hợp phôi bào trong trứng phát triển tới dạng ấu trùng.
Ấu trùng thoát ra khỏi trứng qua 2 lần lột xác phát triển thành ấu trùng gây
nhiễm. Ấu trùng di chuyển lên các giọt sương trên các ngọn lá cỏ, lá rau trong
thời gian dài chờ đợi cơ hội gặp ký chủ thích hợp sẽ xâm nhập vào ký chủ qua 2
con đường:

Footer Page 12 of 166.

12


Header Page 13 of 166.
- Qua thức ăn, nước uống hoặc qua các vật chủ dự trữ, ấu trùng chui vào
thành ruột và thành dạ dày, ở đó vài ngày rồi trở về ruột non và phát triển thành
dạng trưởng thành.
- Ấu trùng xuyên qua da để vào cơ thể ký chủ, trong cơ thể ký chủ, theo
hệ thống tuần hoàn về tim, lên phổi, chúng chui qua phế bào đến khí quản rồi về
ruột non và phát triển tới dạng trưởng thành. Chó trong thời kỳ mang thai ấu
trùng theo hệ tuần hoàn về ký sinh ở bào thai vì thế chó con ngay khi sinh ra đã
bị nhiễm giun móc.
- Thời gian hoàn thành vòng đời của giun móc chó dài 14 đến 20 ngày.


Ký chủ cuối cùng
Giun trưởng thành
Trứng
Qua da ký chủ

Ấu trùng kỳ I

Ấu trùng kỳ II
Bào thai
Ấu trùng kỳ III
Sơ đồ 2.3: Vòng phát triển của Ancylostomatidae
2.1.2.4 Dịch tể học
- Phân bố: Bệnh có ở khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam nhiều tác giả đã
cho biết bệnh giun móc tìm thấy ở chó, mèo và một số loài thú hoang tại nhiều
tỉnh từ bắc vào nam.
- Động vật cảm nhiễm: Chó, mèo, người và nhiều loài ăn thịt khác đều có
thể tìm thấy giun móc. Ở loài chó thì chó ngoại cảm nhiễm A. caninum hơn chó
nội (chó ngoại nhiễm 83%, chó nội nhiễm 63%).

Footer Page 13 of 166.

13


Header Page 14 of 166.
- Tuổi cảm nhiễm: Theo Phan Lục cho biết chó nhiễm ở mọi lứa tuổi nhưng
phổ biến ở chó 4 tháng tuổi ( tỷ lệ nhiễm 82% ). Chó trên 6 tháng tuổi mức độ
nhiễm giảm xuống ( tỷ lệ nhiễm 75% ).
- Tỷ lệ nhiễm: Nhìn chung tỷ lệ nhiễm giun móc ở đàn chó nuôi chiếm tỷ lệ
tương đối cao. Theo Phạm Sỹ Lăng cho biết chó từ 2 – 3 tháng tuổi nhiễm giun

A. caninum chiếm tới 62,1%, chó từ 3 – 6 tháng tuổi nhiễm 90,7%.
Theo Phạm Văn Khuê, Trần Văn Quyên, Đoàn Văn Phúc (1993) chó từ 1 –
3 tháng tuổi nhiễm A. caninum chiếm 68,8%.
Lê Hữu Khương, Lương Văn Huấn (1998) cho biết chó nhiễm Ancylostoma
caninum cao nhất ở lứa tuổi 2 – 6 tháng tuổi sau đó giảm dần.
- Nơi ký sinh: giun móc ký sinh ở ruột non ký chủ
- Sức đền kháng của trứng: Nhiệt độ thích hợp để trứng phát triển thành
ấu trùng từ 20 – 300C. Trứng và ấu trùng Ancylostoma caninum đều chết ở nhiệt
độ dưới 00C và trên 400C. Ở những nơi ẩm ướt, thiếu ánh sáng, ấu trùng A.
caninum có thể tồn tại một thời gian dài.
- Đường truyền lây: Bệnh lây qua thức ăn, nước uống hoặc ấu trùng cảm
nhiễm chui qua da ký chủ.
- Ảnh hưởng của ngoại cảnh: Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta,
bệnh giun móc có thể lây nhiễm quanh năm tùy nhiên thời kỳ lây nhiễm cao
thường ở khoảnh từ tháng 4 đến tháng 10.
Theo Petrov chó nhiễm A. caninum thì có sức đề kháng cao hơn với chó
mới bị nhiễm giun này. Chó ở điều kiện ăn đói trở nên mẩn cảm hơn. Trong điều
kiện cho chó ăn đầy đủ thì sức đề kháng của chó với A. caninum được khôi phục
và có thể tự thải ra một lượng lớn A. caninum trưởng thành ra khỏi ruột.
Theo Phạm Văn Khuê, Trần Văn Quyên, Đoàn Văn Phúc, (1993) thì những
chó thả rông thì tỷ lệ nhiễm giun móc cao tới 90%.

Footer Page 14 of 166.

14


Header Page 15 of 166.
2.1.2.5 Triệu chứng, bệnh tích
- Chó mắc bệnh giun móc thường có biểu hiện buồn rầu, lờ đờ, lông dựng,

da dầy có những điểm tróc và mẩn đỏ, rồi gầy dần, có thể dẫn tới bần huyết. Sau
đó chó bị chảy máu mũi. Triệu chứng đặc trưng nhất là thiếu máu, viêm ruột cấp
và mạn tính, kèm theo chảy máu ruột, đặc biệt chó non từ 2 – 4 tháng tuổi, khi
mắc tỷ lệ chết cao từ 60 – 80%
- Ngoài ra còn có các triệu chứng:
+ Nôn mửa liên tục, có khi nôn ra máu, bỏ ăn hay ăn ít do hậu quả chảy
máu niêm mạc ruột.
+ Rối loạn tiêu hóa, viêm ruột cấp tính và mạn tính, do tác động cơ giới và
độc tố của giun móc nên xuất hiện bệnh tiêu chảy dữ dội, phân lẩn máu, màu cà
phê hay màu đen, có dịch nhầy, mùi tanh khắm.
+ Xuất hiện hội chứng thần kinh do độc tố giun thấm vào máu di khắp
cơ thể.
+ Chó non chết do mất máu, mất nước.
Gia súc khỏe và gia súc mắc giun móc lần đầu, bệnh có thể nhẹ hơn. Triệu
chứng chủ yếu là thiếu máu, chảy máu ruội, tuy nhiên sau khoảng 2 – 3 tháng
tuổi có thể tự khỏi bệnh khi điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng tốt.
2.1.3 Bệnh giun thực quản chó
Bệnh do giun tròn Spirocerca lupi, Spirocerca arctica.
2.1.3.1 Vị trí, phân loại
Trong hệ thống phân loại, giun thực quản của chó thuộc:
Lớp: Nenatoda Rudolphi, 1933
Bộ: Spirurata Railliet, 1914
Họ: Spiruridae Oley, 1885
Giống: Spirocerca Railliet et Henry, 1911
Loài: Spirocerca lupi Rudolphi, 1809
Tên; Spirocerca sanguinolenta (Rudolphi, 1819)

Footer Page 15 of 166.

15



Header Page 16 of 166.
Vật chủ: chó nhà, cáo, chuột rừng, gà nhà
Nơi ký sinh: Thực quản, dạ dày, động mạch chủ
Phát triển qua ký chủ trung gian là bọ hung và nhiều loại côn trùng cánh
cứng khác (Scarabeus sacer, Copris lunaris, Goetruper stercorarius).
Ký chủ dự trữ là lưỡng cư, bò sát, động vật có vú.
2.1.3.2 Hình thái, cấu tạo
Giun có màu đỏ, miệng nhỏ hình 6 cạnh, thực quản kép.
* S. lupi: Giun đực dài 30 – 54 mm, Hai gai giao cấu dải không bằng
nhau, dài 2,4 – 4,9 mm và 0,61 – 0,76 mm. Giun cái dài 54 – 80 mm. Lổ sinh
sản cái nằm ở trước thân, gần cuối thực quản. Trứng chứa ấu trùng.
* S. arctica Giun đực có hai gai giao cấu dài không bằng nhau, dài 0,83 và
0,29 mm. Giun cái dài 9,5 – 12,5 mm. Lổ sinh sản cái ở khoảng giữa thân.
Trứng nhỏ có kích thước 0,035 – 0,039 mm x 0,014 – 0,023 mm. Trong trứng có
ấu trùng.

Ảnh 3.4 Hình thái giun thực quản
2.1.3.3 Vòng phát triển
Trứng theo phân ra ngoài, bên trong có chứa ấu trùng A1. Nếu vật chủ trung
gian là bọ hung, các côn trùng cánh cứng khác phải nuốt phải, ấu trùng giun phát
triển, lột xác thành ấu trùng gây nhiễm A3 ở xoang bụng côn trùng. Nếu chó, cáo

Footer Page 16 of 166.

16


Header Page 17 of 166.

ăn phải vật chủ trung gian chứa ấu trùng gây nhiễm, ấu trùng sẽ phát triển thành
giun trưởng thành. Nếu những động vật không phải là vật chủ cuối cùng (chim,
bò sát, một số động vật có vú) nuốt phải ấu trùng gây nhiễm có trong vật chủ
trung gian. Những ấu trùng này sẽ chui vào thành thực quản, dạ dày, ruột…
đóng kén ở đó và vẫn có khả năng gây nhiễm cho chó.
Ký chủ cuối cùng
Giun trưởng thành

Thức ăn

Thức
ăn,
nước
uống

Vật chủ dự trữ

Trứng (A1)

Vật chủ trung gian
Bọ hung, bọ cánh cứng khác
(A3
A2)
Sơ đồ 2.4: Vòng phát triển của Spirocerca lupi
2.1.3.4 Triệu chứng, bệnh tích
Chó nhiễm giun thường thấy chảy giải, nôn, khó nuốt, đôi khi giả dại. Khi
khối u có ở phế quản, súc vật ho nhiều. Khi khối u ở trong động mạch có thể
làm vở động mạch dẫn tới con vật chết ngay.
Bệnh tích thường thấy là những khối u cứng ở thực quản, dạ dày hoặc khí
quản, kích thước bằng hạt đậu đến quả trứng gà, cấu tạo bằng mô liên kết co

giản, có lổ trên đỉnh khối u. Bênh trong rỗng, chứa mủ lẫn máu và giun cuộn
thành búi. Kiểm tra trên kính hiểm vi thấy có trứng giun. Trong những khối u
động mạch thường nhỏ, bên trong chỉ chứa ấu trùng.

Footer Page 17 of 166.

17


Header Page 18 of 166.
2.1.3 Bệnh giun tóc ở chó
2.1.3.1 Vị trí, phân loại
Bệnh do giun Trichocephalus vulpis gây ra. Chó bị nhiễm bệnh do ăn uống
phải trứng giun thời kỳ gây nhiễm. Bệnh thường kết hợp với bệnh giun móc.
Lớp: Nematoda Rudolphi, 1880
Bộ: Trichocephalida Skjabin et Schulz, 1928
Phân bộ: Trichocephalata Skjabin et Schulz, 1928
Họ: Trichocephalidae Braid, 1853
Gống: Trichocephalus Schrank, 1788
Loài: Trichocephalus vulpis Froelich, 1789
Tên: Trichuris vulpis
- Ký chủ cuối cùng: chó nhà
- Nơi ký sinh: manh tràng
- Phát triển: trực tiếp
Những giun tròn thuộc họ Trichocephalidae có đặc điểm phần trước cơ thể
hình sợi mảnh dài hơn phần sau. Thực quản dạng hình ống, có các tuyến thực
quản. Con đực có một gai giao phối dài. Con cái có lổ sinh dục nằm trên đường
ranh giới giữa phần trước và phần sau.
2.1.4.2 Hình thái, cấu tạo
Giun tóc có kích thước nhỏ, dạng roi ngựa hoặc sợi tóc, màu hồng nhạt.

Cơ thể chia thành 2 phần rõ ràng. Thực quản dài tới 2/3 cơ thể. Phần sau
phình to hơn, chứa hệ tiêu hóa và hệ sinh dục,
Giun đực dài 45 – 60.5 mm, đuôi tù thường cong chứa 3 gai giao cấu, một
gai giao cấu dài 8.31 – 11.1 mm.
Giun cái dài 62 – 75 mm đuôi thẳng. Hậu môn ở cuối thân. Lổ sinh sản ở
cuối thực quản, thức quản dài 42 – 56,3 mm. Âm hộ nằm ở phía sau đoạn cuối
thức quản.

Footer Page 18 of 166.

18


Header Page 19 of 166.
Trứng hình hạt chanh, kích thước 0,083 – 0,093 mm x 0,037 – 0,04 mm, có
màu vàng nhạt.

Ảnh 3.5 Hình thái trứng T. vulpis
2.1.4.3 Vòng phát triển
Giun tóc phát triển trực tiếp. Giun trưởng thành ký sinh ở manh tràng vật
chủ thường xuyên đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài gặp điều kiện thuận lợi sau
25 – 26 ngày sẽ phát triển thành ấu trùng gây nhiễm vẩn nằm trong trứng. Chó
ăn, uống phải thức ăn nước uống có chứa ấu trùng gây nhiễm, ấu trùng thoát
khỏi vỏ trứng ở đường tiêu hóa, chui sâu vào niêm mạc ruột già, manh tràng và
phát triển tới dạng trưởng thành.
Theo K.I.Skrjabin và T.V.Orlov, 1957 thời gian phát triển của T. vulpis
trong cơ thể vật chủ mất 30 – 107 ngày.

Ký chủ cuối cùng
Thức

ăn,
nước
uống

Trứng gây nhiễm

Footer Page 19 of 166.

Giun trưởng thành

Trứng
19


Header Page 20 of 166.

Sơ đồ 2.5: Vòng phát triển của Trichuris vulpis
2.1.4.4 Dịch tể học
- Phân bố: Bệnh giun tóc phân bố ở khắp nơi trên thế giới.
- Theo Trịnh Văn Thịnh, (1963) cho biết ở nước ta chó ở hầu hết các tỉnh
phía bắc đều bị nhiễm giun tóc.
- Động vật cảm nhiễm: chó nhà, chó sói, cáo đều cảm nhiễm với T. vulpis.
- Tuổi cảm nhiễm: Chó con 2 – 4 tháng tuổi nhiễm T. vulpis nhẹ hơn chó
trưởng thành.
- Tỷ lệ nhiễm: Theo Phan Đình Lân, Phạm Sỹ Lăng (1979) khi nghiên cứu
tại trại nuôi chó D24 cho biết chó nhiễm T. vulpis là 16,3%. Theo Phạm Văn
Khuê, Trần Văn Quyên, Đoàn Văn Phúc (1993) xét nghiệm đàn chó ở Hà Nội
cho biết tỷ lệ nhiễm T. vulpis là 17,1%.
- Nơi ký sinh: T. vulpis ký sinh ở ruột già của ký chủ.
- Đường lây truyền: Bệnh lây nhiễm trực tiếp do ký chủ ăn, uống phải thức

ăn, nước uống có lẫn trứng giun có chứa ấu trùng gây nhiễm.
- Ảnh hưởng của ngoại cảnh: Điều kiện khí hậu nóng ẩm, môi trường bị ô
nhiễm, thức ăn, nước uống không sạch, không đảm bảo phẩm chất là điều kiện
thuận lợi cho sự lây nhiễm của T. vulpis.

Footer Page 20 of 166.

20


Header Page 21 of 166.
2.1.4.5 Triệu chứng, bệnh tích
Khi chó nhiễm nhẹ triệu chứng không rõ ràng. Khi bị nhiễm nặng vật nuôi
gầy yếu, thiếu máu. Trong phân thường có niêm dịch nhầy, có khi lẫn máu, con
vật bị kiết lị.
Con vật bị chết thì xác gầy, khi mổ khám thì thấy có giun tóc ở ruột già.
Niêm mạc ruột gìa có những nốt loét bằng hạt đậu xanh. Khi bị nhiễm nặng, ruột
già, manh tràng bị xuất có màu hồng sẫm, niêm mạc bị bong tróc ra.
Ngoài các bệnh giun tròn trên ở chó còn gặp một số bệnh khác như: bệnh
giun chỉ ở chó (Filariatosis) do 2 loài giun tròn họ Filariadae, giống Dirofilaria
là Dirofilaria immitis gây bệnh giun chỉ tim và Dirofilariarepes gây bệnh giun
chỉ ở mô dưới da. Bệnh giun lươn ở chó (Strongylodosis) do Strongyloides canis
và bệnh giun thận ở chó (Dioctophymatois) do Dioctophyme renale gây nên.
2.2 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VỀ GIUN TRÒN KÝ SINH Ở
ĐƯỜNG TIÊU HÓA CỦA CHÓ
2.2.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài
Theo Werner, (1782) là người đầu tiên phát hiện ra giun tròn T. canis ký
sinh ở ruột non chó và chó sói. Cho đến tận năm 1941 Petrov đã nghiên cứu và
xác định được vòng đời, phương thức gây nhiễm của T. canis.
Theo nghiên cứu của Linstow (1902) là người phát hiện và mô tả T.

leonine. Sau đó Petrov A.M và Borovkova đã nghiên cứu bổ sung vòng phát
triển và cách thức gây nhiễm.
Nghiên cứu ở Liên Xô cũ, theo Skrjabin K.I, Petrov A.M, 1963 thông báo
tỷ lệ chó nhiễm T. canis do ăn phải trứng chứa ấu trùng gây nhiễm, ăn phải thịt
ký chủ dự trữ có chưa ấu trùng, ngoài ra chó còn bị nhiễm qua bào thai. Chó
trưởng thành nhiễm ít hơn chó còn non.
Ở Mỹ theo nghiên cứu của cocbenber (1977) kiểm tra 387 chó cho thấy tỷ
lệ nhiễm T. canis là 18,9%, T. leonine là 17,9%.

Footer Page 21 of 166.

21


Header Page 22 of 166.
A.L Kolevatova (1957) đã chứng minh bằng thực nghiệm quá trình xâm
nhập của ấu trùng và những tác động bệnh lý của A.caninum và U.stenocephara.
Nghiên cứu tại Australia của D. Nissen (2005) cho biết A. caninum xâm
nhập vào ộng vật như A. braziliense không có khả năng bài tiết các enzym để
thẩm thấu qua ranh giới giữa hai lớp hạ bì và biểu bì. Ấu trùng có thể sống sót
trong da khoảng 10 ngày, sau đó chúng bị chết đi.
Eguie – Aguilar, Crus – Reyer A, Martinez – Maz JJ (2005) mổ khám ruột
non của 120 chó ở thành phố Mexico và cho biết có 102 chó nhiễm giun sán,
trong đó 75 chó (62,5%) nhiễm A.caninum .Các tác giả còn cho biết tỷ lệ nhiễm
A. caninum tăng dần theo lứa tuổi chó, còn T. canis thì phổ biến ở chó con và
nhiễm vào mùa khô.
2.2.2 Sơ lược lịch sử nghiên cứu trong nước
Nước ta với điều kiện nhiệt đới gió mùa ấm quanh năm nên các bệnh ký
sinh trùng nói chung và các bệnh giun tròn nói riêng đã gây nhiều tác hại đáng
kể đến loài chó. Vì vậy từ khá sớm đã có nhiều nhà khoa học quan tâm và đã có

nhiều công trình nghiên cứu lớn.
Vào những năm đầu thế kỷ 20 các công trình nghiên cứu về ký sinh trùng ở
nước ta chủ yếu là các nghiên cứu của một số tác giả người Pháp tại Việt Nam
như Houdemer, Nober, Bauche… Nghiên cứu của các tác giả cho thấy chó ở
Việt Nam nhiễm 29 loài giun, sán. Trong đó A. caninum nhiễm với tỷ lệ cao
nhất 75,87% (trích theo Đỗ Thái Dương và cs, 1978).
Theo nghiên cứu của Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, (1978) cho biết
chó nước ta có thể nhiễm 11 loài giun tròn.
Trịnh Văn Thịnh, Đoàn Văn Phúc và cs, 1993 nhận xết rằng chó non nhiễm
giun đũa và giun móc nặng hơn so với chó trưởng thành.
Phan Địch Lân, Đoàn Văn Phúc, Phạm Sỹ Lăng, (1989) trong hai năm 1985
– 1986 đã theo dõi và điều trị cho 147 trường hợp chó nghiệp vụ và chó cảnh bị
bệnh giun móc, trong đó có 67 trường hợp ở thể cấp tính, chiếm 54,4%, với các

Footer Page 22 of 166.

22


Header Page 23 of 166.
triệu chứng nôn mữa 139 con (chiếm 94,5%), kém ăn hoặc bỏ ăn 128 con
(87,0%), chảy máu ruột 140 con (93,7%), ỉa chảy 121 con (82,3%), thiếu máu,
suy nhược 105 con (71,4%). Cũng theo các tác giả trên thì chó 1 – 4 tháng tuổi
khi bị viêm ruột do giun móc nếu được điều trị không tôt thì tỷ lệ chết rất cao 80
– 90%.
Phạm Văn Khuê, Trần Văn Quyên, Đoàn Văn Phúc (1993) cho biết đàn chó
nuôi tại Hà Nội nhiễm Toxocara canis 20,2 %, Toxascaris leonine 29,4%,
Trichocephalus vulpis 17,1% và Ancylostoma caninum 59,7%.
Theo Trần Xuân Mai (1992) thông báo chó thả rông ở một số tỉnh phía nam
nhiễm giun sán với tỷ lệ 67,11% trong đó tỷ lệ nhiễm giun móc cao nhất là

55,35%.
Ngô Huyền Thúy, Nhữ Văn Thụ (1994) sau khi xét nghiệm phân chó ở Hải
Phòng và Hà Nội nhiễm giun tròn lần lượt là Toxocara canis 27,8% và 27%,
Toxocaris leonine 17,8% và 21,9%, Ancylostoma caninum 67,7% và 62,3%,
Trichocephalus vulpis 13,4% và 12,4%.
Đào Huyền Giang (1995) xét nghiệm phân chó Nhật, chó Fox, chó lai và
chó nội cho biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis là 15,39 – 20%, Toxascaris leonine
là 30,7 – 35%.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Thành (1996) xét nghiệm 100 mẫu
phân chó cảnh cho biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis là 20%, Toxascaris leonine
36,6%.
Lê Hữu Khương, Lương Văn Huấn (1998) xét nghiệm 753 mẫu phân chó,
mổ khám 253 chó khu vực thành phố Hồ Chí Minh cho biết tỷ lệ nhiễm giun
móc lần lượt là 61,62% và 90,51%.
Lê Hữu Nghị, Nguyễn Văn Duệ, (2000) xét nghiện 130 mẫu phân chó nuôi
tại thành phố Huế cho biết tỷ lệ nhiễm Toxocara canis là 58,46%, T. leonine là
40,76%, A. caninum 52,3%.

Footer Page 23 of 166.

23


Header Page 24 of 166.
2.3 NHỮNG TÁC HẠI CỦA GIUN TRÒN ĐỐI VỚI SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI
Sức khỏe của con người là quan trọng nhất, chính vì vậy mà chúng ta quan
tâm đến dịch bệnh của người và động vật hay các hoạt động khác mục đích cuối
cùng cũng là phục vụ sức khỏe và đời sống con người. Trong các loài giun ký
sinh ở đường tiêu hóa của chó trên đây thì T.canis và A. caninum có khả năng

lây nhiễm và gây tác hại lớn đến sức khỏe con người hơn cả.
T. canis trưởng thành sống trong ruột chó, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài.
Gặp điều kiện thuận lợi trứng sẽ phát triển thành dạng chứa ấu trùng cảm nhiễm.
Trứng chứa ấu trùng cảm nhiễm này vào cơ thể con người qua con đường ăn uống.
Đặc biệt là những trẻ em hay nghịch đất, hay ôm ấp chó mèo lại không thường
xuyên rửa tay trước khi ăn. Tại ruột non ấu trùng được giải phóng, thâm nhập thành
ruột, theo hệ thống tuần hoàn phát tán khắp cơ thể nhưu não, mắt, tim…
Khi xâm nhập vào cơ thể người ấu trùng không phát triển thành dạng
trưởng thành mà chỉ là ấu trùng và đi đến cơ quan nào thì đóng kén tại cơ quan
đó, gây viêm và kích thích tạo u hạt thâm nhiễm bạch cầu ái toan, và không bao
giờ bài tiết trứng theo phân.
Trong thời kỳ ấu trùng giun đũa di hành qua phổi gây nên : ho, hen phế
quản, nổi mẩn hoặc khạc ra máu bất thường. Nếu ấu trùng giun đũa cư trú tại
gan, não, tủy sống, mắt, thận, thì tác hại mà nó gây ra cho con người là khó
lường hết được.
Khi bị nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo, người bệnh có thể bị sốt, xanh
xao, gầy ốm, ho khò khè kéo dài. Ở thể nặng khi ấu trùng cư trú tại hệ thần kinh
trung ương, tim, phổi, sẽ dẫn đến hiện tượng co giật toàn thân, phù não, nhức
đầu kéo dài, liệt nửa người, liệt chi dưới, viêm não – màng não và có thể dẫn
đến giảm thị lực dẫn đến lé mắt, mù mắt nếu không phát hiện kịp thời.

Footer Page 24 of 166.

24


Header Page 25 of 166.
Người bị nhiễm giun móc A. caninum do ăn uống phải thức ăn, nước uống
có chứa ấu trùng cảm nhiễm của giun móc, hay do các ấu trùng này xuyên qua
da, nhất là những vùng da mỏng mịn như da giữa các ngón chân, da vùng bụng.

Sau khi xâm nhập qua da ấu trùng L3 từ mao mạch đi vào tuần hoàn máu và lâm
ba đến tim phải rồi đến phổi. Chúng men theo các nhánh phế quản và trải qua
biến đổi thành ấu trùng L4 rồi tiếp tục đi đến khí quản để được nuốt vào ống tiêu
hóa và khu trú tại tá tràng. Chúng phát triển thành ấu trùng L5, rồi thành giun
trưởng thành. Trên người A. caninum không gây miễn dịch cho cơ thể. Các ấu
trùng giun móc ký sinh ở gan thì hình thành các u, hạt; cư trú ở mắt thì có thể
làm tổn thương võng mạc gây mù…, giun móc trưởng thành ở người với số
lượng lớn sẽ gây ra chứng thiếu máu.
Trước phong trào nuôi chó ngày càng tăng, để đánh giá nguy cơ bùng phát bệnh
giun đũa chó theo trào lưu này, các bác sĩ, nhà chuyên môn có lời cảnh báo
không nên cho trẻ em tiếp xúc nhiều với chó, nghịch đất; nên nuôi chó với chế
độ chăm sóc tốt của thú y như kiểm tra định kỳ và điều trị giun cho chó; nên rửa
kỹ rau sống trước khi ăn và không nên ăn thức ăn sống, tái.
2.4 BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ BỆNH GIUN TRÒN TRÊN CHÓ
Skrjabin (1994) đã đưa ra học thuyết phòng trừ tổng hợp bệnh giun sán. Nội
dung chủ yếu của học thuyết là dự phòng có tính chất chủ động, dùng tất cả các
phương thức cơ giới, vật lý, hóa học, sinh vật học để tiêu diệt ký sinh trùng trên
cơ thể ký chủ và ngoại cảnh ở tất cả các giai đoạn phát dục. Để làm tốt công tác
tiêu diệt bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh giun tròn trên chó nói riêng
chúng ta phải nghiên cứu toàn diện về hình thái, sinh thái, địa lý phân bố, điều
tra khu hệ, tìm hiểu lịch sử phát dục của ký sinh trùng, dịch tễ học bênh ký sinh
trùng, các phương pháp điều trị và đề phòng. Ứng dụng học thuyết của
K.I.Skrjabin về phòng trị các bệnh giun tròn trên chó bao gồm:

Footer Page 25 of 166.

25



×