Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hoàn thiện công tác huy động vốn tại Công ty TNHH Thiết bị Minh Tâm.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 77 trang )

Header Page 1 of 166.

LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, cơ hội đầu tư là rất
nhiều nhưng lựa chọn cơ hội đầu tư là vấn đề hết sức quan trọng cũng như
phải có chiến lược cân đối vốn và huy động vốn phù hợp cho các cơ hội đầu
tư đó.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng trở nên
khốc liệt hơn đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình trên thương trường.
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp không ngừng phát triển
cả về số lượng và chất lượng hoạt động kinh doanh. Ngày càng khẳng định
được những đóng góp của mình vào sự phát triển của đất nước. Với nhiều đổi
mới trong chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong những
năm gần đây đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Trong quá trình
tồn tại và phát triển của mình, nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất và nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Chính vì vậy, đối
với các doanh nghiệp để huy động đủ lượng vốn cần thiết là vấn đề quan
trọng. Tuy nhiên có thực tế là các doanh nghiệp gặp khá nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận vốn. Ngoài ra, bản thân các doanh nghiệp cũng còn rất nhiều hạn
chế để tiếp cận vốn.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động vốn để mở rộng sản xuất
và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp những năm
gần đây. Công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm đã chú trọng hơn
trong công tác huy động vốn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù đã có những
kết quả nhất định nhưng khả năng huy động vốn của Doanh nghiệp vẫn còn
hạn chế. Để hoàn thiện hơn công tác huy động vốn tại Doanh nghiệp tôi đã
1

Footer Page 1 of 166.




Header Page 2 of 166.

lựa chọn nghiên cứu đề tài “ Hoàn thiện công tác huy động vốn tại Công ty
trách nhiêm hữu hạn thiết bị Minh Tâm”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa lý luận về đầu tư và huy động vốn của công ty trách
nhiệm hữu hạn.
- Vai trò của đầu tư phát triển đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư và hoàn thiện công tác
huy động vốn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả huy động vốn
cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Đối tượng nghiên cứu: Hoàn thiện công tác huy động vốn tại Công ty
trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm.
- Phạm vi nghiên cứu: thực trạng huy động vốn cho đầu tư của Công ty
trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm, hoàn thiện một số giải pháp huy động
vốn cho đầu tư phát triển của Công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu so sánh, tổng hợp, phép duy vật biện chứng.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
Những đóng góp mới của luận văn:
-Về lý luận: Hệ thống hóa những lý luận chung về đầu tư, huy động
vốn đầu tư của doanh nghiệp

2


Footer Page 2 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 3 of 166.

- Về thực tiễn: Luận văn phân tích đánh giá thực trạng huy động vốn
tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm giai đoạn 2012 - 2015; chỉ
ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; qua đó,
đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện công tác huy động
vốn của công ty trong những năm tới.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và
nhận xét của giáo viên hướng dẫn khoa học, luận văn gồm 3 chương với kết
cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và huy động vốn của
doanh nghiệp
Chương 2 : Thực trạng huy động vốn tại công ty trách nhiệm hữu hạn
thiết bị Minh Tâm trong những năm vừa qua
Chương 3 : Một số giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại
công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị Minh Tâm trong những năm tới

3

Footer Page 3 of 166.


Header Page 4 of 166.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.

VỐN VÀ NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN CỦA DOANH NGHIỆP.

1.1.1. Vốn và vai trò của vốn với hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của vốn.

 Khái niệm vốn:
Theo lý thuyết kinh tế cổ điển thì vốn là một trong những yếu tố đầu
vào để sử dụng trong kinh doanh. Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được
chế tạo để sử dụng kinh doanh như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, bán
thành phẩm … theo quan điểm này vốn được nhìn nhận dưới góc độ hiện vật
là chủ yếu.
Trong cuốn “Kinh tế học”, David Begg đã đưa ra 2 định nghĩa về vốn:
Vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp.Vốn hiện vật là dự trữ các
hàng hoá đã sản xuất để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và
các giấy tờ có giá của doanh nghiệp.
P.Samuelson có quan niệm về vốn trên một giác độ rộng hơn khi ông
cho rằng vốn là “hàng hoá” được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản
xuất mới, là “đầu vào” cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp. Như
vậy vốn kinh doanh có thể tồn tại dưới cả hình thái tiền tệ và hình thái hiện vật
như là: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, hàng hoá trung gian.
Khi nghiên cứu đi từ các yếu tố sản xuất, trong tác phẩm “Tư bản”,
Marx cho rằng vốn đã được khái quát hoá thành phạm trù tư bản trong đó nó
đem lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định
nghĩa về vốn đó có một tầm khái quát lớn vì nó bao quát, bao hàm đầy đủ cả


4

Footer Page 4 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 5 of 166.

bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị cho dù nó có thể
được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau : nhà cửa, tiền của, …Vốn là
giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc
bấy giờ, Marx đã chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất
và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư
cho nền kinh tế.
Như vậy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn nhưng đều thể hiện
vốn là một yếu tố cơ bản, là tiền đề cần thiết cho việc hình thành và hoạt động
sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Vốn của một doanh nghiệp bao
gồm: Vốn con người, vốn công nghệ, vốn tiền tệ …Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, tác giả nghiên cứu vốn tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường,để tiến hành SXKD mỗi doanh nghiệp đòi
hỏi phải có một lượng vốn tiền tệ nhất đinh để đầu tư vào SXKD. Lượng vốn
tiền tệ đó gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh
nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hoá từ hinh thái ban đầu là tiền sang
hinh thái hiện vật và cuối cùng lại trở lại về hình thái ban đầu là tiền. Sự vận
động của VKD như vậy được gọi là sự tuần hoàn của vôn, thể hiện qua sơ đồ
sau:
T – H ----- TLSX (TLLĐ + ĐTLĐ) …sx …H’ – T’ ----- SLĐ
Quá trình vận động của vốn bắt đầu từ việc nhà đầu tư bỏ vốn tiền tệ để

mua sắm các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Lúc này vốn tiền tệ được chuyển
hoá thành vốn dưới hình thức vật chất (Tư liệu lao động, đối tượng lao động,
sức lao động…). Sau quá trình sản xuất, số vốn này kết tinh vào sản phẩm.
Sau quá trình tiêu thụ sản phẩm số vốn này lại quay lại hình thái ban đầu là
vốn tiền tệ.
5

Footer Page 5 of 166.


Header Page 6 of 166.

Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên,
liên tục nên sự tuần hoàn của vốn kinh doanh cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp
lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn kinh doanh.
Từ các phân tích ở trên, có thể định nghĩa tổng quát về VKD như sau:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
giá trị tài sản được huy động, sử dụng đầu tư vào hoạt động SXKD của doanh
nghiệp nhằm mục đích sinh lời.
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với
nền sản xuất hàng hoá. Vốn là tiền, nhưng tiền chưa hẳn là vốn, tiền trở thành
vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Có rất nhiều khái
niệm, thuật ngữ xung quanh và có liên quan tới vốn. Trong các bản báo cáo tài
chính ở các doanh nghiệp có mục Nguồn vốn và Vốn chủ sở hữu. Hay ngay
trong khái niệm vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp cũng có các thuật ngữ:
Vốn pháp định, vốn điều lệ, vốn tự có… Tuy nhiên ở đây, chúng ta sẽ đề cập
đến khái niệm Vốn theo cách hiểu chung nhất như trên để tiến hành tìm hiểu
và phân tích. Chỉ có những tài sản có giá trị được sử dụng vào SXKD mới
được coi là VKD.
* Đặc điểm của vốn:

- Vốn đại diện cho một lượng tài sản nhất định
Vốn là biểu hiện bằng tiền cho giá trị của những tài sản hữu hình và vô
hình như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, nguyên vật liệu, bằng phát minh sáng
chế… Nhưng vốn không đồng nhất với hàng hoá, tiền tệ thông thường. Tiền
tệ, hàng hoá là hình thái biểu hiện của vốn nhưng chỉ khi chúng được đưa vào
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời,
chúng mới được coi là vốn. Với tư cách là vốn, các tài sản của doanh nghiệp
tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng nó không bị tiêu mất đi mà
6

Footer Page 6 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 7 of 166.

được thu hồi giá trị. Nhận thức được đặc trưng này của vốn, các doanh nghiệp
tìm mọi cách để khai thác, sử dụng biến vốn tiềm năng thành vốn hoạt động.
- Vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời
Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của
vốn. Để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời.
Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng
điểm xuất phát và điểm cuối cùng của tuần hoàn phải là giá trị – tiền tệ với giá
trị lớn hơn (T-H-T). Đó là nguyên lý của đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn.
- Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy được tác dụng.
Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phải tập trung một lượng vốn đủ lớn
để mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh và
chủ động trong các phương án sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp

ngoài việc tự huy động vốn còn phải tìm cách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác
nhau (như: phát hành cổ phiếu, liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu…) để
đáp ứng nhu cầu của hoạt động kinh doanh ở một quy mô nhất định.
- Vốn có giá trị về thời gian.
Ngoài yếu tố đầu tư sinh lời, giá trị của đồng tiền còn chịu ảnh hưởng
của yếu tố cơ hội đầu tư, lạm phát, chính trị… Trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, đặc trưng này của vốn dường như không được quan tâm, xem xét kỹ
lưỡng. Việc Nhà nước giao vốn, giao kế hoạch sản xuất, cung cấp nguyên vật
liệu, bao tiêu toàn bộ sản phẩm và vô hình chung đã tạo ra sự ổn định đồng
tiền cho nền kinh tế một cách giả tạo. Trong nền kinh tế thị trường, giá trị thời
gian của vốn ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh cũng như giá trị của
doanh nghiệp. Nhận thức đặc trưng này không những giúp doanh nghiệp so

7

Footer Page 7 of 166.


Header Page 8 of 166.

sánh kết quả kinh doanh một cách đơn thuần mà phải tìm biện pháp bảo toàn
vốn.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu
Trong nền kinh tế thị trường, vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất
định. Chỉ khi xác định rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới được chi tiêu tiết kiệm,
hiệu quả. Ở đây cần phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Tuỳ theo
hình thức đầu tư mà người sở hữu hay người sử dụng có thể đồng nhất hay
tách rời, song dù trường hợp nào thì người sở hữu vốn vẫn được ưu tiên, đảm
bảo quyền lợi và phải được tôn trọng quyền sở hữu của mình. Đây là một
nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Nó cho

phép huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào sản xuất kinh doanh,
đồng thời quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả.
- Trong nền kinh tế thị trường, vốn bằng tiền là một hàng hoá đặc biệt.
Vốn có giá trị và giá trị sử dụng. Việc mua bán vốn bằng tiền (quyền sử
dụng vốn) diễn ra trên thị trường tài chính. Giá cả của nó do quan hệ cung cầu
quyết định. Những người thừa vốn có thể đưa vốn đến thị trường, những
người cần vốn thì đến thị trường để mua hoặc vay vốn, họ phải trả một khoản
tiền nhất định theo một tỷ lệ lãi suất để được sử dụng vốn trong một thời gian
nhất định. Quyền sở hữu vốn vẫn thuộc về người chủ nợ (quyền sở hữu và
quyền sử dụng tách rời nhau thông qua quan hệ mua bán vay mượn). Đặc
trưng này đã làm phát sinh khái niệm chi phí sử dụng vốn trong nền kinh tế thị
trường. Nhận thức điều này, các chủ doanh nghiệp cần tìm biện pháp khai thác
nguồn vốn có hiệu quả và chi phí thấp nhất, tận dụng tối đa chức năng này của
vốn không gây lãng phí.
- Vốn biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau

8

Footer Page 8 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 9 of 166.

Vốn không chỉ biểu hiện bằng tài sản hữu hình mà còn bao gồm cả
những tài sản vô hình như: bằng phát minh sáng chế, lợi thế thương mại, bản
quyền, vị trí kinh doanh… Nhận thức được đặc trưng này, các doanh nghiệp
cần có biện pháp khai thác, tạo lập vốn để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản
xuất kinh doanh của từng đơn vị.

1.1.1.2. Thành phần vốn của doanh nghiệp gồm có:
Dựa vào những tiêu thức nhất định có thể chia vốn của doanh nghiệp
thành các loại sau:
- Theo cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp có thể chia thành các
loại:
+ Vốn Đầu tư xây dựng cơ bản (hay đầu tư về Tài sản cố định).
Đây là khoản đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định của doanh nghiệp và
thông thường doanh nghiệp phải sử dụng một khoản vốn lớn để thực hiện đầu
tư tài sản cố định thông qua việc xây dựng hoặc mua sắm.
+ Vốn đầu tư về vốn lưu động thường xuyên.
Đây là khoản đầu tư để hình thành nên tài sản lưu động tối thiếu thưởng
xuyên cần thiết (nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu...) đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành hoạt động bình thường. Tùy
thuộc vào mô hình tổ chức nguồn vốn mà có thể đầu tư một phần hoặc toàn
bộ tài sản lưu động thường xuyên cần thiết tương ứng với một quy mô kinh
doanh nhất định.
+ Góp vốn liên doanh dài hạn và đầu tư vào tài sản tài chính.
Đây là các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có nhiều hình thức liên doanh, liên
kết. Trong đó có hình thức liên doanh dài hạn, các doanh nghiệp tham gia góp
vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian tương đối dài, chịu trách nhiệm
chung và phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp. Liên
9

Footer Page 9 of 166.


Header Page 10 of 166.

doanh này có thể thực hiện trong khuôn khổ một doanh nghiệp đã có sẵn, các

tổ chức, doanh nghiệp khác góp vốn vào liên doanh với doanh nghiệp đó hoặc
cũng có thể thực hiện liên doanh bằng cách cùng góp vốn để lập nên một
doanh nghiệp mới. Ngoài việc tham gia liên doanh trong điều kiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác
có thể tham gia đầu tư vốn dài hạn vào các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
khác dưới các hình thức mua cổ phần, mua trái phiếu dài hạn của doanh
nghiệp khác phát hành... Doanh nghiệp sẽ nhận được khoản thu nhập từ các
cổ phiếu, trái phiếu đã mua.
-

Theo mục tiêu đầu tư .

Căn cứ vào mục tiêu của sự đầu tư có thể chia vốn đầu tư của doanh
nghiệp ra thành các loại sau:
+ Đầu tư hình thành doanh nghiệp: Bao gồm các khoản đầu tư ban đầu
để thành lập doanh nghiệp.
+ Đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh: Là toàn bộ các khoản đầu tư
nhằm mở rộng thêm các phân xưởng mới hay các đơn vị trực thuộc.
+ Đầu tư thay thế, hiện đại hóa máy móc: Là khoản đầu tư thay thế
hoặc đổi mới các trang thiết bị cho phù hợp với tiến bộ khoa học kỹ thuật,
nhằm duy trì hoặc tăng khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
+ Đầu tư ra bên ngoài: Là sự đầu tư góp vốn thực hiện liên doanh dài
hạn với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, đầu tư về tài sản tài chính
khác...
Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể kiểm soát được tình
hình thực hiện đầu tư theo những mục tiêu nhất định mà doanh nghiệp đặt ra
trong một thời kỳ và có thể tập trung vốn và biện pháp thích ứng để đạt được
mục tiêu đầu tư đã đề ra.
-


Phân loại theo phạm vi đầu tư.
10

Footer Page 10 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 11 of 166.

+ Đầu tư trong nội bộ doanh nghiệp: Là việc sử dụng vốn để đầu tư
nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư hiện đại hóa kỹ thuật công nghệ
hiện có.
Hoạt động đầu tư này hiện nay diễn ra chủ yếu trong các doanh nghiệp
nhằm hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật để tăng năng xuất lao động, giảm
giá thành.
+ Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp: Đây là hoạt động đầu tư mà doanh
nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào các doanh nghiệp khác nhằm mở rộng quy
mô hoạt động hoặc đầu tư tài chính nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Hiện
nay các doanh nghiệp đã và đang triển khai thực hiện mạnh hoạt động đầu tư
này.
+ Đầu tư ra nước ngoài: Đây là hoạt động mà doanh nghiệp sử dụng
vốn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm thành lập các công ty tại nước
ngoài. Hoạt động đầu tư này sẽ thừa hưởng khoa học công nghệ cao và tiếp
cận được kỹ năng quản lý của các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay hoạt
động này chưa được phát triển do nặng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam còn kém và vốn đầu tư còn hạn chế.
-

Theo phương thức đầu tư:


+ Đầu tư trực tiếp: Là phương thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực
tiếp tham gia quản lý kinh doanh. Có 2 hình thức đầu tư trực tiếp đó là:
Đầu tư dịch chuyển là hình thức đầu tư trong đó bỏ vốn mua lại một số
cổ phần đủ lớn để được quyền chi phối doanh nghiệp khác. Trong hình thức
đầu tư này chỉ có sự thay đổi về quyền sở hữu. Tài sản được dịch chuyển từ
doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, không có sự gia tăng tài sản của
doanh nghiệp.

11

Footer Page 11 of 166.


Header Page 12 of 166.

Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư của doanh nghiệp mà kết quả tạo
dựng nên những năng lực mới (về lượng hay về chất) cho các hoạt động sản
xuất, kinh doanh để làm phương tiện sinh lời.
+ Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư bằng cách mua các chứng chỉ có
giá như: cổ phiếu, trái phiếu... để hưởng lợi tức (giá trị đầu tư ở mức thấp
không đủ điều kiện tham gia quản lý công tác kinh doanh của doanh nghiệp
khác).
1.1.1.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp dù hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng cần có
lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó dùng để thực hiện các khoản đầu tư cần
thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua sắm tài sản cố định,
nguyên vật liệu ... Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật
chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm, dịch vụ khác nhau phục vụ nhu cầu
thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau khâu tiêu thụ sản phẩm, dịch

vụ phải bù đắp được các chi phí bỏ ra, đồng thời phải có lãi. Quá trình này
diễn ra liên tục đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.1.2. Nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp
Sau khi đã quyết định đầu tư, một trong những quyết định quan trọng
tiếp theo là quyết định tài trợ cho nhu cầu vốn đầu tư đó. Doanh nghiệp cần
phải lựa chọn cân nhắc nên huy động vốn từ nguồn tài trợ nào. Căn cứ vào
phạm vi huy động vốn, các nguồn tài trợ nhu cầu đầu tư dài hạn của doanh
nghiệp được chia thành: nguồn tài trợ bên trong và nguồn tài trợ bên ngoài.
1.1.2.1. Nguồn vốn huy động bên trong doanh nghiệp
- Nguồn vốn bên trong:

12

Footer Page 12 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 13 of 166.

Nguồn vốn bên trong là nguồn vốn có thể huy động được và đầu tư từ
chính hoạt động của bản thân doanh nghiệp tạo ra. Nguồn vốn bên trong thể
hiện khả năng tài trợ của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn bên trong mà doanh nghiệp huy động để đầu tư phát
triển bao gồm:
+ Vốn góp ban đầu của chủ sở hữu: Đây là số vốn ban đầu do các thành
viên sáng lập góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Trong quá trình
sản xuất kinh doanh, vốn chủ sở hữu sẽ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh và chiến lược huy động vốn của doanh nghiệp.
Ngoài nguốn vốn đầu tư ban đầu khi thành lập doanh nghiệp, trong quá

trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vẫn phải
tiếp tục thực hiện các hoạt động đầu tư dài hạn nhằm thay thế các tài sản cố
định khi đã hư hỏng hoặc lạc hậu. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu đầu tư
tăng trưởng mở rộng kinh doanh, các doanh nghiệp cũng cần phải bổ sung
vốn đầu tư dài hạn vào các tài sản cố định và tài sản lưu động.
Khi doanh nghiệp có thể huy động từ vốn bổ sung thêm do chủ sở hữu
góp thêm hoặc do tăng vốn từ lợi nhuận sau thuế không chia ( hay lợi nhuận
để lại tái đầu tư).
+ Lợi nhuận để lại tái đầu tư:
Về nguyên tắc lợi nhuận sau thuế thuộc sở hữu của các cổ đông. Vào
cuối năm tài chính, thông thường cổ đông được nhận cổ tức từ thu nhập sau
thuế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các cổ động sẽ đồng ý cho doanh
nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư mà không nhận cổ tức.
Xét về mặt kế toán, khi doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư thì
doanh nghiệp không phải trả lại một khoản chi phí nào cho việc sử dụng
nguồn vốn này. Tuy nhiên, trên góc độ tài chính phải tính đến chi phí cơ hội
của số lợi nhuận giữ lại. Chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư là tỷ suất
13

Footer Page 13 of 166.


Header Page 14 of 166.

sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường của công ty. Vì vậy, nếu
doanh nghiệp muốn giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải đảm
bảo sẽ tạo mức lợi nhuận lớn hơn để trả cho cổ động mức cổ tức cao hơn mức
cổ tức hiện tại.
Lợi nhuận để tái đầu tư là nguồn vốn tích lũy được do hiệu quả sản xuất
kinh doanh mang lại đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng trưởng của doanh nghiệp.

Như vậy lợi nhuận để tái đầu tư là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất mở
rộng, nguồn vốn này là cơ sở đánh giá hiệu quả phát triển của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn khấu hao tài sản cố định:
Tài sản cố định trong quá trình sử dụng chịu sự tác động của hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình. Chính vì vậy hàng năm, doanh nghiệp phải
trích khấu hao và tiền khấu hao được tích lũy lại nhằm tạo thành một quỹ
khẩu hao dùng để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định hay đầu tư lại tài sản
đó khi đã hết hạn sử dụng. Tuy nhiên, do thời gian sử dụng của các tài sản cố
định thường rất dài, phải sau nhiều năm mới cần thay đổi mới. Vì vậy, trong
khi chưa có nhu cầu thay thế tài sản cố định cũ, các doanh nghiệp có thể sử
dụng số tiền khấu hao chưa có nhu cầu thay thế TSCĐ để đáp ứng nhu cầu
đầu tư tăng trưởng của mình.
Khi thời gian sử dụng tài sản cố định được rút ngắn, giá trị khấu hao
tính vào giá thành sẽ cao, thu hồi vốn khấu hao nhanh nhưng dẫn đến giá
thành cao nên ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Tuy nhiên, khi doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư phát triển thì khấu hao nhanh
cũng là một trong những phương pháp quan trọng nhanh chóng tạo nguồn vốn
lớn để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng.
+ Nguồn vốn bên trong khác: như tiền nhượng bán tài sản vật tư không
cần dùng hoặc khoản thu nhập ròng về thanh lý tài sản cố định để đáp ứng
nhu cầu nguồn vốn đầu tư dài hạn của mình.
14

Footer Page 14 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 15 of 166.


Trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển đầy đủ và hoạt
động một cách hiệu quả thì nguồn vốn huy động trong nội bộ của doanh
nghiệp là nguồn vốn rất quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc mở rộng
sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh...
Nguồn vốn bên trong có ưu điểm: doanh nghiệp có thể chủ động sử
dụng nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp mà
không phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn và giữ được quyền kiểm soát đối
với đoanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn bên trong cũng bộc lộ những hạn
chế nhất định:
Hiệu quả sử dụng vốn thường không cao. Nguyên nhân chủ yếu là do
khi sử dụng vốn bên trong sẽ không phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo kỳ hạn
cố định. Vì vậy dễ dấn đến không tạo áp lực cho ban lãnh đạo doanh nghiệp
trong việc cân nhắc, tính toán hiệu quả sử dụng vốn cho đầu tư. Đây là lý do
chủ yếu dẫn đến hiệu quả sử dụng các dự án tài trợ bằng các nguồn vốn bên
trong thường đạt hiệu quả không cao so với các dự án tài trợ bằng nguồn vốn
huy động bên ngoài.
Sự giới hạn về mặt quy mô nguồn vốn. Quy mô nguồn vốn bên trong
quyết định đến quy mô đầu tư, quy mô huy động vốn cho đầu tư và tính khả
thi của dự án đầu tư. Tuy nhiên, thông thường nguồn vốn bên trong không đủ
đáp ứng nhu cầu cho đầu tư, nhất là đối với các doanh nghiệp đang trong quá
trình tăng trưởng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn
từ bên ngoài doanh nghiệp.
1.1.2.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư không chỉ đơn thuần là để tái sản xuất giản đơn mà là
đầu tư để tái sản xuất mở rộng, đây mới là chiến lược đầu tư lâu dài của các
doanh nghiệp. Để thực hiện các dự án đầu tư, trường hợp đã huy động hết các
15

Footer Page 15 of 166.



Header Page 16 of 166.

nguồn vốn bên trong doanh nghiệp mà vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu vốn
đầu tư thì các doanh nghiệp buộc phải tìm kiếm các nguồn tài trợ bên ngoài.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều
hình thức và phương pháp mới cho phép doanh nghiệp huy động vốn từ bên
ngoài. Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ bên ngoài chủ yếu sau:
+ Vay Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác.
+ Huy động vốn góp liên doanh, liên kết.
+ Tín dụng thương mại của nhà cung cấp.
+ Thuê tài sản.
+ Huy động vốn bằng phát hành chứng khoán qua thị trường chứng
khoán. (Đối với một số loại hình doanh nghiệp).
Khi huy động vốn cho đầu tư phát triển, thông thường nhà quản lý
doanh nghiệp phải giải quyết, cân nhắc các vấn đề sau:
+ Xác định cơ cấu vốn chủ sở hữu và vốn huy động bên ngoài.
+ Lựa chọn hình thức huy động vốn sao cho có thể hấp dẫn các nhà đầu
tư để huy động vốn được thành công. Đồng thời đảm bảo doanh nghiệp tiết
kiệm được chi phí sử dụng vốn.
 Vay vốn dài hạn của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng khác.
Trong nền kinh tế thị trường, việc huy động vốn từ nguồn vốn tín dụng
ngân hàng, các tổ chức tài chính, tín dụng là một trong những nguồn quan
trọng để tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Huy động vốn từ các nguồn vốn này
giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng tài trợ cho việc mở rộng và phát triển
sản xuất kinh doanh, đồng thời doanh nghiệp cũng có thể phản ứng linh hoạt
trước những biến động của nền kinh tế. Nếu điều kiện kinh tế không thuận lợi,
gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh doanh nghiệp có thể thông qua việc

hoàn trả nợ vay để thu hẹp quy mô kinh doanh. Nhưng nếu điều kiện kinh
16

Footer Page 16 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 17 of 166.

doanh thuận lợi, doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô kinh doanh thì có thể
huy động thêm vốn vay cũng khá dễ dàng nhất là với doanh nghiệp làm ăn có
uy tín.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay dài hạn ngân
hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các dự án đầu tư mới, mở rộng hoặc đầu
tư chiều sâu của doanh nghiệp. Theo tính chất và mục đích sử dụng tiền vay,
có thể phân chia vay dài hạn ngân hàng thành các loại:
+ Vay đầu tư tài sản cố định.
+ Vay hình thành vốn lưu động thường xuyên.
Vay vốn đầu tư của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
khác là phương thức huy động vốn tài hạn được các doanh nghiệp áp dung
phổ biến nhất hiện nay.
 Nguồn vốn tín dung ngân hàng có ưu điểm sau:
+ Góp phần tăng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng nhu
cầu đầu tư.
+ Không làm mất quyền quản lý, quyền kiểm soát đối với doanh
nghiệp.
Khi các chủ sở hữu doanh nghiệp không muốn chia sẻ quyền quản lý và
kiểm soát doanh nghiệp cho các thành viên mới, họ có thể sử dụng một kênh
huy động là thông qua vay dài hạn với các tổ chức tài chính, tín dụng.

+ Chi phí tài trợ thấp.
Do người vay thường thương lượng trực tiếp với nhà tài trợ nên đã
giảm thiểu chi phí tài trợ vốn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp lựa chọn các dịch
vụ tốt nhất của các ngân hàng để huy động vốn và có chi phí sử dụng vốn rẻ
hơn chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu.
+ Doanh nghiệp lựa chọn được loại tiền tệ đi vay có hiệu quả nhất, phù
hợp với nhu cầu sử dụng vốn cho dự án đầu tư.
17

Footer Page 17 of 166.


Header Page 18 of 166.

 Bên cạnh những ưu điểm thì nguồn tài trợ này cũng có những nhược
điểm sau:
+ Đối với các doanh nghiệp nhỏ, quy mô vốn ít, chưa có uy tín thì việc
vay vốn ngân hàng là hết sức khó khăn do các điều kiện tín chụng chặt chẽ
như phải có phương án kinh doanh khả thi, phải có tài sản đảm bảo cho số
tiền vay.
+ Doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng đối với việc huy
động và sử dụng tiền vay, chi phí sử dụng vốn (lãi tiền vay).
+ Việc huy động nguồn vốn vay dài hạn của doanh nghiệp từ các ngân
hàng thương mai, các tổ chức tài chính tín dụng khác nhau (các công ty tài
chính, công ty bảo hiểm, quỹ hỗ trợ phát triển,...) cũng chỉ có giới hạn nhất
định. Do các tổ chức này cũng là người đi vay rồi cho vay vốn. Thêm vào đó
các ngân hàng thương mại thường đặt trọng tâm vào thị trường tín dụng ngắn
hạn. Hiện nay cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng trên 70% tổng hạn mức tín
dụng của phân hàng, phần còn lại là cho vay trung và dài hạn. Còn với các tổ
chức tài chính tín dụng khác lại chịu sự hạn chế về vốn điều lệ hoặc giới hạn

của luật pháp về phạm vi huy động vốn. Vì vậy, quy mô nguồn vốn tín dụng
mà doanh nghiệp có thể huy động từ các tổ chức tài chính tín dụng này có
nhiều hạn chế.
Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có thể tính tới khả năng huy
động vốn vay dài hạn khác trên thị trường thông qua phát hành trái phiếu
doanh nghiệp ( hay trái phiếu công ty) hoặc sử dụng thuê tài chính.
 Huy động vốn qua hình thức thuê tài chính.
Một trong những giải pháp tài trợ quan trọng cho việc mua các tài sản
của doanh nghiệp đó là thuê tài chính. Thuê tài chính còn gọi là thuê vốn là
phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn không thể hủy ngang. Theo
phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu
18

Footer Page 18 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 19 of 166.

của người thuê và nắm giữu quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Người
thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong thời hạn đã thỏa thuận.
Không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Kết thúc thời hạn thuê, bên thuê
được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tùy theo các
điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
Theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC), có 4 tiêu chuẩn làm cơ
sở chung để phân loại và nhận biết các hợp đồng thuê tài sản:
- Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi
kết thúc hợp đồng không? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính.
- Hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp

đồng với giá thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng
không? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính.
- Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng
của tài sản? Nếu thỏa mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính.
- Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả bằng
hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản ở thời điểm ký kết hợp đồng? Nếu
thỏa mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính.
Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thỏa mãn một trong bốn tiêu
chuẩn trên đều thuộc phương thức thuê tài chính.
Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại của IASC, mỗi quốc gia đều có quy
định cụ thể về tiêu chuẩn nhận biết thuê tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể
của nước mình. Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành (Nghị định
65/2005/NĐ-CP), một giao dịch cho thuê tài chính phải thỏa mãn một trong
các điều kiện sau:
-

Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền

sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.

19

Footer Page 19 of 166.


Header Page 20 of 166.

-

Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê,


bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp
hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
-

Thời hạn cho thuê của tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời

gian sử dụng kinh tế của tài sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở
hữu.
-

Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh

toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê.
Thông thường, trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho
thuê theo định kỳ bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, chi phí quản lý và
phần lợi nhuận hợp lý. Do vậy, nếu xét theo góc độ người thuê thì thuê tài
chính là một hình thức vay trung hạn hoặc dài hạn còn theo góc độ người cho
thuê thì đây là hình thức tài trợ tín dụng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hình thức giao
dịch thuê tài chính cũng phát triển ngày càng phong phú, đa dạng. Các hình
thức giao dịch thuê tài chính điển hình bao gồm:
+ Thuê tài chính với sự tham gia của ba bên.
+ Thuê tài chính với sự tham gia của hai bên.
+ Bán và thuê lại.
+ Thuê giáp lưng.
+ Thuê mua trả góp.
 Đối với các doanh nghiệp sử dụng thuê tài chính có những điểm lợi
sau:
- Sử dụng hình thức thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp không phải

huy động tập trung tức thời lượng vốn lớn để mua tài sản.
Do vậy, doanh nghiệp vẫn mở rộng được sản xuất kinh doanh và chiếm
lĩnh thị trường mà không phụ thuốc vào quy mô cũng như sự eo hẹp về vốn
20

Footer Page 20 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 21 of 166.

của mình. Mặt khác, việc sử dụng hình thức bán và thuê lại có thể giúp cho
doanh nghiệp tăng thêm vốn lưu động.
- Sử dụng phương thức thuê tài chính giúp doanh nghiệp ( nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ) có thể dễ dàng trong việc huy động sử dụng vốn
vay.
Do đặc thù của thuê tài chính là người cho thuê không đòi hỏi người đi
thuê phải thế chấp tài sản (mặc dù có thể trả trước một tỷ lệ tiền thuê ban
đầu). Đây là ưu thế rất lớn của thuê tài chính so với tín dụng thông thường.
Điều này rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh
nghiệp mới thành lập chưa có nhiều uy tín với ngân hàng trong việc huy đông
các nguồn vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh.
- Sử dụng phương thức thuê tài chính giúp doanh nghiệp thực hiện
nhanh chóng dự án đầu tư, nắm bắt các thời cơ trong kinh doanh.
Doanh nghiệp giảm thiểu thời gian đầu tư làm tăng cơ hội kinh doanh
và chiếm lĩnh thị trường. Trong phương thức thuê tài chính, người thuê có
quyền chọn tài sản, thiết bị và thỏa thuận trước hợp đồng thiết bị với nhà sản
xuất hay người cung ứng, sau đó mới yêu cầu bên cho thuê (công ty cho thuê
tài chính) tài trợ, vì vậy sẽ rút ngắn thời gian tiến hành đầu tư vào tài sản, thiết

bị.
- Giúp doanh nghiệp đi thuê nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ.
Thông thường các tài sản cố định thuê tài chính có thời gian thu hồi
vốn trong khoảng thời gian từ 60 – 70% thời gian sử dụng hữu ích của tài sản.
Điều này tạo điều kiện để các doanh nghiệp đi thuê có thể thu hồi vốn nhanh,
phục vụ kịp thời nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao không ngừng
hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Ngoài ra với việc xác định thời hạn thanh toán linh hoạt hơn so với vay
của ngân hàng: có thể trả theo từng tháng hoặc từng mùa vụ phù hợp với
21

Footer Page 21 of 166.


Header Page 22 of 166.

doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đỡ căng thẳng về mặt tài chính, yên tâm hơn
trong việc tiến hành sản xuất kinh doanh.
 Nhược điểm:
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn. Vì
vậy nó cũng bộc lộ hạn chế, đó là doanh nghiệp đi thuê phải chịu chi phí sử
dụng vốn ở mức tương đối cao so với tín dụng thông thường. Ngoài ra, do
thời hạn thuê dài và không được phép hủy ngang hợp đồng vì vậy bên thuê có
thể phải gánh chịu nhiều rủi ro như rủi ro về tài chính ( sự biến động của tỷ
giá hối đoán, về lạm phát, về lãi suất ...), bên cạnh đó là các rủi ro về tài sản (
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm, ... ),
về sự biến động của cơ chế chính sách của Nhà nước.
Như vậy, việc sử dụng công cụ thuê tài chính sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp thực hiện đổi mới máy móc thiết bị, mở rộng quy mô sản
xuất, tận dụng được cơ hội kinh doanh nhằm gia tăng giá trị của doanh

nghiệp. Tuy nhiên, việc thuê mua tài chính cũng có bất lợi lớn khi giá trị thuê
mua cấu thành trong chi phí lớn ( đặc biệt là chi phí sử dụng vốn ) sẽ làm tăng
giá thành ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hiện nay, Việt Nam đã có 8 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động
gồm 5 công ty trực thuộc ngân hàng thương mại Nhà nước và 3 công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra có rất nhiều các công ty tài chính, quỹ đầu tư
đã và đang tiếp tục được phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Về vốn tự có
thì mức vốn pháp định do Chính phủ quy định đối với công ty cho thuê tài
chính trong nước là 50 tỷ đồng, đối với công ty 100% vốn nước ngoài là 5
triệu USD. Các công ty thực hiện nhiều nghiệp vụ cho thuê khác nhau, đa
dạng hóa các tài sản cho thuê, phương thức thuê, mở rộng quy mô đối tượng
cho thuê và thành phần khách hàng tham gia. Hoạt động cho thuê tài chính đã
và đang hỗ trợ tích cực trong việc cung cấp các giải pháp tài chính cho doanh
22

Footer Page 22 of 166.

Thang Long University Libraty


Header Page 23 of 166.

nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do có khả năng cung cấp
nguồn vốn trung và dài hạn của các công ty do thuê tài chính do doanh nghiệp
nên hoạt động của loại hình tín dụng này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát
triển của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, khi cần vốn để đổi mới máy móc, công nghệ... thay vì đến
các công ty cho thuê tài chính, các doanh nghiệp lại tìm đến các ngân hàng
mặc dù thủ tục và điều kiện cho vay ở đây rất chặt chẽ. Nếu như ở các nước
phát triển, tỷ trọng của thị trường cho thuê tài chính đối với thì trường tín

dụng vào khoảng 15 – 20% thì ở Việt Nam tỷ lệ này mới đạt 1,4%. Do vậy,
dịch vụ này ở Việt Nam chưa có đóng góp đáng kể cho các doanh nghiệp
trong việc huy động vốn và cải tiến công nghệ.
 Huy động vốn góp liên doanh, liên kết.
Đây là hình thức doanh nghiệp kêu gọi vốn góp liên doanh từ bên
ngoài, đầu tư vốn vào doanh nghiệp mình để cùng nhau thực hiện một kế
hoạch kinh doanh hoặc một dự án cụ thể có tính khả thi. Huy động vốn liên
doanh liên kết là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá phổ biến trong
nền kinh tế thị trường.
Trong hình thức kiên doanh các doanh nghiệp tham gia góp vốn sản
xuất kinh doanh trong thời gian tương đối dài, chịu trách nhiệm chung và
phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp. Liên doanh này
có thể thực hiện trong khuôn khổ một doanh nghiệp đã có sẵn, các tổ chức,
doanh nghiệp khác góp vốn vào liên doanh với doanh nghiệp đó hoặc cũng có
thể thực hiện liên doanh bằng cách cùng góp vốn để lập nên một đơn vị kinh
tế mới. Hình thức liên doanh, liên kết có thể được chia ra làm hai trường hợp
chủ yếu sau:
- Liên doanh để thu hút vốn đầu tư nhằm mở rộng sản xuất.

23

Footer Page 23 of 166.


Header Page 24 of 166.

Đây là hình thức huy động vốn của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
khác cùng góp vốn vào doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh, hình thức liên doanh này có đặc điểm:
+ Hình thức này áp dụng khi doanh nghiệp thiếu vốn và không thể huy

động từ các nguồn khác để bù đắp thiếu hụt về vốn để đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh.
+ Có thể liên doanh thành lập một doanh nghiệp mới và có thể góp vốn
liên doanh ngay trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phân phối kết quả thu được sau khi đã thực hiện nghĩa vụ với Nhà
nước.
- Liên doanh nhằm khai thác tối đa lợi thế của các bên liên doanh.
Đây cũng là hình thức liên doanh tương đối phổ biến. Mỗi bên liên
doanh có những lợi thế riêng như: uy tín, công nghệ, thị trường, bí quyết công
nghệ... cùng góp vốn để liên doanh nhằm khai thác tối đa lợi thế của các bên.
Hình thức này có đặc điểm:
+ Thông thường các doanh nghiệp, nhà đầu tư góp vốn để liên doanh
thành lập doanh nghiệp mới để sản xuất bán sản phẩm vào thị trường còn bỏ
ngỏ, thị trường ngách.
+ Liên doanh để sản xuất sản phẩm hàng hóa mới, khác biệt so với các
sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong nước để kinh doanh tại thị trường trong
nước và xuất khẩu.
+ Hình thành nên các Công ty con của các doanh nghiệp có vốn góp và
là điều kiện để áp dụng khoa học kỹ thuật cao.
Như vậy, việc huy động vốn liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp
khác về bản chất cũng là một kênh huy động vốn của doanh nghiệp để thực
hiện đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật. Doanh nghiệp có thể liên
doanh với các loại hình doanh nghiệp khác nhau như doanh nghiệp nhà nước,
24

Footer Page 24 of 166.

Thang Long University Libraty



Header Page 25 of 166.

doanh nghiệp tư nhân hoặc với các công ty nước ngoài. Với hình thức này,
doanh nghiệp không chỉ huy động đủ số vốn cho hoạt động kinh doanh của
mình mà còn thu hút được công nghệ mới hoặc kinh nghiệm của các đối tác,
đồng thời chia sẻ rủi ro trong kinh doanh.
 Huy động vốn từ thị trường chứng khoán.
Thông qua thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thể huy động được
một số lượng vốn nhàn rỗi lớn trong dân cư để phục vụ đầu tư dài hạn đáp
ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới.
Khi thị trường chứng khoán càng phát triển, các công cụ huy động vốn càng
trở nên phong phú, đa dạng, doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng các công
cụ tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi, chứng chỉ quỹ đầu tư
chứng khoán...
Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu (đối với công ty TNHH và
công ty cổ phần) hoặc cổ phiểu (đối với công ty cổ phần) để huy động vốn
cho dự án đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất. Khi đó chi phí sử dụng vốn hay
lãi suất phải trả sẽ do thị trường tài chính xác định. Thị trường tài chính hoạt
động càng hiệu quả thì chi phí sử dụng vốn càng phản ánh đúng bản chất rủi
ro của đầu tư và khả năng chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư trên thị trường.
Điều này nói chung dẫn đến chi phí vốn thấp hơn và khả năng thu hút nguồn
vốn cũng thuận lợi hơn.
Các hình thức huy động vốn đầu tư từ thị trường chứng khoán của
doanh nghiệp:
 Huy động vốn từ phát hành cổ phiếu thường.
Để đáp ứng nhu cầu tăng vốn mở rộng kinh doanh, doanh nghiệp có thể
lựa chọn phương pháp huy động tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu
thường. Các nhà đầu tư dựa trên những thông tin của doanh nghiệp và thông
tin của các công ty chứng khoán, tư vấn chứng khoán để quyết định lựa chọn
25


Footer Page 25 of 166.


×