Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hội nhập kinh tế quốc tế với việc gia nhập WTO của nước ta sẽ thúc đẩy cạnh
tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng sẽ phải
hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng không
những thúc đẩy hiệu quả trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn
tăng cường hiệu quả trong kinh doanh của mỗi ngân hàng. Khả năng cạnh
tranh giữa các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với các
đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai
thác thị trường. Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh do mở rộng
khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các khu vực thị trường mới, các
nhóm khách hàng có mức độ rủi ro thấp.
Các ngân hàng trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường
tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các
chi phí cơ hội. Nguồn vốn trên thị trường tài chính trong nước trở nên sẵn có
hơn và được phân bổ hiệu quả không chỉ do nguồn vốn quốc tế mà còn do
tăng khả năng huy động các nguồn tiết kiệm nội địa nhờ tác động của tự do
hoá tài chính và đầu tư.
Tuy nhiên, việc gia nhập WTO đồng nghĩa với sự gia tăng áp lực cạnh tranh
từ phía các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ,
trình độ quản lý và hệ thống sản phẩm đa dạng, có chất lượng cao hơn và có
thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Bên cạnh đó, do xuất phát điểm và trình độ phát triển của ngành ngân hàng
nước ta còn thấp, cả về công nghệ, trình độ tổ chức, quản lý và chuyên môn
nghiệp vụ. Tốc độ mở cửa nền kinh tế còn chậm, khả năng huy động vốn
trong nội bộ nền kinh tế còn thấp, nhất là vốn trung dài hạn và tiết kiệm nội
địa, hầu hết các ngân hàng chưa có chiến lược kinh doanh hợp lý để có thể
vươn ra trên thị trường quốc tế.
Nguyền Thị Thuý Hiền 1 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới. Các ngân hàng phải có chiến lược huy động vốn sao cho có hiệu quả
đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của nền kinh tế. Và kế toán huy động vốn
cũng đóng vai trò khá quan trọng để làm sao cho vốn huy động được an toàn,
tránh mất mát tài sản của ngân hàng, quan tâm đến lợi ích của khách hàng và
đảm bảo được tính cạnh tranh giữa các ngân hàng . Với kiến thức được học
tại trường cũng như thu thập được trong quá trình thực tập tại chi nhánh ngân
hàng Đầu Tư và Phát Triển Nghệ An em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp
hoàn thiện kế toán huy động vốn tại chi nhánh NH Đầu Tư và Phát Triển
Nghệ An" làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Khoá luận trình bày cơ sở lý luận về huy động vốn và kế toán huy
động vốn của ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng công tác kế toán huy động vốn tại chi nhánh NH
ĐT và PT Nghệ An, để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả công tác kế toán huy động vốn tại chi nhánh.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Khoá luận sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, luận giải,
thống kê.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Khoá luận tập trung nghiên cứu thực trạng kế toán huy động vốn tại chi
nhánh NHĐT&PT Nghệ An. Số liệu chủ yếu là năm 2005, năm 2006, năm
2007.
5. Kết cấu của khoá luận.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về huy động vốn và kế toán huy động vốn tại
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHĐT&PT
Nghệ An.
Nguyền Thị Thuý Hiền 2 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán huy
động vốn tại chi nhánh NHĐT&PT Nghệ An.
Nguyền Thị Thuý Hiền 3 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Chương 1: Khái quát chung về huy động vốn và kế toán huy động vốn tại
NHTM.
1.1.VHĐ và vai trò của VHĐ trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.1. Khái niệm và các hình thức HĐV của NHTM.
1.1.1.1 khái niệm VHĐ
"VHĐ là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ
tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để
kinh doanh."
Bản chất của VHĐ là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ
có quyền sử dụng và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến
kỳ hạn (tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi có kỳ
hạn). VHĐ luôn biến động, nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số
vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả
năng thanh toán.
Muốn làm ngân hàng cần phải có vốn riêng. Tuy số vốn riêng đó chỉ là
một tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà ngân hàng cho vay. Số vốn riêng của ngân
hàng thường chỉ để mua sắm, trang bị trụ sở ngân hàng. Trong thực tế, số tiền
mà ngân hàng cho vay có nguồn gốc từ tiền gửi của khách hàng. Do đó, HĐV
là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM, là mối quan tâm chính của
các ngân hàng.
Về mặt hình thức, NHTM có nhiều cách HĐV khác nhau, chẳng hạn
như huy động tiền gửi thanh toán, huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…
0. 1.1.1.2. Các hình thức HĐV của NHTM.
a. HĐV qua tài khoản tiền gửi
Nguyền Thị Thuý Hiền 4 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Tiền gửi tại ngân hàng bao gồm tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ
hạn.
* Tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào
và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ
hạn có lãi suất thấp và bao gồm hai loại:
h Tiền gửi thanh toán:
Về mặt pháp lý, khi gửi tiền không kỳ hạn theo tài khoản thanh toán thể
hiện một hợp đồng mặc nhiên giữa khách hàng và ngân hàng. Trong đó, ngân
hàng phải có trách nhiệm thực hiện các khoản chi trả cho khách hàng một
cách kịp thời và chính xác. Tài khoản sử dụng cho tiền gửi thanh toán được
gọi là tài khoản giao dịch hay tài khoản séc vì rằng phần lớn các khoản giao
dịch thông qua tài khoản này được thực hiện bằng séc.
Đối với loại tiền gửi này, mục đích gửi là nhằm đảm bảo an toàn về tài
sản và thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng. Khách hàng không có ý định để giành hoặc không chú trọng đến tiền
lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ này bằng một hình thức tiền tệ
khác và thích thanh toán bằng séc hơn là dùng tiền mặt. Khả năng tiện lợi của
tiền gửi không kỳ hạn trong thanh toán phụ thuộc vào mạng lưới tổ chức và
hoạt động của NHTM đã phát hành ra nó.
ở Việt Nam, tài khoản tiền gửi thanh toán được chia làm hai loại:
- Tài khoản thanh toán dùng cho các doanh nghiệp: Tài khoản này
không được hưởng lãi trực tiếp mà người gửi chỉ hưởng lãi gián tiếp thông
qua các dịch vụ miễn phí của ngân hàng.
- Tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân: Tài khoản này được ngân
hàng trả lãi nhưng lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này thấp hơn lãi suất tiền
gửi định kỳ.
g Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý:
Nguyền Thị Thuý Hiền 5 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách
hàng, họ gửi tiền vào ngân hàng không mang tính chất phục vụ thanh toán mà
nhằm mục đích an toàn tài sản. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút
ra để chi tiêu.
* Tiền gửi có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách
hàng và ngân hàng. Theo nguyên tắc, đối với loại tài khoản này, khách hàng
chỉ được rút tiền khi đáo hạn.
Khác với tài khoản thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn là tiền tạm thời nhàn
rỗi hoặc là tiền để giành của cá nhân. Vì vậy, mục đích gửi tiền vào ngân
hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Đối với các ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn là
nguồn vốn tương đối ổn định trong kinh doanh, do đó lãi suất mà các ngân
hàng chi trả cho loại tiền gửi này cao hơn lãi suất chi trả cho tiền gửi thanh
toán. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hoá loại tiền gửi này
bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của mọi khách hàng. Và để khuyến khích khách hàng gửi tiền kỳ hạn
dài, ngân hàng thường áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao.
Tiền gửi có kỳ hạn có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc thả nổi. Nếu áp
dụng lãi suất thả nổi thì lấy lãi suất liên ngân hàng làm cơ sở cho việc xác
định lãi suất.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang áp dụng hai loại tiền gửi định kỳ
đó là tiền gửi định kỳ theo tài khoản và tiền gửi định kỳ dưới hình thức phát
hành kỳ phiếu ngân hàng.
b.HĐV qua tiền gửi tiết kiệm.
Xét về mặt bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân, người lao
động chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi tiền vào ngân hàng với mục đích
tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi
tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá
nhân.
Nguyền Thị Thuý Hiền 6 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Tiền gửi tiết kiệm được coi là công cụ HĐV truyền thống của NHTM.
Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể
trong tiền gửi ngân hàng. TGTK bao gồm TGTK không kỳ hạn và TGTK có
kỳ hạn.
* TGTK không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào
song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
Tuy nhiên, số dư tài khoản này thường không lớn nhưng ít biến động. Chính
vì vậy, đối với loại tiền gửi này, các NHTM thường phải trả lãi suất cao hơn
so với tiền gửi thanh toán. Đó là điều kiện để các NHTM có thể dễ dàng huy
động số vốn này.
* TGTK có kỳ hạn là khoản tiền có sự thoả thuận về thời hạn gửi và rút
tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn. Khách hàng chỉ
được rút tiền ra khi đến hạn. TGTK có nhiều kỳ hạn khác nhau, thường là 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng. Tuy nhiên, để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền
gửi, ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn và khách hàng chỉ
được hưởng lãi suất không vượt quá lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của NHTM. Việc duy trì và mở rộng
tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia
tăng lợi nhuận của ngân hàng. Vì lý do đó, các ngân hàng đã tập trung nỗ lực
trong việc khai thác mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
c. HĐV qua việc phát hành GTCG.
Các GTCG là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho mục đích
nào đó. Các GTCG do NHTM phát hành gồm kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
tiền gửi có mệnh giá.
Chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định; trái
phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Cả hai loại phiếu nợ này đều do
NHTM phát hành từng đợt. Mỗi lần phát hành phải được phép của NHNN
hoặc Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
Nguyền Thị Thuý Hiền 7 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu
ngân hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy
động. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự
có hoặc vốn huy động tiền gửi không đủ. Như vậy, khi thực hiện HĐV dưới
hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối
lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn, phương pháp huy động. Vốn này chỉ
huy động trong một thời gian nhất định và khi đã huy động đủ khối lượng vốn
theo dự kiến thì ngân hàng sẽ dừng việc bán kỳ phiếu, trái phiếu.
Để đạt được hiệu quả trong công tác HĐV, ngân hàng phải có chiến
lược thích hợp, phù hợp với khả năng, mục tiêu chiến lược kinh doanh của
mình. Các ngân hàng cần nghiên cứu kỹ các hình thức huy động vốn để tìm ra
những biện pháp hợp lý nhằm thu hút được nhiều nhất nguồn vốn trong xã
hội.
ở nước ta, những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2006, vốn huy
động của các NHTM có tốc độ tăng trưởng cao. Theo số liệu thống kê cho
thấy, tính đến hết tháng 12/2006, ước tính tổng nguồn vốn huy động của các
NHTM và TCTD trên địa bàn Hà Nội đạt 231799 tỷ đồng, tăng 32,3% so với
cuối năm 2005, mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2001 đến nay; số dư
nguồn vốn huy động từ dân cư tăng tới31,8%. Cũng tính đến hết năm 2006,
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, tổng nguồn vốn huy động của các
NHTM và TCTD ước tính đạt 259705 tỷ đồng, tăng 37,5% so với cuối năm
2005, tăng gấp hơn 1,5 lần so với mức dự kiến từ đầu năm, đạt mức tăng
trưởng cao nhất từ trước đến nay. Như vậy, cuối năm 2006 tổng số dư vốn
huy động chỉ ở riêng hai thành phố nói trên sẽ bằng số dư vốn huy động của
các NHTM và TCTD trong cả nước cách đây hơn một năm.
1.1.2. Vai trò của VHĐ.
Nguồn vốn huy động có một số đặc điểm sau:
Nguyền Thị Thuý Hiền 8 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Thứ nhất, đó là nguồn vốn huy động chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng. Ngân hàng vừa là người "cung cấp" đồng
vốn, vừa là người "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Theo thống kê, nguồn
vốn huy động chiếm khoảng 80% - 85% tổng nguồn vốn và ngân hàng hoạt
động chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động này.
Thứ hai, với nguồn vốn này ngân hàng sẽ chủ động hơn về thời gian và
khối lượng vốn cần huy động. Khi ngân hàng cần vốn cho hoạt động kinh
doanh của mình, thông qua chính sách lãi suất và nhiều biện pháp khác như
quảng cáo, khuyến mại…ngân hàng sẽ huy động được nguồn vốn theo mục
đích của mình với thời hạn đã được xác định trước, có thể là ngắn hạn, dài
hạn tuỳ theo nhu cầu cấp bách của ngân hàng. Ngân hàng sẽ chủ động hơn
trong việc xác định chi phí trả lãi. Hơn thế, do việc chủ động trong nguồn vốn
đầu vào nên ngân hàng cũng sẽ chủ động trong đầu ra của mình. Hoạt động
cho vay của ngân hàng phải đảm bảo sự cân xứng trong cấu trúc kỳ hạn giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn. Ngân hàng chủ động trong việc đưa ra lãi suất huy
động thì sẽ chủ động đưa ra lãi suất cho vay để đảm bảo ngân hàng có lãi.
Thứ ba, đây là nguồn vốn có chất lượng, có chi phí ổn định. Chi phí của
ngân hàng cho nghiệp vụ huy động vốn chính là chi phí trả lãi. Lãi suất huy
động thường ổn định và chỉ dao động chút ít nếu thị trường có nhiều biến
động lớn. Trong kỳ hạn đã xác định trước của nguồn vốn thì chi phí trả lãi là
cố định hàng tháng.
Với đặc điểm như vậy, ta thấy VHĐ đóng vai trò quan trọng đối với
mọi hoạt động kinh doanh của NHTM. Nó sẽ cho phép ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ của mình như cho vay, đầu tư, …và thu lợi nhuận. Nói cách
khác, nguồn vốn này quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng - là mảng kinh doanh chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
NHTM với chức năng tập trung vốn và phân phối lại nhu cầu của nền
kinh tế, sẽ mở rộng được các hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm,
Nguyền Thị Thuý Hiền 9 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng
uy tín cho mình thông qua nguồn VHĐ dồi dào.
Các ngân hàng thực hiện cho vay, thanh toán, đầu tư và một số nghiệp
vụ khác chủ yếu dựa trên nguồn vốn huy động được. Chính vì vậy, khi quyết
định cấp một khoản tín dụng, tiến hành một kế hoạch đầu tư hay giản đơn chỉ
là mua sắm một trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh, các ngân
hàng đều phải xem xét trên cơ sở cân đối giữa việc mở rộng tài sản đó với khả
năng đáp ứng của nguồn vốn. Ngoài ra, nguồn vốn huy động lớn sẽ góp phần
đảm bảo uy tín và tăng cường năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường.
Với những vai trò hết sức quan trọng như vậy, các ngân hàng luôn tìm
cách đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ người
gửi tiền đến việc sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các
nhà quản trị ngân hàng cũng luôn tìm cách đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù
hợp với tình hình chung của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên
quyết để đưa ngân hàng đến thành công.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn.
Môi trường kinh doanh là yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của
mỗi ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển, các ngân hàng cần phải thích
nghi với những biến đổi của môi trường kinh doanh. Nó bao gồm rất nhiều
yểu tố đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng
vừa chịu ảnh hưởng của các yếu tố đó đồng thời cũng tác động trở lại môi
trường kinh doanh. Công tác huy động vốn là một trong những hoạt động cơ
bản của ngân hàng, nó cũng chịu ảnh hưởng của những nhân tố đó và tựu
chung lại đó là hai nhóm nhân tố: nhóm nhân tố mang tính khách quan và
nhóm nhân tố mang tính chủ quan.
a.Nhân tố khách quan.
* Hành lang pháp lý.
Nguyền Thị Thuý Hiền 10 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Hành lang pháp lý được xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích và bảo
quản tài sản của toàn xã hội. Một hành lang pháp lý hoàn chỉnh hay thiếu
hoàn chỉnh có tác động trực tiếp đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt
động huy động vốn nói riêng. Những bộ luật điều chỉnh trực tiếp tới hoạt
động huy động vốn của NHTM là luật TCTD, Luật NHNN…, những luật này
quy định tỷ lệ huy động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, quy định việc
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…Ngoài ra còn có những bộ luật tác động gián
tiếp đến hoạt động ngân hàng như luật đầu tư nước ngoài…
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tiền tệ quốc gia cũng ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Trước hết thể
hiện ở mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ mà sự ảnh hưởng của nó đến hiệu quả huy động vốn
là khác nhau. Chẳng hạn, khi nền kinh tế lạm phát cao, NHNN thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền
ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng sẽ huy động vốn dễ dàng hơn và ngược lại,
khi nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì ngân
hàng khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi, họ bỏ tiền vào sản xuất
có lợi hơn gửi ngân hàng.
Ngoài ra, hiệu quả huy động vốn còn tuỳ thuộc vào chính sách đầu tư
của nhà nước. Chính sách đầu tư của nhà nước hợp lý hay không hợp lý đều
ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng. Bởi vì trên thực tế
những chính sách này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường kinh doanh
không chỉ đối với khách hàng mà cả đối với ngân hàng.
* Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội.
Tình hình kinh tế - xã hội ổn định hay không ổn định sẽ có tác động
mạnh mẽ tới nền kinh tế nói chung mà hoạt động ngân hàng nói riêng. Nền
kinh tế đang ở thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển tạo điều kiện tích luỹ
nhiều hơn nên sẽ tăng khả năng huy động vốn của ngân hàng. Trái lại, khi nền
kinh tế suy thoái, sản xuất bị kìm hãm, lạm phát gia tăng làm cho môi trường
Nguyền Thị Thuý Hiền 11 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp lại do các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, do đó
việc huy động vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn. Như vậy, sự biến
động của nền kinh tế là mang tính chất chu kỳ nên ngân hàng cần có kế hoạch
về vốn và sử dụng vốn hợp lý.
Tình hình chính trị của mỗi quốc gia cũng có ảnh hưởng lớn tới mọi
lĩnh vực của đất nước trong đó có cả hoạt động của ngân hàng. Khi nền chính
trị ổn định thì người dân mới có sự tin tưởng vào hệ thống tài chính và khi đó
họ mới gửi khoản tiền nhàn rỗi của mình vào ngân hàng. Ngược lại, khi
chính trị không ổn định, đất nước bị khủng hoảng hay có chiến tranh thì ngân
hàng sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn.
* Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền.
Thói quen tiêu dùng ảnh hưởng rất lớn đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân
hàng. Nếu ở những vùng dân cư quen sử dụng tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất
trữ thì việc huy động vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn. Ngược lại,
nếu người dân thích sử dụng các hình thức thanh toán qua ngân hàng thì cơ
hội huy động vốn của ngân hàng sẽ tăng lên.
Bên cạnh đó, yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến sự biến động ra vào
của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của ngân hàng có tác dụng
làm ổn định lượng tiền gửi vào và rút ra. Còn trong điều kiện nền kinh tế mất
ổn định hoặc có tin đồn thất thiệt sẽ gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng dẫn
đến hiện tượng rút tiền hàng loạt. Do đó, các ngân hàng phải nắm bắt được
các yếu tố tâm lý của người dân, từ đó đưa ra các hình thức huy động phù hợp
để thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế.
* Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác.
Hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới ngày càng lớn mạnh với sự ra đời
của hàng loạt các ngân hàng mới và xu thế toàn cầu hoá nền tài chính quốc tế.
Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của các ngân hàng và sự tham gia vào lĩnh
vực ngân hàng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã tạo ra một sức ép
cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là trong hoạt động huy động vốn của
Nguyền Thị Thuý Hiền 12 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
NHTM. Ngay cả trong cùng hệ thống ngân hàng hiện nay cũng có sự cạnh
tranh gay gắt, các NHTM không ngừng tăng lãi suất tiền gửi, cung cấp các
tiện ích tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giao dịch giữa khách hàng và
ngân hàng. Mặt khác, cùng với sự tham gia vào việc thu hút lượng tiền nhàn
rỗi trong xã hội của các tổ chức tài chính như: bưu điện, bảo hiểm,…nguồn
vốn càng trở nên khan hiếm hơn. Với áp lực cạnh tranh thúc đẩy các ngân
hàng không ngừng hiện đại hoá, đa dạng hoá danh mục sản phẩm, tạo ra được
những lợi thế cạnh tranh và hoà nhập với nền tài chính thế giới. Cạnh tranh
cũng là động lực giúp ngân hàng khẳng định vị thế của mình và đóng vai trò
như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ trong tương lai.
b.Nhân tố chủ quan
* Hình thức huy động.
Hình thức huy động của ngân hàng càng phong phú, đa dạng, linh hoạt
và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn. Chính sự đa
dạng của các hình thức huy động sẽ giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh
nghiệp lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp với khả năng của mình.
Chẳng hạn, ngân hàng có thể huy động tiền gửi tiết kiệm bằng cách đưa ra
nhiều thời hạn khác nhau để phù hợp với mục đích sử dụng khác nhau của
khách hàng.
* Chính sách lãi suất huy động.
Đối với các khách hàng khác nhau thì mục đích gửi tiền vào ngân hàng
cũng khác nhau. Nếu khách hàng là doanh nghiệp, mục đích của họ là thanh
toán qua ngân hàng chứ không phải lãi suất. Tuy nhiên, một số bộ phận thì
mục đích của họ là hưởng lãi nên lãi suất là vấn đề họ quan tâm hàng đầu. Vì
vậy, để tạo được nhiều vốn đáp ứng cho nhu cầu sử dụng của mình thì các
ngân hàng phải có chính sách hợp lý sao cho lãi suất huy động vừa đảm bảo
thu hút và duy trì sự ổn định khối lượng tiền gửi của khách hàng, vừa phù hợp
với lãi suất cho vay để ngân hàng có lãi. Hiện nay, một số ngân hàng để thu
hút khách hàng gửi tiền đã sử dụng lãi suất rất linh hoạt như chia nhỏ lãi suất
Nguyền Thị Thuý Hiền 13 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
theo nhiều thời hạn khác nhau. Tuy nhiên, nếu sử dụng chính sách lãi suất
bằng cách tăng lãi suất tiền gửi liên tục có thể không mang lại hiệu quả như
mong muốn mà chi phí huy động lại cao. Do đó, ngân hàng phải hoạch định
chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp với sự biến động của thị trường và mục
tiêu của ngân hàng trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, ngân
hàng và người sử dụng vốn.
* Năng lực của cán bộ ngân hàng.
- Con người là yếu tố quyết định thành công của hoạt động quản lý, sản
xuất kinh doanh và hoạt động xã hội. Để có thể đạt được mục tiêu đề ra thì
các tổ chức phải chú trọng đến công tác phát triển nguồn nhân lực, ngành
ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt trong công tác huy động
vốn thì năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng có ảnh hưởng rất
1.3.3.1. Kế toán HĐV qua tài khoản tiền gửi của TCKT, cá nhân.
a. Thủ tục mở tài khoản.
Đơn vị TCKT, cá nhân muốn mở tài khoản tại ngân hàng phải có tư
cách pháp nhân hoặc thể nhân, thể hiện hạch toán kế toán độc lập. Việc chọn
lựa ngân hàng để mở tài khoản và số lượng tài khoản là quyền của khách
hàng.
Khi có nhu cầu, khách hàng phải đến lập thủ tục tại bộ phận tiền gửi.
Tại đây, kế toán giao dịch sẽ cấp phát và hướng dẫn khách hàng lập các giấy
tờ cần thiết..
- Đối với khách hàng là TCKT: khách hàng phải có quyết định thành
lập doanh nghiệp, giấy phép đăng ký kinh doanh hợp lệ, hợp pháp do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp.
Khi mở tài khoản, khách hàng phải điền đầy đủ thông tin vào mẫu đơn
xin mở tài khoản tại ngân hàng bao gồm tên đơn vị, số đăng ký kinh doanh,
mẫu chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng hoặc những người được chủ
tài khoản, kế toán trưởng uỷ quyền, mẫu con dấu đơn vị…
Nguyền Thị Thuý Hiền 14 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
- Đối với khách hàng là cá nhân: phải có giấy chứng minh nhân dân
hoặc hộ chiếu (đối với người nước ngoài) và điền đầy đủ thông tin cần thiết
vào mẫu xin mở tài khoản như tên, số chứng minh nhân dân, ngày tháng cấp,
nơi cấp, mẫu chữ ký…
Khi mở tài khoản tiền gửi KKH, khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu
trên tài khoản theo quy định của ngân hàng. Chủ tài khoản phải chịu trách
nhiệm pháp lý về số tiền trên tài khoản của mình và thực hiện các giao dịch
trên tài khoản bằng chứng từ kế toán hợp lệ. Khi có bất kỳ sự thay đổi nào của
TCKT, cá nhân như thay đổi con dấu, chữ ký mẫu… thì chủ tài khoản phải
thông báo cho ngân hàng biết.
Sau khi hoàn tất thủ tục trên, bộ phận tiền gửi sẽ cho số hiệu tài khoản
của khách hàng căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán NHTM do NHNN ban
hành. Ngân hàng có nhiệm vụ quản lý tốt tài khoản của khách hàng, giữ bí
mật số dư tài khoản, chỉ được trích tiền từ tài khoản khi có lệnh chi từ tài
khoản của chủ tài khoản hoặc yêu cầu của cán bộ có thẩm quyền.
b. Hoạt động của tài khoản tiền gửi.
Sau khi mở và thực hiện giao dịch với NHTM, tài khoản tiền gửi của
các TCKT, cá nhân bắt đầu hoạt động và có thể có nhiều nghiệp vụ kinh tế
phát sinh, nhưng nhìn chung tất cả các nghiệp vụ có thể xếp thành:
- Những nghiệp vụ làm phát sinh bên Nợ tài khoản.
- Những nghiệp vụ làm phát sinh bên Có tài khoản.
- Tất toán tài khoản.
Ngân hàng tất toán tài khoản tiền gửi khi:
- Chủ tài khoản có văn bản yêu cầu tất toán tài khoản.
- Tài khoản hết số dư hoặc ngừng giao dịch trong vòng 6 tháng liên tục.
- Khi chủ tài khoản là cá nhân chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân
sự. TCKT chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc các trường hợp
khác do NHNN quy định.
Nguyền Thị Thuý Hiền 15 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Khi khách hàng chấm dứt giao dịch với NHTM thì kế toán ngân hàng
sẽ thu hồi toàn bộ séc đã cấp phát chưa sử dụng và chuyển hồ sơ vào lưu trữ.
Nếu sau này, khách hàng giao dịch trở lại thì phải làm thủ tục mở tài khoản
như thường lệ.
c. Kế toán HĐV qua tài khoản tiền gửi KKH.
K Kế toán nhận tiền gửi:
- Kế toán nhận tiền gửi bằng tiền mặt:
Người gửi tiền lập giấy nộp tiền kèm tiền mặt nộp vào ngân hàng. Căn
cứ vào chứng từ thu tiền mặt, sau khi đã kiểm điếm đủ tiền, kế toán sẽ hạch
toán:
Nợ: TK Tiền mặt.
Có: TK Tiền gửi KKH/ Khách hàng.
- Kế toán nhận tiền gửi bằng chuyển khoản.
Kế toán căn cứ vào các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để
hạch toán:
Nợ: TK Tiền gửi KKH/ người chi trả.
Hoặc TK Thanh toán vốn giữa các ngân hàng.
Có: TK Tiền gửi/ người thụ hưởng.
T Kế toán chi trả tiền gửi.
Khi nhận được lệnh chi trả từ chủ tài khoản, kế toán sẽ kiểm tra tính
hợp pháp hợp lệ của chứng từ, kiểm tra số dư tài khoản, hạn mức thấu chi,
nhập dữ liệu vào máy, làm thủ tục chi tiền.
- Kế toán chi trả bằng tiền mặt:
Nợ: TK Tiền gửi KKH/ người chi trả
Có: TK Tiền mặt.
- Kế toán chi trả bằng chuyển khoản.
Nợ: TK Tiền gửi KKH/ người chi trả
Có: TK Tiền gửi KKH/ người thụ hưởng
Hoặc TK Thanh toán vốn giữa các ngân hàng.
Nguyền Thị Thuý Hiền 16 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Trường hợp chủ tài khoản trích tiền từ tài khoản này để chuyển đến tài
khoản của người thụ hưởng ở ngân hàng khác thì ngân hàng sẽ thu lệ phí
chuyển tiền (tỷ lệ do từng hệ thống NHTM quy định) và thuế GTGT được
tính theo số tiền chuyển (thường là 10%).
t Kế toán tiền lãi đối với tiền gửi KKH.
Theo quy định của NHNN hiện nay, số dư trên tài khoản tiền gửi KKH
của TCKT, cá nhân được NHTM trả theo lãi suất quy định. Lãi suất được tính
vào cuối tháng theo phương pháp tích số và được nhập vào gốc để gia tăng số
dư tiền gửi.
Số tiền lãi được tính theo công thức sau:
∑ tích số tính lãi trong tháng
Số tiền lãi trong tháng = ------------------------------------- × lãi suất tháng
30 ngày
∑ tích số tính lãi = [Σ số dư có TK thanh toán × Số ngày dư có thực tế trong
tháng]
Bút toán phản ánh chi trả lãi tiền gửi:
Nợ: TK chi trả lãi tiền gửi (TK 801).
Có: TK Tiền gửi KKH/ khách hàng.
d. Kế toán HĐV qua tài khoản tiền gửi CKH.
d Kế toán nhận tiền gửi:
Căn cứ vào giấy nộp tiền, kế toán sẽ nhập dữ liệu vào máy tính.
Nợ: TK Thích hợp.
Có: TK Tiền gửi CKH/ khách hàng.
T Kế toán chi trả tiền gửi:
Khách hàng có thể rút tiền bằng tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản tiền gửi
KKH:
Nợ: TK Tiền gửi CKH/ khách hàng.
Có: TK Tiền mặt.
Hoặc TK Tiền gửi KKH/ khách hàng.
Nguyền Thị Thuý Hiền 17 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
K Kế toán trả lãi tiền gửi CKH.
Lãi được tính theo nguyên tắc cơ sở dồn tích. Việc trả lãi tiền gửi CKH
cho người gửi tiền được thực hiện khi đáo hạn (trả cùng gốc).
Công thức tính lãi hàng tháng:
Tiền lãi = Số tiền gửi vào × lãi suất tiền gửi/ tháng.
Sau khi tính được số lãi phải trả, hàng tháng kế toán lập chứng từ và
hạch toán:
Nợ: TK Chi phí trả lãi.
Có: TK Lãi phải trả cho tiền gửi.
Khi khách hàng đến lĩnh lãi (cùng gốc), kế toán lập phiếu chi lãi và
hạch toán:
Nợ: TK Lãi phải trả cho tiền gửi.
Có: TK Thích hợp.
1.3.3.2. Kế toán HĐV qua tài khoản TGTK.
a. Thủ tục mở tài khoản TGTK.
Tại NHTM, quầy giao dịch thường có bảng thông báo lớn về tiền gửi
và lãi suất để khách hàng tham khảo và lựa chọn hình thức gửi tiền. Khi muốn
gửi tiền, khách hàng đến bộ phận TGTK để làm thủ tục mở sổ tiết kiệm. Tại
đây, kế toán giao dịch sẽ hướng dẫn những vấn đề liên quan đến tiền gửi của
họ như lãi suất, vấn đề an toàn tiền gửi và những thủ tục, giấy tờ cần thiết.
Khách hàng phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu (đối với
người nước ngoài), đăng ký mẫu chữ ký, con dấu…
Sau đó, họ sẽ hướng dẫn khách hàng lập giấy nộp tiền và nộp tiền vào.
Sau khi hoàn tất việc nộp tiền, khách hàng sẽ nhận được sổ TGTK, đồng thời
kế toán lập thẻ lưu để theo dõi.
b. Các hoạt động phát sinh sau khi mở sổ TGTK.
Sau khi mở sổ, thường có một số hoạt động phát sinh khi khách hàng
đến giao dịch, chẳng hạn như khách hàng rút tiền, gửi thêm tiền vào hay yêu
cầu khoá sổ. Trong các hoạt động phát sinh này cần lưu ý:
Nguyền Thị Thuý Hiền 18 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
- Bất cứ trường hợp phát sinh nào khách hàng cũng phải xuất trình sổ và
chứng minh nhân dân khi giao dịch.
- Khách hàng chỉ được phép rút tiền trong phạm vi số dư trên sổ TGTK của
mình.
- Khi hết số dư, kế toán sẽ xoá sổ, thu hồi lại sổ cũ.
c. Kế toán HĐV qua tài khoản TGTK KKH.
K Kế toán nhận tiền gửi:
Người gửi tiền viết giấy nộp tiền kèm sổ tiết kiệm gửi cho kế toán giao
dịch. Kế toán giao dịch sẽ kiểm soát chứng từ, nhập số tiền gửi tiếp vào sổ tiết
kiệm, rồi sau đó trả lại sổ tiết kiệm cho người gửi tiền, hạch toán:
Nợ: TK Tiền mặt.
Có: TK TGTK KKH/ khách hàng.
T Khách hàng chi trả TGTK:
Khách hàng viết giấy lĩnh tiền mặt kèm sổ tiết kiệm và chứng minh thư
hoặc hộ chiếu (đối với người nước ngoài) đưa cho kế toán. Sau khi kiểm soát
chứng từ, nếu có gì sai sót, kế toán sẽ xử lý theo 2 trường hợp:
- Nếu khách hàng chỉ rút một phần của số tiền trên sổ tiết kiệm thì sau khi ghi
số tiền rút ra vào sổ tiết kiệm và phiếu lưu sẽ trả lại sổ tiết kiệm cho người gửi
để giao dịch tiếp.
- Nếu khách hàng rút toàn bộ số tiền ghi trên sổ thì sau khi làm các thủ
tục như trên, kế toán sẽ thu hồi sổ tiết kiệm để bảo quản cùng phiếu lưu.
+ Chi trả bằng tiền mặt:
Nợ: TK TGTK KKH/ khách hàng.
Có: TK Tiền mặt.
+ Chi trả bằng chuyển khoản :
Nợ: TK TGTK KKH/ khách hàng.
Có: TK Tiền gửi/ người thụ hưởng.
T Kế toán tiền lãi:
Nguyền Thị Thuý Hiền 19 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Lãi được tính sau ngày gửi tiền đầu tiên một tháng, áp dụng phương
pháp tích số. Hạch toán:
Nợ: TK Trả lãi tiền gửi
Có: TK Thích hợp.
d. Kế toán HĐV qua tài khoản TGTK CKH.
K Kế toán nhận TGTK CKH.
Sau khi làm thủ tục mở sổ TGTK, khách hàng sẽ lập giấy nộp tiền kèm
theo phiếu lưu cho kế toán và tuỳ từng phương thức trả lãi mà kế toán sẽ hạch
toán như sau:
- Đối với phương thức trả lãi trước: lãi được trả ngay thời điểm khách hàng
gửi tiền. Kế toán sẽ hạch toán:
Nợ: TK Tiền mặt.
Nợ: TK Chi phí chờ phân bổ (SH 388)
Có: TK TGTK CKH/ thời hạn/ khách hàng.
- Đối với phương thức trả lãi sau: lãi được trả định kỳ hàng tháng hoặc vào
lúc đáo hạn. Hạch toán:
Nợ: TK Tiền mặt.
Có: TK TGTK CKH/ thời hạn/ khách hàng.
T Kế toán chi trả TGTK CKH.
- Trường hợp khách hàng xin rút tiền đúng hạn: Khách hàng sẽ làm các
thủ tục để lĩnh tiền. Sau khi hoàn tất việc chi tiền, kế toán sẽ thu hồi sổ tiết
kiệm và bảo quản cùng phiếu lưu.
+ Đối với phương thức trả lãi trước thì kế toán chỉ thanh toán gốc cho
khách hàng. Hạch toán:
Nợ: TK TGTK CKH/ thời hạn/ khách hàng.
Có: TK Thích hợp.
+ Đối với phương thức trả lãi sau thì khách hàng được lĩnh cả gốc và lãi
khi đáo hạn. Hạch toán:
Nợ: TK TGTK CKH/ thời hạn/ khách hàng.
Nguyền Thị Thuý Hiền 20 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Nợ: TK Lãi phải trả cho TGTK (SH 4913).
Nợ: TK Trả lãi tiền gửi (SH 801).
Có: TK Thích hợp.
- Trường hợp khách hàng xin rút tiền trước hạn: Có thể vì một lý do
nào đó, khách hàng đến rút tiền trước hạn. Để đảm bảo tính cạnh tranh, ngân
hàng vẫn cho khách hàng rút tiền và khách hàng được hưởng lãi suất tiền gửi
KKH trên số tiền gửi.
+ Đối với phương thức trả lãi trước:
Thoái chi phần lãi chưa ghi nhận vào chi phí, hạch toán;
Nợ: TK Chi phí chờ phân bổ (SH 388).
Có: TK Trả lãi tiền gửi (SH 801).
Sau đó kế toán sẽ chi tiền cho khách hàng, hạch toán;
Nợ: TK TGTK CKH/ thời hạn/ khách hàng.
Có: TK Chi phí chờ phân bổ (SH 388).
Có: TK Thích hợp.
+ Đối với phương thức trả lãi sau:
Kế toán thoái chi bút toán đã ghi nhận lãi vào chi phí, hạch toán:
Nợ: TK Lãi phải trả cho TGTK (SH 4913).
Có: TK Trả lãi tiền gửi (SH 801).
Sau đó, kế toán trả tiền cho khách hàng, hạch toán;
Nợ: TK TGTK CKH/ thời hạn/ khách hàng.
Nợ: TK Trả lãi tiền gửi.
Có: TK Thích hợp.
- Trường hợp rút tiền quá hạn: Ngân hàng sẽ chuyển sang kỳ hạn mới
cho khách hàng. Gốc của thời hạn mới bao gồm gốc và lãi của kỳ hạn trước.
Khi khách hàng đến rút tiền ra thì xử lý theo kiểu rút tiền trung hạn.
K Kế toán tiền lãi: Ngân hàng áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích nên hàng
tháng phải tính toán và hạch toán lãi.
Nguyền Thị Thuý Hiền 21 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
- Đối với phương thức trả lãi trước: phân bổ lãi trả trước vào chi phí
theo định kỳ hàng tháng, hạch toán:
Nợ: TK Trả lãi tiền gửi (SH 801).
Có: TK Chi phí chờ phân bổ (SH 388).
- Đối với phương thức trả lãi sau: theo định kỳ hàng tháng, kế toán sẽ
tiến hành phân bổ chi phí tính lãi phải trả dồn tích để ghi nhận vào chi phí,
hạch toán:
Nợ: TK Trả lãi tiền gửi (SH 801).
Có: TK Lãi phải trả cho tiền gửi (SH 4913).
Lãi có thể được trả theo định kỳ hàng tháng hoặc cuối kỳ, hạch toán:
Nợ: TK Lãi phải trả cho tiền gửi
Có: TK Thích hợp.
1.3.3.3. Kế toán HĐV qua việc phát hành GTCG.
Người mua GTCG sau khi làm thủ tục nộp tiền vào ngân hàng phát
hành GTCG sẽ được nhận các loại GTCG thích hợp từ ngân hàng phát hành.
Căn cứ vào chứng từ nộp tiền, kế toán ngân hàng phát hành GTCG sẽ
hạch toán theo các trường hợp sau:
a. Đối với phương thức trả lãi trước.
Đ Kế toán phát hành GTCG.
- GTCG được phát hành ngang giá:
Số tiền ngân hàng thu về = Tổng mệnh giá - Lãi trả trước
Bút toán:
Nợ: TK Thích hợp.
Nợ: TK Chi phí chờ phân bổ.
Có: TK Mệnh giá GTCG. (SH431 - 434).
- GTCG được phát hành có chiết khấu:
Khoản chiết khấu khách hàng được hưởng được khấu trừ vào mệnh giá
GTCG.
Nguyền Thị Thuý Hiền 22 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Số tiền ngân hàng thu về = Tổng mệnh giá - Giá trị chiết khấu - lãi trả
trước.
Bút toán:
Nợ: TK Thích hợp.
Nợ: TK Chiết khấu GTCG. (SH432 - 435).
Nợ: TK Chi phí chờ phân bổ. (SH388)
Có: TK Mệnh giá GTCG (SH 431 - 434).
- GTCG được phát hành có phụ trội:
Khoản phụ trội được người mua GTCG chấp nhận và phải nộp vào
ngân hàng phát hành GTCG cùng mệnh giá GTCG ngay khi mua GTCG.
Số tiền ngân hàng thu về = Tổng mệnh giá + Giá trị phụ trội - Lãi trả
trước.
Bút toán:
Nợ: TK Thích hợp.
Nợ: TK Chi phí chờ phân bổ.
Có: TK Phụ trội GTCG (SH 433 - 436).
Có: TK Mệnh giá GTCG.
T Kế toán trả lãi và phân bổ giá trị phụ trội, chiết khấu.
Định kỳ hàng tháng, kế toán sẽ tiến hành ghi nhận lãi trả trước vào chi
phí, hạch toán:
Nợ: TK Trả lãi phát hành GTCG (SH 803).
Có: TK Chi phí chờ phân bổ (SH 388).
Tiến hành phân bổ giá trị chiết khấu:
Nợ: TK Trả lãi phát hành GTCG.
Có: TK Chiết khấu GTCG.
Phân bổ giá trị phụ trội để làm giảm chi phí trong kỳ:
Nợ: TK Phụ trội GTCG.
Có: TK Trả lãi phát hành GTCG.
T Kế toán thanh toán GTCG đến hạn.
Nguyền Thị Thuý Hiền 23 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
Sau khi làm các thủ tục, kế toán thu hồi các loại GTCG từ khách hàng,
căn cứ vào chứng từ hạch toán:
Nợ: TK Mệnh giá GTCG.
Có: TK Thích hợp.
b. Đối với phương thức trả lãi sau.
Đ Kế toán phát hành GTCG.
- GTCG được phát hành ngang giá: Số tiền ngân hàng thu về = Mệnh giá.
Bút toán;
Nợ: TK Thích hợp.
Có; TK Mệnh giá GTCG.
- GTCG được phát hành có chiết khấu:
Số tiền ngân hàng thu về = Tổng mệnh giá - Giá trị chiết khấu.
Bút toán:
Nợ: TK Thích hợp.
Nợ: TK Chiết khấu GTCG.
Có: TK Mệnh giá GTCG.
- GTCG được phát hành có phụ trội:
Số tiền ngân hàng thu về = Tổng mệnh giá + Giá trị phụ trội.
Bút toán:
Nợ: TK Thích hợp.
Có: TK Phụ trội GTCG.
Có: TK Mệnh giá GTCG.
T Kế toán tiền lãi và phân bổ giá trị phụ trội, chiết khấu:
Hàng tháng, kế toán tiến hành tính toán và phân bổ lãi phải trả dồn tích
vào chi phí, hạch toán;
Nợ: TK Trả lãi phát hành GTCG.
Có: TK Lãi phải trả về phát hành GTCG (SH 492).
Tiến hành phân bổ giá trị phụ trội và chiết khấu giống như trường hợp
phát hành GTCG trả lãi trước.
Nguyền Thị Thuý Hiền 24 Lớp NHB – CĐ2A
Khoá luận tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng
K Kế toán thanh toán GTCG đến hạn.
Bút toán:
Nợ: TK Mệnh giá GTCG.
Nợ: TK Lãi phải trả về phát hành GTCG.
Có: TK Thích hợp.
Trường hợp khách hàng để GTCG quá hạn mà chưa đến thanh toán thì
ngân hàng tính và trả thêm cho khách hàng theo lãi suất không kỳ hạn cho
thời gian quá hạn. Gốc trên TK Mệnh giá GTCG vẫn giữ nguyên mà lãi
không nhập gốc. Đối với phần lãi bổ sung này, kế toán sẽ ghi nhận vào chi
phí:
Bút toán:
Nợ: TK Trả lãi phát hành GTCG.
Có: TK Thích hợp.
Nguyền Thị Thuý Hiền 25 Lớp NHB – CĐ2A