Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận môn Luật Hành Chính - Cải cách bộ máy hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.75 KB, 12 trang )

I. Lời mở đầu.
Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực
hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong
phạm vi, lĩnh vực nhất định. Ví dụ: quốc hội có chức năng chủ yếu trong hoạt động
lập pháp; Toà án có chức năng xét xử; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm
sát. Chỉ các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực: quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà nước về văn hoá,
quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội,... Đó là hệ thống các đơn
vị cơ sở như công ty, tổng công ty, nhà máy, xí nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế; trong
lĩnh vực giáo dục có trường học; trong lĩnh vực y tế có bệnh viện...
Cơ quan hành chính nhà nước nói chung là cơ quan chấp hành, điều hành của cơ
quan quyền lực nhà nước.
Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt
động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp hành - điều hành hay còn gọi là hoạt
động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan
hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan hành chính nhà nước chỉ tiến
hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ
quan quyền lực nhà nước trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành của nhà
nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ
quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan
quyền lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó.
Các cơ quan hành chính nhà nước có quyền thành lập ra các cơ quan chuyên môn
để giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hoàn thành nhiệm vụ.
Cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ, thống
nhất.
1


Cơ quan hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành lập từ trung


ương đến cơ sở, đứng đầu là chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được
tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức
và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước.
Hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước đều có hệ thống các đơn vị cơ sở trực
thuộc. Các đơn vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Ví dụ Bộ Công an có các đơn vị, Bộ Giáo
dục- đào tạo có các đơn vị, các trường Đại học trực thuộc,...
Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và
tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách pháp luật vào cuộc sống.
Tất cả các cơ quan hành chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là
mối quan hệ trực thuộc trên-dưới, trực thuộc ngang-dọc, quan hệ chéo...tạo thành
một hệ thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước dưới hai
hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở hiến
pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành,
kiểm tra...hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dưới quyền và các đơn
vị cơ sở trực thuộc của mình. Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể cơ bản,
quan trọng nhất của Luật hành chính. Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu
thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp, trong phạm vi thẩm quyền của mình thưc hiện hoạt động chấp
hành - điều hành và tham gia chính yếu vào hoạt động quản lý nhà nước, có cơ cấu
tổ chức và phạm vi theo luật định.

2


Ở Việt Nam, bộ máy hành chính của chúng ta hiện đang tác động rất lớn đến các
công cuộc cải cách của nhà nước nói chung. Bên cạnh mặt tích cực, hiệu quả đã đạt
được, bộ máy hành chính vẫn tồn tại nhiều hạn chế và thậm chí, có nguy cơ tụt hậu

cùng với những đặc điểm kể trên thì việc có một bộ máy hành chính hoạt động
hiệu quả là mục tiêu hang đầu, và để có được điều đó thì cải cách bộ máy hành
chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Nhà nước ta. Để thực hiện
nhiệm vụ này Chính phủ đã thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính.
Một trong các nhiệm vụ của chương trình này là hoàn thiện hơn bộ máy hành chính
của nước ta. Trải qua giải đoạn 2001-2010 cái cách bộ máy hành chính đã đạt được
một số thành công nhất định song vẫn còn đó những vấn đề, yếu kém cần được
khắc phục. Sau đây là một số vấn đề thực trạng cải cách bộ máy hành chính.
II. Nội dung.
1) Những ưu điểm đạt được của cải cách bộ máy hành chính.
• Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ
Chính phủ, các bộ, ngành trung ương đến ủy ban nhân dân các cấp đã có
nhiều thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước. Nhiều
công việc trước đây thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
nay đã được phân cấp mạnh cho các bộ, ngành và địa phương. Mặc dù còn
có những hạn chế, nhưng nhìn chung qua tiến hành cải cách đã tách rõ chức
năng, nhiệm vụ đơn vị hành chính với sự nghiệp, hành chính với doanh
nghiệp. Chức năng quản lý nhà nước tập trung vào xây dựng, hoạch định thể
chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, hướng dẫn triển khai và kiểm tra việc
thực hiện.
• Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp được
sắp xếp, điều chỉnh, thay đổi theo hướng tinh gọn hơn (sau 10 năm cải cách,
số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ từ 48 đã giảm
xuống còn 30, các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh từ) . Bộ máy hành chính từ
3


Trung ương đến cơ sở vận hành phát huy tác dụng, hiệu quả tốt hơn, cùng
với chủ trương hạn chế biên chế từ mấy năm nay, giảm số lượng đầu mối
(nơi phát sinh các thủ tục hành chính) cấp bô, ngành từ trung ương đến cơ sở

và trong từng cơ quan, đơn vị. Vấn đề tiền lương cũng được nhìn nhận một
cách công bằng hơn, chế độ tiền lương được cải thiện từng bước trong khả
năng của ngân sách, chính là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện cải cách
hành chính.
• Một số cơ quan nhà nước đã đi tiên phong trong áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo động lực đáng kể trong cải tiến hoạt
động của bộ máy hành chính Nhà nước.
• Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa
phương các cấp, phân biệt rõ chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn,
Quốc hội đã ra Nghị quyết thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường tại 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Qua thí điểm đã
cho thấy những kết quả tích cực, bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, tổ
chức gọn nhẹ. Đây là cơ sở để có những bước đi thích hợp về tổ chức chính
quyền địa phương trong cả nước thời gian tới.
• Đội ngũ cán bộ công chức cũng là một yếu tố tạo nên bộ máy hành chính, họ
là những người tham gia trực tiếp vận hành bộ máy này. Hiện nay, đội ngũ
cán bộ công chức bộ máy hành chính nhà nước đã được nâng lên về mọi
mặt, cả về trình độ chính trị lẫn chuyên môn. Việc quản lý, sử dụng cán bộ,
công chức được đổi mới một bước theo các quy định của Pháp lệnh Cán bộ,
công chức: từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen thưởng, kỷ
luật đến đào tạo bồi dưỡng. Chế độ, chính sách tiền lương bước đầu được cải
cách theo hướng tiền tệ hóa. Nhận thức của phần lớn cán bộ, công chức Nhà
nước đã có sự thay đổi cơ bản, từ cách tu duy hành chính theo kiểu “hành
dân” đã chuyển sang tư duy phục vụ. Sự tiến bộ trong nhận thức đó trực tiếp
tác động đến lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức từ cấp lãnh
4


đạo đến nhân viên khi thi hành công vụ. Việc tiếp công dân và giải quyết các
khiếu nại của dân được coi trọng hơn. Các cuộc gặp gỡ và giải đáp vướng

mắc, kiến nghị của doanh nghiệp đã được tổ chức thường xuyên ở nhiều cơ
quan, được cấp lãnh đạo cao nhất tham dự, đã giải quyết trực tiếp các kiến
nghị trong khuôn khổ pháp luật quy định.
2) Những hạn chế, yếu kém còn tồn tại.
Bên cạnh những mặt tích cực kể trên, cải cách bộ máy hành chính ở nước ta vẫn
còn có những hạn chế yếu kém như:
• Bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cửa,
nhiều dấu, chức năng của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa rõ ràng,
nhiều khi cản trở lẫn nhau, hạn chế hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính.
(Vấn đề về chất thải: Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm về chất thải đô thị, Bộ
Công thương chịu trách nhiệm về chất thải công nghiệp, Bộ Y tế chịu trách
nhiệm về chất thải Y tế, chất thải nông thôn do Bộ Tài nguyên và Môi
trường quản lý, tuy nhiên hiện tượng chất thải được vứt bừa bãi vẫn phổ
biến). Có lĩnh vực thì ôm đồm, bao biện, có lĩnh vực và có nơi thì buông
lỏng quản lý, dẫn đến một số cá nhân lợi dụng để trục lợi, làm thiệt hại đến
lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
cảu bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chưa được xác định thật rõ, sự phân công, phân cấp giữa các ngành và
các cấp chưa thật rành mạch, triệt để, cụ thể và phù hợp. Tình trạng chức
năng, nhiệm vụ của một số cơ quan cùng cấp, cấp trên và cấp dưới còn
chồng chéo, nhiều khi hạn chế lẫn nhau, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý
thấp.
• Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bọ với dân,
không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động
khi xử lý các tình huống phức tạp.

5


• Phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán,

chưa thông suốt, chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch
vụ công.
• Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách
nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc
chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra
nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức. Nhìn chung chưa đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát
nước và hội nhập quốc tế; ý thức nghề nghiệp chưa cao, tôn trọng kỷ luật lao
động còn yếu; đạo đức lỗi sống của một bộ phận cán bộ công chức bị suy
thoái; thái độ phục vụ nhân dân còn thấp, một bộ phận cán bộ công chức tồn
tại thái độ thờ ơ, “lãnh cảm” với dân, đặt mình ở vị thế ban phát quyền lợi
cho dân. Những vấn đề đó đã làm chính quyền ngày càng xa dân, giảm lòng
tin của dân đối với chính quyền… Về số lượng thì có nơi, có lĩnh vực thừa
và ngược lại, có nơi, có lĩnh vực thì thiếu; thiếu đội ngũ cán bộ công chức có
chất lượng cao, tận tụy với nghề, vừa hồng vừa chuyên; tình trạng cán bộ
nhiều nhưng chất lượng hoạt động chẳng bao nhiêu, chưa có trình độ ngang
tầm nhiệm vụ, bố trí chưa đúng người đúng việc, bằng cấp và năng lức chưa
tương ứng với chức danh… Có đến 33% công chức đến công sở mà không
làm việc hoặc chỉ làm việc “riêng”. Số liệu gần đây cho biết 60-70% công
chức không qua đào tạo về quản lý nhà nước, 50% cán bộ cấp xã chỉ tốt
nghiệp tiểu học hoặc trung học cơ sở.
3) Giải pháp.
Dưới đây là một số giải pháp khắc phục các hạn chế, yếu kém kể trên và cũng là
giải pháp cho công cuộc cải cách hành chính trong thời gian tới:
• Sửa đổi Hiến pháp và Luật Tổ chức chính phủ , tạo cơ sở cho việc sắp xếp
lại cơ cấu tổ chức cán bộ.
6



• Các cơ quan Bộ ngành cần rà soát lại chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức
của các đơn vị.
• Tiếp tục cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng cơ bản là làm cho tinh
gọn, giảm bớt đầu mối các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan trực thuộc
Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức thuộc bộ máy bên trong của các bộ ngành
Trung ương. Tiếp tục khắc phục sự cồng kềnh và bất hợp lý về cơ cấu tổ
chưc, nâng cao chất lượng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, kiện toàn tổ chức
nên hành chính theo hướng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, bao
quát các thành phần kinh tế, xã hội; cải cách phải đảm bảo giữ cho bộ máy
vừa có được sự ổn định cần thiết, vừa có sự đổi mới một cách căn bản trong
thời kỳ mới.
 Đối với các cơ quan trức thuộc Chính phủ:
 Những cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước mà lien quan
đến chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành nào thì đưa về
Bộ, ngành đó quản lý. Khi đưa về Bộ thì thuộc cơ cấu tổ chức
của Bộ đó, nếu cần thiết thì sắp xếp lại tổ chưc, bộ máy cho hợp
lý.
 Những cơ quan đang chịu sự quản lý nhà nước của một số Bộ
khác thì có thể đưa về trực thuộc Bộ đó quản lý trực tiếp để
thống nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nước với các hoạt
động sự nghiệp.
 Hợp nhất một số cơ quan có chức năng, nhiệm vụ giống, gần
giống nhau, có liên quan đến nhau thành một tổ chức hoặc nâng
cấp lên thành Bộ nếu thấy cần thiết và đủ điều kiện.
 Đối với cơ quan nào mà xét thấy thực sự có vai trò, chức năng
quan trọng, nếu đủ điều kiện thì nâng cấp lên thành Bộ.
 Chỉ để lại một số rất ít các cơ quan trực thuộc Chính phủ mà xét
thấy chưa thể đưa vào Bộ nào quản lý là thích hợp và có hiệu
quả.
7



 Đối với các cơ quan trực thuộc Thủ tướng Chính phủ:
 Đối với các tổ chức liên ngành có chức năng chính làm tư vấn
cho Thủ tướng Chính phủ để giải quyết những vấn đề có liên
quan đến nhiều Bộ, ngành và đòi hỏi sự phối hợp liên ngành thì
xử lý theo nguyên tăc chung: không có bộ máy và biên chế
riêng, hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm và có thời hạn.
 Đối với các Ban Chủ nhiệm các chương trình quốc gia do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập thì không đặt đầu mối
trực thuộc Thủ tướng mà giao cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ làm Chủ nhiệm
chương trình có Văn phòng giúp việc đặt tại Bộ, ngành chủ trì.
 Đối với các tổ chức chuyên trách có chức năng giúp Thủ tướng
Chính phủ về một lĩnh vực công tác độc lập nhất định thì xử lý
theo hướng sau:
 Những tổ chức có nhiệm vụ gắn với chức năng quan lý
Nhà nước của Bộ nào thì đưa tổ chức đó về Bộ tương
ứng quản lý.
 Những tổ chức làm chức năng tham mưu, tư vấn, đề xuất
trực tiếp cho Thủ tướng Chính phủ, không có chức năng
chỉ đạo, điều hành thì không thành cơ quan độc lập mà
nằm trong Văn phòng Chính phủ. Biên chế tính trong
tổng số biên chế của Văn phòng Chính phủ.
 Những tổ chức nào đã hết chức năng, nhiệm vụ hoặc xét thấy
không còn cần thiết nữa thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định giải thể.
 Đối với các cơ quan, tổ chức quản lý theo ngành dọc:
 Tiến hành ra soát và xác định lại các cơ quan được tổ chức và
quản lý theo ngành dọc xuyên suốt từ Trung ương đến địa

phương theo yêu cầu phân cấp và nguyên tăc những ngành nào,
8


lĩnh vực nào thật cần thiết phải quản lý tập trung thống nhất ở
Trung ương, không phân cấp cho địa phương, thì mới tổ chức
và quản lý theo ngành dọc.
 Hướng chung, cần giảm bớt số lượng các cơ quan tổ chức theo
ngành dọc và nghiên cứu để áp dụng mô hình tổ chức theo
ngành dọc cho thích hợp và gọn nhẹ, không nhất thiết theo đơn
vị hành chính các cấp mà có thể chuyển sang tổ chức các cơ
quan ngành dọc theo khu vưc, nhất là ở các thành phố, đô thị
để giảm bớt đầu mối, biên chế và nâng cao hiệu quả quản lý.
 Đối với cơ cấu tổ chức, bộ máy bên trong của các Bộ, ngành Trung
ương:
 Xác định lại đầu mối tổ chức và loại hình tổ chức trực thuộc các
Bộ, ngành Trung ương theo hướng tinh giản, hợp lý, dựa trên cơ
sở chức năng, nhiệm vụ chung của các Bộ, ngành và những lĩnh
vực sau khi đã phân cấp quản lý cho địa phương.
 Về cơ bản cơ cấu các Bộ, ngành chỉ bao gồm các tổ chức giúp
Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước là các tổ chức:
Vụ, Cục, Thanh tra, Văn phòng. Rất hãn hữu mới có loại hình
tổ chức Tổng cục trực thuộc khi xác định có đối tượng quản lý
nhà nước chuyên ngành trên phạm vi cả nước và đảm bảo các
tiêu chuẩn theo quy định chung.
• Đối với đội ngũ cán bộ công chức thì cần đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc,
bồi dưỡng về đạo đức, gần gũi hơn với nhân dân.
Làm cho công chức không dám tham nhũng bằng cách phạt rất nặng.
Làm cho công chức không cần tham nhũng bằng cách trả lương rất cao.

Làm cho công chức không thể tham nhũng bằng cách quản lý rất chặt.
Làm cho công chức không nên tham nhũng bằng cách giáo dục họ.
Cán bộ công chức cần phải có thêm các đặc điểm sau:

9




Thứ nhất, họ sẽ là những người có chuyên môn nghiệp vụ, một đặc
điểm rất cần phải có của hàng ngũ công chức hiện nay của nền kinh tế
thị trường, “công bộc” phải là những người biết làm việc. Muốn có
một nền “hành chính phục vụ” thì trước hết phải có chuyên môn
nghiệp vụ.



Thứ hai, các công việc về sự vụ hành chính được thực hiện một cách
không ngừng, không gián đoạn và đúng thời hạn.



Thứ ba là sự không phụ thuộc vào các điều kiện kể cả tự nhiên lẫn xã
hội. Công chức phải vô tư chỉ dựa vào pháp luật để thực hiện các
quyết định hành chính.



Thứ tư, các công chức chỉ làm các công việc đã được xác định rõ ràng
bởi những tiêu chuẩn của của pháp luật, không mang tính chất cá

nhân.



Thứ năm, giữa công vụ và tư vụ, giữa thu nhập của cơ quan nhà nước
và thu nhập của cá nhân phải được phân biệt một cách chặt chẽ, không
có sự nhập nhằng giữa công và tư.



Thứ sáu, công việc sự vụ hành chính phải dựa trên cơ sở được ghi
chép bằng văn bản, chứ không bằng những chỉ thị miệng của cấp trên.

III. Thay lời kết.

Cải cách bộ máy hành chính là một trong những nội dung của cải cách hành chính
ở nước ta hiện nay. Với mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp phát triển, làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng dân chủ văn minh thì cải cách bộ máy hành chính là một vấn đề bức thiết đặt
ra rất nhiều khó khăn, thách thức cho Chính phủ. Để cải cách thành công rất cần có
ssự nỗ lực, quyết tâm to lớn của chính quền các cấp đồng thời sự đóng góp và ủng
hộ của nhân dân cũng là vô cùng quan trọng để góp phần tạo nên thành công cho
10


công cuộc cải cách bộ máy hành chính nói riêng và cải cách hành chính ở nước ta
nói chung.

11



Mục Lục

12



×