Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÂM VĂN LUYỆN

THÈM QUYÒN XÐT Xö S¥ THÈM CñA TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÂM VĂN LUYỆN

THÈM QUYÒN XÐT Xö S¥ THÈM CñA TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lâm Văn Luyện


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT
XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 8
1.1.

Khái niệm và đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm ................... 8

1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền........................................................... 8

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền xét xử sơ thẩm................................. 9
1.2.

Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm ................................ 15

1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng ....................................... 15
1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ
thống cơ quan Nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng ...... 17
1.2.3. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm ............... 17
1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử ................ 18
1.2.5. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt
động tố tụng khác ................................................................................ 19
1.3.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Luật Tố tụng hình sự của
một số nước ........................................................................................ 21

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM ......... 27
2.1.

Quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm ................ 27


2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám 1945 đến khi Quốc hội
ban hành BLTTHS năm 1988 ............................................................. 28
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003....................................... 42
2.1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm ................................................................................................ 44
2.1.4. Thẩm quyền xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự năm 2015............ 57

2.2.

Thực tiễn áp dụng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà Giang ............................................. 69

2.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Hà Giang ................................ 69
2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội .................................................................... 70
2.2.3. Khái quát về tổ chức, bộ máy hoạt động của Tòa án nhân ở dân
tỉnh Hà Giang ...................................................................................... 72
2.2.4. Những kết quả việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân .............................................................................................. 73
2.3.

Những bất cập vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền
xét xử sơ thẩm.................................................................................... 83

2.3.1. Bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
các cấp ................................................................................................. 83
2.3.2. Bất cập về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất ....................................... 88
2.4.

Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện thẩm
quyền xét xứ sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án ............................ 91

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM ............. 93
3.1.

Cơ sở và định hướng nâng cao hoàn thiện pháp luật và các

giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm
quyền xét xử ....................................................................................... 93


3.1.1. Đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp thể hiện trong các văn
kiện, nghị quyết của Đảng................................................................... 93
3.1.2. Đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền ........................ 94
3.1.3. Để phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và các văn bản luật đã ban hành ................................................. 94
3.1.4. Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm .................. 94
3.1.5. Đáp ứng yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế .................................... 95
3.2.

Hoàn thiện pháp luật ........................................................................ 96

3.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm
quyền xét xử ....................................................................................... 99

3.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán ........................................... 99
3.3.2. Xây dựng một chế độ lương và chính sách thoả đáng ...................... 102
3.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Tòa án .............................. 103
3.3.4. Một số giải pháp đồng bộ khác ......................................................... 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 108


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TAQS

Tòa án quân sự

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XXST

Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình xét xử của Tòa án các cấp tại tỉnh Hà
Giang (2011 - 2015)

74

Bảng 2.2: Tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án hai
cấp tỉnh Hà Giang từ 2011 - 2015

75

Bảng 2.3: Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa
án cấp huyện tỉnh Hà Giang từ năm 2011 - 2015


81

Bảng 2.4: Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của
Tòa án cấp tỉnh từ 2011 - 2015

82


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự (TTHS) về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án (TA) là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ
ràng, khoa học, càng sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử
khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Đối với các TA do có
sự phân định thẩm quyền mà tránh được tình trạng đùn đẩy việc cho nhau.
Nếu xét về góc độ kinh tế thì việc xác định đúng thẩm quyền xét xử giảm
được nhiều chi phí và tiền bạc, công việc của nhà nước, tập thể và công dân
cho quá trình giải quyết vụ án. Nếu xét về mối quan hệ với thẩm quyền điều
tra, truy tố thì thẩm quyền xét xử của TA được coi là cơ sở để quy định thẩm
quyền điều tra của cơ quan điều tra, thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát
(VKS). Sự thay đổi thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TA dẫn đến sự thay đổi
tương ứng thẩm quyền của các cơ quan này. Với tầm quan trọng đó các quy
định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm (XXST) luôn được chú ý từ khi ban hành
pháp luật. Nhưng do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, đến nay một
số quy định về thẩm quyền XXST không còn phù hợp mặc dù đã ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Vì vậy, thực tế vẫn gây khó khăn
cho tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân (TAND).
Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội trước yêu cầu
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, một số quy định về

thẩm quyền của TA các cấp còn bộ lộ nhiều điểm bất cập không còn phù hợp
gây khó khăn cho hoạt động xét xử của TAND. Đó là sự phân định thẩm
quyền xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh không hợp lý, vẫn giao cho
TA cấp tỉnh XXST quá nhiều việc nên tình trạng tồn đọng án từ năm này sang
năm khác vẫn còn. Ngoài ra, một số quy định của BLTTHS không cụ thể, các
văn bản hướng dẫn chậm được ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào
thực tiễn xét xử vấn đề giới hạn XXST.
1


Hiện nay, cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, các
cơ quan tư pháp cũng được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu quả, chất
lượng hoạt động. Đối với TAND, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị cụ thể về việc nghiên cứu đổi mới tổ
chức và hoạt động theo hướng từng bước mở rộng thẩm quyền XXST của
TAND cấp huyện theo phương hướng củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan
tư pháp, phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND theo nguyên tắc: "Kiện
toàn đến đâu, mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó". Chính vì thế, việc nghiên
cứu về thẩm quyền XXST vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định của pháp
luật về vấn đề này là một nhiệm vụ cần thiết và hết sức quan trọng.
Tìm hiểu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền
XXST của TA, nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền XXST
trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý
luận cũng như thực tiễn lập pháp.
Mặc dù, vấn đề thẩm quyền XXST các vụ án hình sự của TAND các
cấp đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc coi trọng và tiếp tục
nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam hiện hành vấn đề thẩm quyền XXST của TAND, thực tiễn
áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy

định đó trước yêu cầu cải cách tư pháp là việc làm có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn và pháp lý quan trọng. Đồng thời, tác giả mong muốn thông qua việc
nghiên cứu tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền
XXST của TA trên địa bàn tỉnh Hà Giang, sẽ góp phần vào việc nâng cao chất
lượng công tác XXST vụ án hình sự của TA hai cấp tỉnh Hà Giang, đó chính
là những lý do, luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm
luận văn Thạc sĩ luật học.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền xét xử của TA là một vấn đề phức tạp cả về lý luận cũng
như thực tiễn nên đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều tác giả như: Luận án
tiến sĩ“Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp” của tác giả nguyễn Văn Huyên
năm 2002; luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố
tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Tiến năm 1998; luận văn thạc sĩ "Thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước
yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu địa bàn tỉnh Nam Định" của
tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết năm 2014; đề tài khoa học cấp bộ “Nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm”
của VKSND tối cao. Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo
khoa học có đề cập đến thẩm quyền xét xử của TAND như “Nâng cải cách hệ
thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của
Tiến sĩ khoa học Lê Cảm (Tạp chí lập pháp số 4 năm 2001); các bài viết của
Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Văn Hảo “Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ
quan quyền lực nhà nước”; Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trần Ngọc Đường “Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”; trong cuốn “Tìm hiểu về đổi mới tổ chức
và hoạt động của Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Tiến sĩ Phạm Hồng Hải “Một số nét lịch sử

và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong 50 năm qua” (Tạp chí
Nhà nước và pháp luật) cùng nhiều bài viết khác nữa.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu kể trên hầu hết đều được thực
hiện trước khi có BLTTHS năm 2015 được ban hành, hoặc là được nghiên
cứu theo khía cạnh riêng lẻ.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu trên tác giả mạnh dạn tiếp cận và
nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành cũng như
thực tiễn áp dụng các quy định đó sẽ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn

3


thiện pháp luật về thẩm quyền XXST của TA trong TTHS đồng thời nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền XXST.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính
lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về:
"Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” dưới khía cạnh lập pháp TTHS và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó
luận văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về: "Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án”. Đồng thời, đề xuất những biện pháp bảo đảm thực
hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của TA,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về "Thẩm
quyền xét xử của Tòa án” trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được đặt

ra là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm và thẩm quyền
XXST của TA trong TTHS.
- Các căn cứ phân định thẩm quyền XXST.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định: "Thẩm quyền
XXST của Tòa án trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của nước ta từ sau
cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay" để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về: "Thẩm quyền XXST của Tòa án
trong BLTTHS hiện hành của Việt Nam, BLTTHS của một số nước trên thế
giới" từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
4


Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về: "Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của Tòa án". Đồng thời, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn
chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và kiến nghị việc hoàn thiện các quy
định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong BLTTHS Việt Nam
hiện hành, cũng như những giải pháp bảo đảm thực hiện, nâng cao hiệu quả
thực hiện các quy định này trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền trong thực
tiễn xét xử của các đơn vị TAND thuộc tỉnh Hà Giang và tìm ra nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực
định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS
Việt Nam về thẩm quyền XXST của TA, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy
định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong thực tiễn.
Phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền XXST của TAND các

cấp. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của TA và thẩm
quyền xét xử của TA quân sự không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định về
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang trong 5 năm 2011 - 2015.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách pháp luật TTHS, về vấn đề cải cách tư pháp được thể

5


hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, XII và các Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn thẩm quyền XXST của
TAND cấp huyện và thẩm quyền XXST của TAND cấp tỉnh trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối
chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê;
thảo luận, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam" là một đề tài phức tạp, lần đầu tiên tiếp cận, làm
quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài thạc sĩ của tác giả khó có
thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu được
hoàn thiện hơn.

5. Những vấn đề mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi có BLTTHS
năm 2003 và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, trong
đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” để xây dựng nên khái niệm về: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng
thời chỉ ra các căn cứ để phân định thẩm quyền XXST của TA;
6


- Nghiên cứu chỉ ra những điểm khái quát về lịch sử quá trình hình
thành và phát triển của các quy định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án” trong Luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án" trong Luật TTHS Việt Nam và BLTTHS một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các
quy định về:“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” của các đơn vị TAND
tại tỉnh Hà Giang; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định
về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”, cũng như những nguyên nhân
cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó.
Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu khiêm tốn mà chúng tôi đạt
được sẽ góp một phần nhỏ vào hệ thống lý luận khoa học luật TTHS, vào hoàn
thiện pháp luật TTHS, là tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy và học tập.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang).

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM
CỦA TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền
Thẩm quyền là một khái niệm khá rộng và có những quan niệm khác
nhau, xuất phát từ thuật ngữ Jurisdiction - trong tiếng Anh hay jurisdictio trong tiếng La Tinh, thường được hiểu trong tiếng Việt là thẩm quyền, thẩm
quyền xét xử, hay quyền tài phán, là một trong những thuật ngữ pháp lý khó
hiểu do chứa đựng nhiều nghĩa khác nhau [69, tr. 609]. Cho đến nay, việc
nghiên cứu lý luận về thẩm quyền vẫn còn nhiều khoảng trống [71].
Theo từ điển Black’s Law, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu theo hai
nghĩa: (i) Quyền lực của chính phủ được thực hiện với tất cả mọi người cũng
như với các đối tượng khác trong lãnh thổ của họ; (ii) Quyền của tòa án để
quyết định một vụ việc hay quyền đưa ra các phán quyết [70, tr. 96].
Theo Từ điển Oxford, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu là quyền lực chính
thức của một chủ thể để đưa ra một quyết định pháp lý hoặc một bản án [72].
Theo từ điển Tiếng Việt, thẩm quyền được hiểu là quyền xem xét để
kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề theo pháp luật [67, tr. 920].

Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa,“thẩm
quyền” là tổng hợp các quyền hành động, quyền quyết định được trao hay
thừa nhận cho một chủ thể, cho phép chủ thể đó có thể thực hiện được những
chức năng cụ thể mà pháp luật quy định [64].
Thuật ngữ về "Thẩm quyền" của Việt Nam xét về nghĩa nói chung
giống với nghĩa trong tiếng nước ngoài, nhưng cách sử dụng thuật ngữ có
nhiều điểm khác biệt nhất định. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm
quyền, tuy nhiên, tựu trung lại đều được hiểu: “Thẩm quyền là khả năng của
8


chủ thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt một công việc nào đó
trên cơ sở chuẩn mực pháp luật đã định trước”.
Qua sự phân tích trên có thể rút ra kết luận: “Thẩm quyền là tổng thể
các quyền mà pháp luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện
công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định”
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét
xử, theo từ điển Luật học thì:
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của
các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước
được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên
đều phải thông qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không
qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố
công khai bằng bản án [64].
Khái niệm về: “Thẩm quyền xét xử” của Toà án không phải là một điều
mới mẻ trong giới luật học trong nước cũng như thế giới. Theo Leneunier thì:
“Thẩm quyền xét xử được hiểu là khả năng của một Toà án xem xét một vụ
việc trong phạm vi pháp luật cho phép”.
Ở nước ta thẩm quyền xét xử đã được nghiên cứu dưới rất nhiều góc

độ khác nhau. Dưới góc độ tố tụng dân sự thì: “Thẩm quyền dân sự của toà
án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định
khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của toà
án”. Dưới góc độ tố tụng hành chính thì: "Thẩm quyền xét xử của toà án
hành chính là việc giải quyết các khiếu kiện đối với các quyết định hành
chính và hành vi hành chính..." [56]. Trong TTHS thẩm quyền xét xử được
xác định dựa trên một số các dấu hiệu của vụ án, chúng ta có thể chia các
dấu hiệu đó làm ba nhóm sau:

9


Thứ nhất, dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; nếu
tính chất càng nghiêm trọng, vụ án càng phức tạp thì đòi hỏi những người làm
công tác xét xử phải có nhiều kinh nghiệm, cơ sở vật chất phải đầy đủ, các
yếu tố bổ trợ phải đảm bảo cho quá trình nhận thức các yếu tố một cách khách
quan công bằng, đúng pháp luật. Do đó các dấu hiệu này được sử dụng nhằm
phân biệt thẩm quyền của TAND cấp huyện với TAND cấp tỉnh, giữa Tòa án
quân sự (TAQS) khu vực với TAQS Quân khu.
Thứ hai, là dựa trên các dấu hiệu về không gian hoặc địa điểm thực
hiện tội phạm, thực hiện hành vi tố tụng. Các dấu hiệu này được sử dụng
nhằm phân định thẩm quyền xét xử của các Toà án cùng cấp. Nếu có bị cáo
phạm tội ở nước ngoài được xét xử ở Việt Nam thì các dấu hiệu này cũng
được sử dụng để phân biệt thẩm quyền xét xử của TA các cấp.
Thứ ba, là dựa trên những dấu hiệu liên quan đến người thực hiện tội
phạm. Các dấu hiệu này được sử dụng nhằm phân định thẩm quyền xét xử
giữa TAQS và TAND, giữa TAQS các cấp với nhau và xác định thẩm quyền
của TA đặc biệt.
Như vậy, muốn xác định được một cách chính xác thẩm quyền XXST
của một TAND những người tiến hành tố tụng phải dựa trên cả ba nhóm dấu

hiệu trên, bởi vì chúng có tác dụng bổ trợ, tương hỗ với nhau hay nói cách
khác giữa chúng có mối liên hệ biện chứng hữu cơ với nhau cho nên nếu thiếu
một dấu hiệu nào cũng có thể dẫn tới tình trạng xác định thẩm quyền xét xử
một cách không chính xác và không có căn cứ pháp luật. Trong khi đó đây lại
là một trong những giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng nếu làm không tốt
sẽ dẫn tới tình trạng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” hình sự. Tuy
nhiên, muốn xác định một cách chính xác thẩm quyền xét xử thuộc về cấp nào
và có được áp dụng thủ tục xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực
pháp luật hay không thì chúng ta còn phải căn cứ vào bản chất của mỗi cấp
xét xử, của thủ tục xét lại đó.
10


Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức
TAND năm 2002 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Quyền xét
xử thuộc về TA được hiểu là thẩm quyền xét xử.
Theo Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014 hệ thống tổ chức TA gồm
có: Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân cấp cao; Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự [44, tr. 9-10]
Trong đó, theo Điều 20 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì TAND tối
cao giám đốc thẩm, tái phẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Tòa án nhân dân cấp cao cao có nhiệm vụ:
Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của luật tố tụng.
Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đó có hiệu lực

pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị không
nghị theo quy định của luật tố tụng [44, tr. 24].
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ:
Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật;
Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của pháp luật;

11


Kiểm tra bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương, khi phát hiện các vi phạm pháp luật hoặc các tình tiết mới theo
quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân cấp
cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị;
Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật [44, tr. 28].
Nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương theo Điều 44 Luật TCTAND năm 2014 thì "sơ
thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự được quy định tại Điều 49
Luật TCTAND xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những
vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến đến danh dự,
nhân quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Do vậy, TA được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các

vụ án hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà
nước tuyên bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội. BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có
tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật” [41, Điều 9].
Việc xét xử của TA hoàn toàn khác biệt với biện pháp xử lý của cơ
quan hành chính, bởi lẽ: hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả
hình phạt và việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy
định trong pháp luật tố tụng. Do vậy, hiệu lực các phán quyết của TA cũng
cao hơn các biện pháp xử lý hành chính khác.
Khi xác định thẩm quyền xét xử của TA, cần phải xác định đồng thời

12


ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp
của tội phạm hoặc vụ án; những dấu hiệu về không gian, thời gian thực hiện
tội phạm; những dấu hiệu liên quan đến đối tượng phạm tội. Chỉ trên cơ sở
xem xét đầy đủ cả ba nhóm dấu hiệu nêu trên mới có thể xác định thẩm quyền
xét xử được chính xác.
Có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền XXST của TA như sau:“Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là tổng hợp các quyền theo quy định của
pháp luật để Tòa án giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua việc
xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của Nhà nước”.
Và thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự là: “Quyền của Tòa án được
xét xử vụ án hình sự do pháp luật TTHS quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về
tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa
điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội”. Trong phạm vi
luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến thẩm quyền XXST về hình sự của TAND.
Từ khái niệm về thẩm quyền XXST của TA nêu trên và căn cứ vào

những quy định của Hiến pháp 2013 năm và BLTTHS năm 2003, Luật tổ
chức TAND năm 2014 cho thấy các đặc điểm cơ bản của thẩm quyền XXST
vụ án hình sự như sau:
a. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có
tính bắt buộc.
TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, do các cơ quan, chủ thể khác
nhau đảm nhiệm thực hiện. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mang
tính bắt buộc thể hiện ở việc do là một giai đoạn của TTHS nên đòi hỏi phải
tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các thủ tục
khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử lần đầu do đó là thủ tục bắt buộc.
b. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự là xét xử
lần đầu vụ án. Do đó, vụ án được đưa ra giải quyết công khai với sự có mặt
đầy đủ những người tham gia tố tụng.
13


Trên những tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra. TA
là cơ quan đại diện Nhà nước được xem xét, đánh giá những chứng cứ đã có
đồng thời thu thập thêm những chứng cứ cần thiết khác qua hoạt động xét xử
tại phiên tòa. Tất cả các tài liệu, chứng cứ do CQĐT, VKS thu thập trong quá
trình điều tra, truy tố đều được xem xét một cách công khai, toàn diện tại
phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe
trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại Cơ
quan điều tra (CQĐT), VKS họ đã không có điều kiện để thực hiện. Nói một
cách khác, XXST chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra vụ án, VKS đã
truy tố bị can ra trước TA bằng bản cáo trạng. Do đó, XXST là một công đoạn
trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
c. Thẩm quyền XXST của TAND theo pháp luật TTHS có kết quả là
một bản án, quyết định công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Các phán quyết của TA được xem xét, đánh giá trên cơ sở những chứng

cứ đã có, đồng thời thu thập thêm các chứng cứ cần thiết để làm sáng tỏ vụ án.
Ngoài ra, vụ án còn dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng
giữa các bên, để từ đó TA ra bản án, các quyết định có căn cứ, công minh và
đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình và đảm bảo quyền lợi của các bên.
Phán quyết của TA là phán quyết về bản chất của vụ án (bao gồm: bị
cáo có phạm tội hay không phạm tội, hậu quả pháp lý về hình phạt, biện pháp
tư pháp khác hay quyết định khác bị cáo phải gánh chịu...) trên cơ sở tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật hình sự (về tội phạm và hình phạt), pháp luật
TTHS (về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử...).
d. Thẩm quyền XXST của TAND theo pháp luật TTHS Việt Nam góp
phần vào việc xử lý triệt để và dứt điểm vụ án hình sự. Qua đó, giảm thiểu tối
đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, duy trì công lý, phục hồi lại công bằng
trong xã hội, trấn an dư luận và bảo đảm quyền lợi của công dân.

14


Lần đầu xét xử, thẩm quyền XXST vụ án hình sự không chỉ xem xét,
đánh giá toàn diện, đầy đủ và khách quan về vụ án, mà còn góp phần vào việc xử
lý triệt để, toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự ở giai đoạn này. Qua đó, giảm
thiểu mức tối đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, án tồn đọng. Do đó, sẽ hạn
chế được lượng án mà TA cấp trên (cấp phúc thẩm) phải giải quyết, tiết kiệm
đáng kể cho Nhà nước và xã hội các chi phí về thời gian, tiền bạc, công sức...
cho việc giải quyết vụ án hình sự, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của
TA nói riêng, cũng như các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nói chung.
Ngoài ra, việc xét xử công khai, dân chủ và nghiêm minh vụ án hình sự
còn góp phần bảo đảm sự thượng tôn (tối cao) của pháp luật, duy trì công lý,
phục hồi và đem lại công bằng trong xã hội, đảm bảo tính pháp chế của pháp
luật, trấn an sự bức xúc của người bị hại và gia đình họ, sự lên án của dư luận
xã hội, đồng thời qua đó góp phần tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của công

dân, của người bị hại và của bản thân bị cáo, cũng như những người tham gia
tố tụng khác.
1.2. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Thẩm quyền XXST của TA là một trong những chế định trung tâm của
TTHS. Việc quy định đúng đắn và phù hợp thẩm quyền xét xử của TA có vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ tố tụng là phát hiện
nhanh chóng, xử lý công minh người phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội; tôn trọng và bảo vệ lợi ích Nhà nước, các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân; giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật, tham
gia đấu tranh chống tội phạm. Do đó để quy định thẩm quyền xét xử của
TAND nói chung và thẩm quyền XXST của TAND nói riêng được chính xác
chúng ta phải dựa trên những luận cứ khoa học chắc chắn đã được đúc rút và
kiểm chứng từ thực tiễn. Đó là một số căn cứ cơ bản sau:
1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo
15


duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp
luật như một công cụ hữu hiệu để thể chế hóa các quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng đi vào cuộc sống. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền
XXST của TA không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Vấn đề thẩm quyền XXST và việc phân định lại thẩm quyền XXST của
TAND các cấp luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc
cải cách tư pháp nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của ngành TA nói
riêng. Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII- BCHTW Đảng (khóa VII) đã đề ra
nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó xác
định: “...Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện
theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp

tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX cũng nêu rõ: “Sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền
của TAND các cấp”. Bước sang thế kỷ thứ XXI, nước Việt Nam đang có
những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải cách hệ
thống TA trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số 08 ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới. Tiếp đến là Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện sự quyết
tâm của Đảng và Nhà nước về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống TA. Đó
chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng BLTTHS năm 2015,
trong đó có việc xây dựng những quy định về thẩm quyền XXST các vụ án
hình sự của TAND.
Những định hướng chiến lược là kết quả hoạt động nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn của Đảng. Theo đó, việc tuân theo đường lối, chính sách của
Đảng là một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng và sửa
đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về thẩm quyền XXST của TA các cấp.
16


1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của
hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng
Nhà nước ta được chia theo 03 cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp
tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện (quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh và thị xã); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Dựa theo sự phân chia
này, hệ thống TA cũng được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện gồm
TAND tối cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện, khác với các cơ quan
khác hệ thống TA chỉ có đến cấp huyện, quận và mối quan hệ giữa TA các
cấp không phải là mối quan hệ phục tùng, chỉ đạo mà chỉ là mối quan hệ theo
thẩm quyền. Mối quan hệ này đảm bảo cho các TA xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.

Căn cứ vào cách thức tổ chức hệ thống các cơ quan Nhà nước theo đơn
vị hành chính lãnh thổ, căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của các cơ
quan tiến hành tố tụng, BLTTHS đã quy định về thẩm quyền xét xử cho từng
cấp TA. BLTTHS căn cứ vào cách thức tổ chức đó để quy định thẩm quyền
xét xử. Dựa vào thẩm quyền theo luật định mỗi cấp TA đều có quyền xét xử
riêng mà không bị chi phối bởi TA cấp trên để phân định thẩm quyền của TA.
Việc phân định thẩm quyền như trên không chỉ đảm bảo tính khoa học về mặt
quản lý mà còn phát huy được khả năng phối hợp của các cơ quan tiến hành
tố tụng khác, các cơ quan bổ trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án.
1.2.3. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm
Tính chất nghiêm trọng của tội phạm được xác định căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Theo đó tội phạm càng
nghiêm trọng thì mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm càng lớn. Tính
nghiêm trọng của tội phạm được các nhà làm luật thể hiện qua mức chế tài
quy định với loại tội phạm đó.
Theo Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) thì tội phạm là hành vi nguy hiểm

17


×