Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới theo pháp luật quốc tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ ĐỨC MÂY

VẤN ĐỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ XUYÊN BIÊN GIỚI
THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ ĐỨC MÂY

VẤN ĐỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ XUYÊN BIÊN GIỚI
THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LAN NGUYÊN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Đức Mây


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
XUYÊN BIÊN GIỚI VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ Ô
NHIỄM KHÔNG KHÍ XUYÊN BIÊN GIỚI .................................. 4
1.1.

Khái niệm về ô nhiễm không khí xuyên biên giới ........................... 4

1.2.


Các nguồn chính gây ô nhiễm môi trường không khí .................... 5

1.2.1. Hoạt động giao thông ........................................................................... 5
1.2.2. Hoạt động sản xuất công nghiệp .......................................................... 6
1.2.3. Hoạt động xây dựng ............................................................................. 7
1.2.4. Hoạt động nông nghiệp và làng nghề................................................... 7
1.2.5. Chôn lấp và xử lý chất thải................................................................... 8
1.3.

Những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí ...................................... 9

1.3.1. Tác hại của ô nhiễm không khí đến sức khỏe con người ..................... 9
1.3.2. Ảnh hưởng đến chất lượng công trình xây dựng và vật liệu.............. 10
1.3.3. Ảnh hưởng tới hệ sinh thái và biến đổi khí hậu ................................. 11
1.4.

Các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề ô nhiễm không
khí xuyên biên giới ........................................................................... 12

1.4.1. Các quy định về đánh giá các tác động xuyên biên giới .................... 12
1.4.2. Các quy định về kiểm soát ô nhiễm không khí .................................. 15
Chương 2: THỰC THI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ VẤN ĐỀ Ô
NHIỄM KHÔNG KHÍ XUYÊN BIÊN GIỚI ................................ 25
2.1.

Thiết chế quốc tế bảo đảm giải quyết vấn đề ô nhiễm không
khí xuyên biên giới ........................................................................... 25


2.1.1. Chương trình và tổ chức quốc tế trực thuộc liên hợp quốc................ 25

2.1.2. Các thiết chế khu vực ......................................................................... 32
2.1.3.

Các cơ quan thực thi vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới ......... 33

2.2.

Thực thi pháp luật quốc tế về ô nhiễm không khí xuyên
biên giới ............................................................................................. 38

2.3.

Thực tế tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực ô
nhiễm không khí xuyên biên giới .................................................... 47

2.3.1. Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các Điều ước quốc tế ........... 47
2.3.2. Giải quyết tranh chấp môi trường xuyên quốc gia............................. 49
Chương 3: CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ XUYÊN
BIÊN GIỚI TẠI VIỆT NAM .......................................................... 52
3.1.

Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về kiểm soát ô
nhiễm không khí xuyên biên giới .................................................... 52

3.2.

Pháp luật và thực thi pháp luật về ô nhiễm không khí xuyên
biên giới tại Việt Nam ...................................................................... 55


3.2.1. Các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực ô nhiễm không khí mà Việt
Nam gia nhập...................................................................................... 55
3.2.2. Pháp luật việt Nam trong lĩnh vực ô nhiễm không khí xuyên biên giới.... 57
3.3.

Thực thi pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm không khí
xuyên biên giới ................................................................................... 67

3.3.1. Thực thi các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ................. 67
3.3.2. Thực thi các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về ô nhiễm
không khí xuyên biên giới .................................................................. 69
3.4.

Một số giải pháp tăng cường kiểm soát ô nhiễm không khí
xuyên biên giới ở Việt Nam ............................................................. 86

KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. AATHP

Hiệp định ASEAN về kiểm soát khói mù xuyên
biên giới năm 2002

2. BVMT

Bảo vệ môi trường


3. CLTAP

Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên
biên giới tầm xa năm 1979

4. CTNH

Chất thải nguy hiểm

5. ĐTMXBG

Đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới

6. EIA

Công ước Espoo về đánh giá tác động môi trường
xuyên biên giới năm 1991

7. ONKKXBG

Ô nhiễm không khí xuyên biên giới

8. PCCC

Phòng cháy chữa cháy

9. Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


10. UBND

Ủy ban nhân dân

11. UNECE hay ECE

Ủy ban kinh tế châu Âu của liên hợp quốc

12.UNEP

Chương trình môi trường liên hợp quốc

13. WHO

Tổ chức Y tế Thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển vượt bậc của
khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội cũng như các hệ quả của vấn đề biến đổi khí
hậu, trong những năm qua, hiện tượng ô nhiễm môi trường xuyên biên giới ngày
càng trở nên phổ biến và trở thành thách thức không chỉ với một quốc gia hay
một khu vực mà với toàn thế giới. Đặc trung của ô nhiễm không khí xuyên biên
giới chính là sự khuếch tán của các loại chất gây ô nhiễm trong môi trường
không khí, nước và đất mà con người không thể kiểm soát được bằng các đường
phân chia ranh giới quốc tế, do đó, việc giải quyết chúng rất phực tạp và khó
khăn. Việc phát sinh những nguồn thải gây ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng tới
một nước mà nó ảnh hưởng tới nhiều nước mang tính chất liên vùng, liên quốc

gia và châu lục. Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 7/5/2014 cho
biết phần lớn trong số 1.600 thành phố thuộc 91 quốc gia đang chìm trong ô
nhiễm, vươ ̣t quá mức đô ̣ cho phép về đô ̣ ô nhiễm . Chỉ có 12% dân số ở 1.600
thành phố đươ ̣c số ng trong bầ u không khí đa ̣t các tiêu chuẩ n quyịnh
đ của WHO.
Số còn la ̣i phải số ng ở những nơi có không khí ô nhiễm nă ̣ng nề , khiế n ho ̣
thường xuyên mắ c các bệnh về hô hấ p và các tro ̣ng bê ̣nh khác[9].
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm không khí xuyên
biên giới đã xuất hiện một số biểu hiện nhất định, cụ thể, toàn bộ miền Bắc và
miền Trung Việt Nam được đánh giá là chịu tác động đáng kể từ các nguồn phát
thải của các khu vực phía Đông, Đông Bắc, Đông Nam của Trung Quốc, Đài
Loan. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy có sự vận chuyển các chất ô nhiễm theo
gió mùa Đông bắc vào mùa đông, đóng góp một lượng khí ô nhiễm và bụi mịn
trong không khí miền Bắc Việt Nam. Ô nhiễm không khí xuyên biên giới gây ra
những ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người, đến hệ sinh thái, ngoài ra còn
tác động tới chất lượng và tuổi thọ công trình xây dựng và vật liệu, ...
1


Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường không khí đối
với con người, đồng thời, để cung cấp một cách nhìn tổng quan về ô nhiễm
môi trường xuyên biên giới, đánh giá các nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm
không khí, có tính chất xuyên biên giới, cũng như đưa ra những khuyến nghị,
giải pháp cho các vấn đề này trong thời gian tới tại Việt Nam, tác giả xin lựa
chọn đề tài: “Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới theo pháp luật
quốc tế hiện đại” làm nội dung Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của Luận văn là phân tích, làm rõ tính chất, nội hàm của khái
niệm ô nhiễm không khí xuyên biên giới thông qua việc luận giải cơ sở lý
luận cũng như thực tiễn của vấn đề này trong pháp luật và đời sống quốc tế

hiện đại nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích bản chất và nội dung của vấn đề ô nhiễm không khí
xuyên biên giới dưới góc độ pháp luật quốc tế.
Thứ hai, nghiên cứu những quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật
Việt Nam liên quan đến ô nhiễm không khí xuyên biên giới; tìm hiểu các thiết
chế kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới để từ đó làm rõ và có nhận
thức đúng đắn về vấn đề này trong tiến trình toàn cầu hóa.
Thứ ba, phân tích thực trạng và những thách thức đối với ô nhiễm
không khí xuyên biên giới ở Việt Nam và trên thế giới. Đồng thời đưa ra
những kiến nghị nhằm đảm bảo kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới
được thực hiện toàn diện và hiệu quả hơn ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về ô nhiễm không khí xuyên biên giới dưới góc
độ pháp luật quốc tế hiện đại và ở Việt Nam hiện tại.

2


Luận văn đưa ra các quan điểm đa chiều cũng như sự phát triển của
khái niệm ô nhiễm không khí xuyên biên giới. Liệt kê và phân tích các quy
định của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực ô nhiễm không khí xuyên biên giới.
Nêu ra thực trạng và thách thức đối với ô nhiễm không khí xuyên biên giới.
Luận văn cũng đề cập đến vấn đề kiểm soát và đối phó ô nhiễm không
khí xuyên biên giới tại Việt Nam thông qua các chính sách, quy định pháp
luật cũng như thiết chế quốc gia, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung và ô

nhiễm xuyên biên giới nói riêng.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, quy nạp, đối chiếu,...để
làm sáng tỏ vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới trong pháp luật quốc tế cũng như
đưa ra những đánh giá khách quan về lý luận, thực tiễn và giải pháp để kiểm
soát vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới ở Việt Nam.
5. Kết cấu Luận văn
Ngoài phân mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về ô nhiễm không khí xuyên biên giới và Pháp
luật quốc tế về ô nhiễm không khí xuyên biên giới
Chương 2: Thực thi pháp luật quốc tế về vấn đề ô nhiễm không khí
xuyên biên giới
Chương 3: Chính sách, pháp luật và giải pháp tăng cường đảm bảo
kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới tại Việt Nam

3


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ XUYÊN
BIÊN GIỚI VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
XUYÊN BIÊN GIỚI
1.1. Khái niệm về ô nhiễm không khí xuyên biên giới
Cùng với sự phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, trong những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm không khí đang trở thành
một thách thức to lớn cả trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển bền vững
của không chỉ một quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới.“Ô nhiễm không
khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành

phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có
mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi)”[27].
Liên quan đến khái niệm ô nhiễm không khí, Viện Pháp luật quốc tế
cũng đưa ra định nghĩa trong Nghị quyết về ô nhiễm không khí xuyên biên
giới tại phiên họp Cairo năm 1987, theo đó:
Ô nhiễm không khí xuyên biên giới có nghĩa là bất kỳ thay
đổi vật lý, hóa học hoặc sinh học trong thành phần hoặc chất lượng
không khí mà kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành vi của con
người, và tạo ra tác động có hại đến môi trường của các quốc gia
khác hoặc các khu vực xa hơn, vượt quá những giới hạn của quyền
tài phán quốc gia [31].
Tại điểm b Điều 1 của Công ước CLTAP năm 1979 quy định:
Ô nhiễm không khí xuyên biên giới tầm xa có nghĩa là ô
nhiễm không khí có nguồn gốc vật lý nằm hoàn toàn hoặc một phần
trong khu vực thuộc quyền tài phán quốc gia của một nước và có
tác động tiêu cực đến khu vực thuộc thẩm quyền của nhà nước khác

4


ở một khoảng cách xa, nó không phân biệt là nguồn phát thải cá
nhân hay của nhóm nguồn phát thải nào [15].
Như vậy, dựa trên các quy định của các điều ước quốc tế, có thể hiểu, ô
nhiễm không khí xuyên biên giới là sự thay đổi vật lý, hóa học hoặc sinh học
trong chất lượng không khí nguyên nhân là do hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp
của con người (gọi là nguồn phát thải) tại một khu vực thuộc quyền tài phán
của một quốc gia nhưng tác động tiêu cực đến môi trường của các khu vực
thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác.
1.2. Các nguồn chính gây ô nhiễm môi trường không khí
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia ra thành nguồn

tự nhiên và nguồn nhân tạo. Nguồn tự nhiên bao gồm hoạt động của núi lửa,
cháy rừng phát thải nhiều bụi và khí, bão bụi... Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo
rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu
hóa thạch và hoạt động của các phương tiện giao thông.
1.2.1. Hoạt động giao thông
Hoạt động giao thông vận tải được xem là một trong những nguồn gây
ô nhiễm lớn đối với môi trường không khí, đặc biệt là ở các khu vực đô thị và
khu vực đông dân cư. Cùng với sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng giao
thông, tăng trưởng các phương tiện cơ giới và khối lượng vận tải hàng hóa
hành khách là sự phát thải các chất gây ô nhiễm môi trường không khí.
Tại Việt Nam hiện nay, sự gia tăng các phương tiện đặc biệt là ô tô và
xe máy cùng với chất lượng các tuyến đường chưa đáp ứng nhu cầu là một
trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường không khí. Khí thải
từ phương tiện giao thông vẫn đang là một trong những tác nhân lớn gây ô
nhiễm môi trường không khí.
Với nhiên liệu chủ yếu để vận hành động cơ xe máy, ô tô là các nhiên
liệu hóa thạch như xăng, dầu nên lượng phát thải các chất ô nhiễm không khí

5


TSP, NOx, CO, SO2,... tăng lên hàng năm cùng với sự phát triển về số lượng
của các phương tiện giao thông đường bộ. Với tốc độ tăng trưởng hàng năm
các loại xe ô tô đạt 12%, trong đó xe ô tô con có tốc độ tăng cao nhất là 17%
năm, xe tải khoảng 13%, xe máy tăng khoảng 15% kèm theo việc sử dụng
nhiên liệu (chủ yếu là xăng, dầu diezen), cùng với chất lượng phương tiện còn
hạn chế (xe cũ, không được bảo dưỡng thường xuyên) làm gia tăng đáng kể
nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí [3, tr.27]. Một số các quốc gia phát
triển như Đức, Nhật, Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu nghiên cứu việc thay thế xăng
bằng các nhiên liệu sạch nhưng giá thành cao và gần như mới chỉ dừng lại ở

mức độ thử nghiệm, chưa thực sự được áp dụng phổ biến trên thực tế.
1.2.2. Hoạt động sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp với nhiều loại hình khác nhau được
đánh gia là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường đánh kể. Các tác
nhân gây ô nhiễm chủ yếu phát sinh từ quá trình khai thác và cung ứng
nguyên vật liệu đầu vào, khí thải từ các công đoạn sản xuất như đốt nhiên liệu
hóa thạch, khí thải lò hơi, hóa chất bay hơi, ... Nguồn ô nhiễm không khí từ
hoạt động công nghiệp thường có nồng độ các chất độc hại cao, tập trung
trong một vùng. Tùy thuộc vào loại hình sản xuất, quy trình công nghệ, quy
mô sản xuất và nhiên liệu sử dụng mà các hoạt động công nghiệp khác nhau
sẽ phát sinh khí thải với thành phần và nồng độ khác nhau.
Các chất độc hại từ khí thải công nghiệp được phân loại thành các
nhóm bụi, nhóm chất vô cơ và nhóm các chất hữu cơ ô nhiễm phổ biến gồm
NO2, SO2, VOC, TSP các hóa chất và các kim loại. Trong đó lượng phát thải
SO2 là 655.899 tấn/năm tỷ lệ 18,52%, NO2 là 1.117.757 tấn/năm tỷ lệ 31,56%
và TSP là 673.842 tấn/năm tỷ lệ 19,02% chiếm phần lớn trong tải lượng các
chất ô nhiễm (nguồn: Ngân hàng Thế giới năm 2010) [3, tr. 28]. Trong các
nhóm ngành công nghiệp ở Việt Nam, các hoạt động: khai thác và chế biến

6


than, sản xuất thép, sản xuất vật liệu xây dựng và nhiệt điện đang được đánh
giá là những nguồn gây ô nhiễm môi trường đánh kể hiện nay.
1.2.3. Hoạt động xây dựng
Bên cạnh hoạt động giao thông, hoạt động xây dựng trong đô thị cũng
là nguồn gây ảnh hưởng đến môi trường không khí. Trong những năm gần
đây, hoạt động xây dựng các khu chung cư, khu đô thị mới, cầu đường, sửa
chữa nhà, vận chuyển vật liệu và phế thải xây dựng,... diễn ra ở khắp nơi, đặc
biệt là các đô thị lớn. Các hoạt động như đào lấp đất, đập phá công trình cũ,

vật liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển thường gây ô nhiễm
bụi đối với môi trường xung quanh. Mặc dù có quy định về che chắn bụi tại
các công trường xây dựng và phương tiện chuyên chở nguyên vật liệu và phế
thải xây dựng phải rửa trước khi ra khỏi công trường nhưng việc thực hiện
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, đây là nguồn phát tán lượng bụi lớn vào môi
trường không khí. Bên cạnh bụi, các thiết bị xây dựng (máy xúc, máy ủi...)
các phương tiện vận chuyển vật liệu xây dựng còn thải ra môi trường không
khí các khí thải khác như: SO2, CO, VOC, ...
1.2.4. Hoạt động nông nghiệp và làng nghề
Hiện nay, tại các vùng nông thôn rơm rạ không còn là chất đốt chủ yếu
do có các nhiên liệu khác thay thế như: điện, khí gas... Thêm vào đó, việc gia
tăng số mùa vụ canh tác hàng năm cũng làm gia tăng lượng rơm rạ thải ra môi
trường. Biện pháp chính được người dân sử dụng đối với lượng rơm rạ thải nói
trên là đốt ngay trên đồng ruộng. Chính vì vậy, sau mỗi vụ thu hoạch, hoạt
động đốt rơm rạ đã gây hiện tượng khói mù cho các vùng lân cận. Việc đốt rơm
rạ ngoài trời là quá trình đốt không kiểm soát, trong đó sản phẩm chủ yếu là
các chất khí: bụi, CO2, CO, NOx. Khi rơm rạ cháy không hết có thể tạo ra hợp
chất Andehit và bụi mịn là những chất gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con
người. Tại Châu Á, dựa trên các công trình nghiên cứu cho thấy, hàng năm

7


nguồn phát xạ do đốt sinh khối ngoài trời ước tính đạt 0,37 triệu tấn SO2, 2,8
triệu tấn NOx, 1100 triệu tấn CO2, 67 triệu tấn CO và 3,1 triệu tấn CH4. Riêng
lượng phát thải do đốt cây trồng theo ước tính đạt: 0,1 triệu tấn SO2, 0,96 triệu
tấn NOx, 379 triệu tấn CO2, 23 triệu tấn CO và 0,68 triệu tấn CH4 [3, tr. 34].
Ô nhiễm môi trường không khí tại các làng nghề có nguồn gốc chủ yếu
từ việc sử dụng than làm nhiên liệu (phổ biến là than chất lượng thấp), sử
dụng nguyên vật liệu và hóa chất trong dây chuyển công nghệ sản xuất, khí

thải chứa các thành phần đặc trưng là bụi, CO2, CO, SO2, NOx và chất hữu cơ
bay hơi, trong khi đó lại không có các hệ thống xử lý chất thải, khí thải hiệu
quả. Tùy theo tính chất của từng loại làng nghề mà loại ô nhiễm môi trường
cũng khác nhau. Trong đó, ngành sản xuất có thải lượng ô nhiễm lớn nhất là
tái chế kim loại, quá trình tái chế và gia công cũng gây phát sinh các khí độc
như hơi axit, kiềm, oxit kim loại (PbO, ZnO, Al2O3) [7].
1.2.5. Chôn lấp và xử lý chất thải
Tại nhiều khu chôn lấp, đặc biệt các bãi rác lộ thiên, đã và đang diễn ra
hoạt động đốt rác thải tùy tiện, gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường
không khí tại những thời điểm nhất định. Rác thải tại các bãi rác (giấy, gỗ, cao
su, ni lông, nhựa, vải, các chất khác...) khi bị đốt đã thải ra môi trường các chất
khí chủ yếu như: NOx, CO, CO2, SOx, HCl, HF, Dioxin, Furan và tro [3, tr. 37].
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu cũng như các số liệu cụ thể về
tải lượng phát thải các chất khí từ hoạt động đốt bãi rác.
Hiện nay biện pháp xử lý chất thải nguy hiểm (CTNH) đang được áp
dụng phổ biến ở nước ta là sử dụng công nghệ lò đốt. Tính đến năm 2006,
hơn 500 lò đốt đã được lắp đặt tại các cơ sở y tế, các lò đốt chất thải công
nghiệp, sinh hoạt... cũng được đầu tư lắp đặt ở nhiều địa phương. Quá trình
vận hành và sử dụng các lò đốt chất thải bộc lộ nhiều hạn chế do liên quan
công nghệ chưa hiện đại, sử dụng công nghệ đa dụng cho nhiều loại CTNH và

8


thường ở quy mô nhỏ. Do đó, xét về khía cạnh môi trường, công nghệ xử lý
CTNH vẫn gây ra những tác động nhất định đến môi trường không khí. Các
chất tạo khí tạo ra sau quá trình đốt: SO2, HCl, Dioxin và Furan bám trên bề
mặt hạt bụi phát tán vào không khí [3, tr. 37].
1.3. Những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí
1.3.1. Tác hại của ô nhiễm không khí đến sức khỏe con người

Ô nhiễm không khí có những ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người,
đặc biệt là đối với đường hô hấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi môi trường
không khí bị ô nhiễm, sức khỏe con người bị suy giảm, quá trình lão hóa trong
cơ thể bị thúc đẩy, chức năng của phổi bị suy giảm; gây bệnh hen suyễn, ho,
viêm mũi, viêm họng, viêm phế quản; suy nhược thần kinh, tim mạch và làm
giảm tuổi thọ con người. Nguy hiểm nhất là có thể gây ra bệnh ung thư phổi.
Các nhóm cộng động nhạy cảm nhất với ô nhiễm không khí là những người
cao tuổi, phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 15 tuổi người đang mang bệnh, phổi và
tim mạch, người thường xuyên phải làm việc ngoài trời... [8]. Mức độ ảnh
hưởng đối với từng người tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe, nồng độ, loại chất
ô nhiễm và thời gian tiếp xúc với môi trường ô nhiễm.
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, trong những năm gần đây, các bệnh
về đường hô hấp có tỷ lệ mắc cao nhất trên toàn quốc và một trong các
nguyên nhân là ô nhiễm không khí.
Theo cơ quan quốc tế chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư thuộc WHO,
đã xếp ô nhiễm không khí là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây các
căn bệnh ung thư ở người. Cơ quan này phân tích hơn 1000 nghiên cứu trên
toàn thế giới và đưa ra đủ bằng chứng cho thấy ô nhiễm không khí là nguyên
nhân chính dẫn đến ung thư phổi. Năm 2010, có hơn 220.000 trường hợp tử
vong do ung thư phổi trên toàn thế giới có liên quan đến ô nhiễm không khí.
Trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí là vấn đề nghiêm trọng

9


mà Bắc Kinh phải đương đầu. Trong một năm có đến 190 ngày thủ đô này
vượt ngưỡng cho phép về không khí. Báo cáo do hai cơ quan là Báo chí Hàn
Lâm Khoa học Xã Hội và Viện Khoa học Xã hội Thương Hại thực hiện đưa
ra hồi đầu tháng hai năm 2014 nêu rõ Bắc Kinh là thành phố xếp thứ hai trong
số 40 thành phố có điều kiện môi trường tồi tệ nhất thế giới. Từ tháng 2/2014,

ô nhiễm không khí ở đây đã thường xuyên duy trì ở mức báo động ―cảnh báo
cam‖ – mức nghiêm trọng sau mức màu đỏ trong hệ thống cảnh báo 4 bậc ô
nhiễm của nước này. Vào đầu tháng 12 năm 2015, ô nhiễm không khí ở Bắc
Kinh đã ở mức báo động đỏ mức báo động cao nhất.Ô nhiễm không khí ảnh
hưởng đến trực tiếp sức khỏe con người tại Bắc Kinh. Theo WHO, ung thư
phổi vẫn là căn bệnh gây phổ biến và gây tử vong nhiều trên thế giới, trong đó
1/3 số trường hợp này xảy ra ở Trung Quốc [3, tr. 79].
1.3.2. Ảnh hưởng đến chất lượng công trình xây dựng và vật liệu
Ô nhiễm các chất SO2, NOx trong môi trường không khí gây ra hiện
tượng lắng đọng và mưa axit. Chính các hiện tượng này là nguyên nhân chính
làm giảm tính bền vững của các công trình xây dựng và các dạng vật liệu [5].
Kết cấu của các công trình xây dựng có thể bị suy yếu do không khí bị
ô nhiễm. Khí SO2, NO2 và O3 cũng là nguyên nhân gây hao mòn công trình,
nhiều loại nguyên vật liệu quan trọng có thể bị ảnh hưởng, ví dụ: kim loại
(sắt, đồng, thiếc), hợp chất hữu cơ (sơn,...), các loại đá,... Ô nhiễm không khí
còn làm giảm sức bền cơ khí, gây han rỉ, hỏng lớp sơn bảo vệ, mất các chi tiết
trang trí, ăn mòn đường ống, rỉ sét,...Hao mòn công trình dẫn tới giảm tuổi
thọ, làm tăng chi phí bảo dưỡng và thay thế.
Mưa axit cũng làm hư vải sợi, sách và các đồ quý giá. Hệ thống thông
khí của các thư viện, viện bảo tàng đã đưa các hạt axit vào trong nhà và chúng
tiếp xúc và phá hủy các vật liệu nói trên.
Ví dụ về sự phá hoại các kết cấu công trình do lắng đọng axit. Tại

10


Virginia Mỹ, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận, ở những khu vực có lượng tích
tụ axit trong không khí cao, người dân phải sơn lại nhà hai năm một lần hoặc
thậm chí hàng năm, trong khí ở những nơi có lượng axit thấp, khoảng thời
gian phải sơn lại nhà là bốn năm.

1.3.3. Ảnh hưởng tới hệ sinh thái và biến đổi khí hậu
Ô nhiễm không khí là mối đe dọa nghiêm trọng tới đa dạng sinh học và
các hệ sinh thái. Tác động của ô nhiễm không khí đến các quần xã rừng rõ rệt
nhất. Khi rừng bị suy giảm, cây cối bị chết, các loài sinh vật khác trong rừng
cũng sẽ bị tuyệt chủng cục bộ. Mặc dù quần xã có thể không bị tiêu diệt do ô
nhiễm không khí nhưng cấu trúc quần thể các loài cũng sẽ bị thay đổi và các
loài mẫn cảm thường bị tổn thương và sẽ bị tiêu diệt.
Bụi trong không khí hấp thụ những tia cực ngắn của mặt trời làm cho
cây không lớn và khó nảy mầm. Những nơi ô nhiễm không khí nặng, cây cối
ở đó còi cọc không phát triển được, lá cây hai bên đường quốc lộ bị phủ một
lớp đất bụi dày đặc làm cản quá trình quang hợp nên rất cằn cỗi.
Các loại thực vật bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm không khí nhiều hơn so với
động vật: Về bản chất, khả năng thích nghi trong môi trường bị ô nhiễm hoặc
biến đổi khí hậu của thực vật kém hơn so với các loài động vật. Một điều tra
cho thấy các loài thực vật trên cạn bị ảnh hưởng gấp 3 lần do ô nhiễm không
khí so với động vật.
Khói quang hóa trong khí quyển được hình thành do sự tương tác giữa
ánh sáng mặt trời và các chất gây ô nhiễm như cacbua hydro và Oxit nitơ. Kết
quả là ozon tích tụ lại và sinh ra một số chất gây ô nhiễm như Formaldehyt,
Aldehyt, PAN. Các chất này thường là chất kích thích, làm giảm quá trình
sinh trưởng của cây, phá hoại tế bào lá và gây tổn thương nhiều loại cây. Lá
cây trong khu vực có sương mù quang hóa xuất hiện những đốm nâu trên bề
mặt lá, sau đó chuyển sang màu vàng [3, tr. 86].

11


1.4. Các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề ô nhiễm không
khí xuyên biên giới
Pháp luật quốc tế về ô nhiễm không khí xuyên biên giới được quy định

trong các điều ước quốc tế khu vực và điều ước quốc tế song phương giữa các
quốc gia. Hiện nay, vẫn chưa có điều ước quốc tế toàn cầu về vấn đề ô nhiễm
không khí xuyên biên giới. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù và tác động ảnh
hưởng của ô nhiễm không khí đã có nhiều điều ước quốc tế khu vực về ô
nhiễm không khí xuyên biên giới tiêu biểu như Công ước CLTAP năm 1979,
Hiệp định AATHP năm 2002 và một hiệp định mang tính song phương giữa
Canada và Hoa Kỳ về chất lượng không khí được Canada và Hoa Kỳ năm
1991. Để nhận diện được ô nhiễm không khí xuyên biên giới thì các quốc gia
nhận phải nhận diện được các tác động của môi trường xuyên biên giới, và
hiện nay đã có Công ước EIA năm 1991 ngăn ngừa, giải quyết những vấn đề
liên quan đến tác động môi trường xuyên biên giới. Trước đây, vấn đề đề ô
nhiễm không khí xuyên biên giới được đề cập rải rác trong các văn kiện như:
Tuyên bố Stockhom năm 1971, Tuyên bố của Liên hợp quốc về môi trường
và phát triển tại Rio năm 1992. Trong khuôn khổ của Luận văn, tác giả đề cập
đến các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề ô nhiễm không khí xuyên
biên giới thông qua hai phần: các quy định về đánh giá các tác động xuyên
biên giới và các quy định về kiểm soát ô nhiễm không khí.
1.4.1. Các quy định về đánh giá các tác động xuyên biên giới
Đầu tư các dự án mới là một xu hướng, một nhu cầu tất yếu của quá
trình phát triển góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc
gia. Tuy nhiên, ngay từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, ngoài
những lợi ích kinh tế - xã hội to lớn đem lại, người ta đã nhận thấy, việc đầu
tư các dự án mới này cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên cho khu vực dự án và lân cận.

12


Các tác động này có ảnh hưởng lên một phạm vi không gian nhất định và
nhiều khi vượt ra khỏi ranh giới của một quốc gia. Điều này có nghĩa, các hoạt

động phát triển trên lãnh thổ của một quốc gia này có thể gây ra tác động tiêu
cực lên môi trường của một hay nhiều quốc gia liền kề khác. Tác động môi
trường có tính chất như vậy được gọi là ―Tác động môi trường xuyên biên giới‖.
Khái niệm này lần đầu tiên được đưa ra tại Tuyên bố Stockhom năm 1972.
Để ngăn ngừa, giải quyết những vấn đề phức tạp và hậu quả nghiêm
trọng của TĐMTXBG đến sự phát triển bền vững ở quy mô quốc gia và khu
vực, ngay từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, đã có
nhiều Công ước, Hiệp định mang tính khu vực, song phương, đa phương được
thiết lập và được sử dụng như một khung pháp lý để giải quyết vấn đề
ĐTMXBG. Tiêu biểu là Công ước EIA, Hiệp định Bắc Mỹ về đánh giá tác
động môi trường trong bối cảnh xuyên biên giới, Công ước CLTAP.
Công ước EIA được 39 nước gồm các nước Tây Âu, Đông Âu, Nga,
Canada và Mỹ phê chuẩn tại Espoo (Phần Lan) vào năm 1991 và có hiệu lực
từ năm 1997. Mục tiêu của Công ước nhằm đảm bảo phát triển bền vững đi
đôi với BVMT trong lành thông qua áp dụng công cụ đánh giá tác động môi
trường để ngăn ngừa suy thoái môi trường xuyên biên giới. Công ước có 20
điều với 7 hướng dẫn kỹ thuật kèm theo. Nội dung của Công ước là đưa ra
một khung pháp lý về thực hiện ĐTMXBG, trong đó quy định đánh giá tác
động môi trường xuyên biên giới đối với các dự án nằm trong danh sách các
dự án hoạt động thuộc phụ lục I của công ước (trong danh sách này có các dự
án có thể gây ảnh hưởng ô nhiễm không khí xuyên biên giới), có khả năng
ảnh hưởng xuyên biên giới một cách bất lợi đến các nước bị tác động về nhiều
mặt, làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên tham gia gồm nước gây tác
động (nước có dự án) và nước bị tác động để đánh giá tác động môi trường
trong giai đoạn đầu của dự án. Ngoài ra, Công ước cũng quy định rõ các nghĩa

13


vụ chung của các quốc gia thông báo và tham vẫn lẫn nhau về các dự án được

xem xét, đánh giá có khả năng gây tác động môi trường xuyên biên giới, các
thủ tục từ việc chuẩn bị hồ sơ về ĐTMXBG, thủ tục giải quyết bất đồng, phân
tích đánh giá sau dự án và hợp tác song phương và đa phương [42].
Trên cơ sở Công ước EIA đã có hàng loạt các hoạt động và thỏa thuận
song phương, đa phương giữa các nước thành viên đã được thực hiện ở mức
độ là các hiệp định song phương, đa phương hoặc đối với dự án cụ thể.
Các Hiệp định song phương và đa phương: Hiệp định về ĐTMXBG
giữa Bỉ và Hà Lan năm 1994; Hiệp định song phương giữa Anbani và
Macedonia năm 1993 về mức độ ô nhiễm và chất lượng nước hồ Ohrid; Hiệp
định giữa Pháp - Đức - Thụy Sỹ về trách nhiệm thông báo và trao đổi thông
tin về những tác động có tiềm năng gây tác động xấu lên môi trường ra ngoài
phạm vi nước mình.
Sau một thời gian thực hiện công ước, Nghị định thư về đánh giá tác
động môi trường chiến lược ra đời, Nghị định thư được thông qua trong một
cuộc họp bất thường của các bên tham gia Công ước EIA tại hội nghị cấp bộ
trưởng môi trường châu âu, tổ chức vào ngày 21 tháng 5 năm 2003 và đến ngày
11 tháng 7 năm 2010 thì Nghị định thư này mới có hiệu lực. Nghị định thư này
tăng cường cho công ước EIA bằng cách bảo đảm các bên tích hợp các đánh
giá môi trường vào các kế hoạch và chương trình của họ ở giai đoạn đầu, vì vậy
giúp đặt nền móng cho sự phát triển bền vững. Nghị định thư cũng cung cấp về
sự tham gia sâu rộng một cách công khai vào quá trình ra quyết định của chính
phủ. Đánh giá môi trường chiến lược được thực hiện sớm hơn nhiều trong quá
trình ra quyết định so với đánh giá tác động môi trường dự án. Và do đó nó
được xem như công cụ quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Công ước CLTAP được 31 nước thuộc châu Âu, Mỹ và Canada ký vào
ngày 13/9/1979 và có hiệu lực từ ngày 16/3/1983 [36]. Công ước đưa ra các

14



nguyên tắc cơ bản với sự cam kết của các quốc gia về việc bảo vệ môi trường
khỏi tác động ô nhiễm của không khí, trao đổi thông tin giữa các bên. Nội dung
của Công ước quy định rõ về việc thực hiện và phát triển hơn nữa chương trình
hợp tác giám sát và đánh giá sự lan truyền ô nhiễm không khí tầm xa tại châu
Âu theo Điều 9 [32] của công ước. Tại điểm c, Điều này nhấn mạnh việc mong
muốn tiến hành thành lập các trạm quan trắc về ô nhiễm không khí và thu thập
dữ liệu các bên dưới sự cho phép của các quốc gia nơi các trạm giám sát được
đặt để đánh giá mức độ ô nhiễm không khí mà các quốc gia bị ảnh hưởng.
Thêm vào đó, quy định tại điểm d Điều 9 của Công ước thể hiện nhu cầu cần
thiết đối với việc thiết lập một khuôn khổ chương trình hợp tác giám sát môi
trường, được dựa trên và tính đến thời điểm hiện tại và tương lai của các quốc
gia, tiểu khu vực, khu vực và các chương trình quốc tế khác.
Ngoài ra, Điều 9 Công ước cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải trao đổi
dữ liệu về sự phát thải ở những khoảng thời gian được xác định, về các chất
phát thải ô nhiễm không khí được xác định, bắt đầu với sulphur dioxide đến
từ mạng lưới đơn vị của kích thước định sẵn, hay về dòng chảy các chất phát
thải gây ô nhiễm không khí, bắt đầu với sulphua dioxide, vượt qua biên giới
quốc gia, ở những khoảng cách và những khoảng thời gian đã xác định tại
điểm e. Trong khuôn khổ thực hiện Công ước, nhiều Nghị định thư quan
trọng đã được thiết lập gồm: Nghị định thư năm 1984 về tài trợ dài hạn của
Chương trình hợp tác giám sát và đánh giá ô nhiễm không khí xuyên biên giới
tầm xa được 41 nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 28/1/1988; được sửa
đổi, bổ sung năm 2014 [41].
1.4.2. Các quy định về kiểm soát ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí thường rất khó kiểm soát, một phần do phạm vi ảnh
hưởng của loại ô nhiễm này, có nghĩa là trong hầu hết các trường hợp, tổn hại
gây ra không chỉ cho bầu khí quyển nơi có nguồn phát thải mà còn xa hơn rất

15



nhiều. Ô nhiễm từ một vùng thuộc chủ quyền của một quốc gia có thể gây hậu
quả nghiêm trọng cho những quốc gia láng giềng, thậm chí cho cả thế giới, do
tính thống nhất của môi trường. Vì vậy, các quốc gia có nghĩa vụ kiểm soát và
quản lý các nguồn thải, trong phạm vi quốc gia hoặc những khu vực thuộc
chủ quyền quốc gia, có khả năng gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường
toàn cầu hoặc tác hại xuyên biên giới.
Nghĩa vụ này lần đầu tiên được hình thành từ vụ tranh chấp Trail
Smelter giữa Canada và Mỹ (1939-1941) [24]. Phiên xử trọng tài được thành
lập nhằm xác định liệu khói thải từ lò luyện kim Trail ở Canada, nằm cách
biên giới với Mỹ bảy dặm, có gây thiệt hại cho tiểu bang Washington hay
không, và nếu có, lò luyện kim phải bồi thường bằng hình thức nào cũng như
phải có những biện pháp nào nhằm ngăn ngừa những tác hại trong tương lai.
Trọng tài vụ Trail Smelter phán quyết “không quốc gia nào có quyền sử dụng
hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình để phát tán khói gây thiệt hại
nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người dân của quốc gia khác; những
thiệt hại phải thể hiện ở những chứng cứ xác thực và thuyết phục” [28].
Trong phán quyết cuối cùng, hoạt động của lò luyện kim phải hạn chế. Sau
này, nghĩa vụ này được đề cập trong Nguyên tắc 21, Tuyên bố Stockholm
1972, “các quốc gia... có trách nhiệm bảo đảm những hoạt động thuộc chủ
quyền quốc gia không gây thiệt hại đến môi trường của các quốc gia khác
hoặc các khu vực vượt quá giới hạn chủ quyền quốc gia” [14]. Nguyên tắc
không quy định rõ ràng về mức độ cũng như đối tượng chịu thiệt hại như
trong phán quyết vụ Trail Smelter, do sự khác nhau về đối tượng bảo vệ.
Trọng tài vụ Trail Smelter tập trung vào những tài sản bị thiệt hại ở Mỹ, trong
khi Nguyên tắc 21 đề cập đến thiệt hại về môi trường nói chung, tức là có khả
năng gây tổn hại sức khỏe con người.
Theo Nghị quyết của Viện Pháp luật quốc tế, phiên họp Cairo năm

16



1987, Điều 2 quy định nghĩa vụ trong việc thực hiện quyền chủ quyền để khai
thác tài nguyên theo quy định về chính sách môi trường của riêng quốc gia
đó, các quốc gia sẽ có nhiệm vụ thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp và
hiệu quả để đảm bảo các hoạt động khai thác tài nguyên trong phạm vi thẩm
quyền của mình không gây ra ô nhiễm không khí xuyên biên giới. Mục đích
thực hiện các nghĩa vụ này nhằm để ngăn chặn bắt kì hình thức mới hay sự
gia tăng của ô nhiễm không khí xuyên biên giới và để dần dần loại bỏ ô nhiễm
không khí xuyên biên giới trong thời gian ngắn nhất có thể. Để tuân thủ các
nghĩa vụ, các nước có trách nhiệm sử dụng các biện pháp như sau theo Điều 4
của Nghị quyết: Ở cấp quốc gia, ban hành các luật và quy định cần thiết, áp
dụng các biện pháp hành chính và kỹ thuật, thủ tục pháp lý hiệu quả, đầy đủ
cho việc thi hành các luật và quy định trên. Ở cấp độ quốc tế, khu vực hoặc
phổ cập phối hợp thiện chí với các quốc gia khác liên quan.
Khi thực hiện hợp tác, các nước có trách nhiệm thực hiện theo khoản 1
Điều 8 của Nghị quyết:
a) Thường xuyên thông báo cho các quốc gia khác có liên
quan tất cả các dữ liệu thích hợp về ô nhiễm không khí trong vùng
lãnh thổ của quốc gia đó, trong đó có nguyên nhân, bản chất của ô
nhiễm do nhân tạo hoặc tự nhiên và các biện pháp phòng ngừa được
thực hiện hoặc đề xuất; b) Thông báo cho các quốc gia khác có liên
quan trong thời gian thích hợp bất kỳ hoạt động nào trên vùng lãnh
thổ của mình có thể gây ra mối đe dọa lớn ô nhiễm không khí xuyên
biên giới; c) Tham khảo ý kiến với các quốc gia khác có liên quan
về các vấn đề thực tế và tiềm năng gây ô nhiễm của không khí
xuyên biên giới để có các giải pháp phù hợp với lợi ích các quốc gia
và việc bảo vệ môi trường;
Quy định tại Điều 8 của Nghị quyết còn khuyến khích các quốc gia ký kết


17


các điều ước quốc tế với mục đích phối hợp và cùng hợp tác nghiên cứu khoa
học, kỹ thuật để chống lại ô nhiễm không khí xuyên biên giới; thiết lập các ủy
ban quốc tế hoặc khu vực với phạm vi thẩm quyền rộng nhất; cố gắng hài hòa
các tiêu chuẩn môi trường cũng như các chỉ tiêu liên quan đến mức độ ô nhiễm.
Đồng thời, theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Nghị quyết, các quốc
gia sẽ phải có các biện pháp để bảo vệ những người có thể bị ảnh hưởng bởi ô
nhiễm không khí xuyên biên giới, để phòng chống và bồi thường các thiệt hại
xảy ra, bằng cách cho phép sự không phân biệt đối xử cơ sở tiếp cận rộng
nhất đến các thử tục tư pháp và hành chính trong các quốc gia nơi khởi nguồn
của sự ô nhiễm. Bên cạnh đó, trách nhiệm pháp lý của quốc gia còn được quy
định cụ thể tại Điều 9 của Nghị quyết, như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp tai nạn hay các hoạt động gây ra một sự gia
tăng đột ngột về mức độ ô nhiễm không khí, thậm chí nếu xuất phát từ nguyên
nhân tự nhiên, có khả năng gây nguy hại đáng kể khác, các nước khởi nguồn
của ô nhiễm có nhiệm vụ:
- Kịp thời để cảnh báo tất cả các ảnh hưởng hoặc có khả năng bị ảnh
hưởng tới các quốc gia xung quanh;
- Thực hiện mọi biện pháp thích hợp để giảm thiểu những tác động của
sự gia tăng đó.
Thứ hai, trong trường hợp có thảm họa liên quan đến ô nhiễm không
khí tại lãnh thổ của một quốc gia, các nước khác và
Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền sau, như là một vấn đề cấp bách và
với sự đồng ý của Nhà nước có liên quan, thực hiện hành động nhân đạo để
giúp đỡ các nạn nhân. Tại Điều 10 của Nghị quyết có quy định không làm
phương hại đến các nghĩa vụ khác của các quốc gia liên quan đến các vụ nổ
hạt nhân, các quốc gia có trách nhiệm cấm, ngăn chặn và kiềm chế không tiến
hành bất cứ vụ nổ hạt nhân có khả năng gây ra ô nhiễm không khí xuyên biên


18


giới của một chất phóng xạ.
Công ước CLTAP có quy định về việc các quốc gia tiến hành (hoặc dự
định tiến hành) hoạt động bất kỳ trên lãnh thổ của mình hoặc thuộc quyền tài
phán quốc gia, mà các hoạt động bất kỳ trên lãnh thổ của mình hoặc thuộc
quyền tài phán quốc gia, mà các hoạt động này có thể gây ra mức độ ô nhiễm
lớn trong khí quyển ở các nước khác, thì phải có nghĩa vụ thi hành các hoạt
động tư vấn với các quốc gia bị ô nhiễm khí quyển theo yêu cầu của họ [19].
Công ước này được coi như là thỏa thuận khu vực duy nhất quy định
việc kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa, trong đó bầu khí quyển châu Âu
được coi như là một nguồn tài nguyên dùng chung và do đó bắt buộc các quốc
gia phải có sự hợp tác xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm
cũng như những tiêu chuẩn phát thải chung. Vì vậy, mục tiêu của Công ước là
ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa, từ bất kể
nguồn gây ô nhiễm nào, nhưng không quy định trách nhiệm đối với tổn hại do
ô nhiễm không khí. Các quốc gia chịu thiệt hại từ ô nhiễm không khí không
thỏa mãn với những quy định của Công ước, tuy nhiên sự thống nhất chỉ có
thể đạt được trên cơ sở những cam kết về lợi ích thiết thực của các bên.
Ô nhiễm không khí tầm xa là loại ô nhiễm ảnh hưởng đến một khoảng
cách mà khó có thể phân biệt được những nguồn phát thải riêng biệt hay
những nhóm nguồn gây ô nhiễm (Điều 1, b). Do đó, vụ Trail Smelter sẽ
không thuộc phạm vi của định nghĩa này, mà chỉ những vấn đề khu vực như
mưa acid hay những chất thải có khả năng phát tán xa. Công ước cũng không
chỉ giới hạn ở những ảnh hưởng có hại đến sức khỏe hoặc tài sản mà được
quy định rộng hơn, thậm chí hơn cả những quy định trong các thỏa ước về ô
nhiễm môi trường biển, bao gồm tổn hại đến nguồn sinh vật, hệ sinh thái, cơ
sở hạ tầng và việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên môi trường (Điều 1,

a). Tóm lại, mục đích của Công ước là giảm đến mức thấp nhất các tổn hại

19


×