Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CANDIDE của VOLTAIRE 333333333333333333

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.33 KB, 22 trang )

TÁC PHẨM “CANDIDE” CỦA VOLTAIRE
I.

TÁC GIẢ VOLTAIRE
1. TIỂU SỬ

François Marie Arouet
( 1694 – 1778)
Voltaire là bút hiệu của François Marie Arouet, là một nhà văn người Pháp thuộc
thời đại Khai Sáng (Enlightenment), nhà triết học danh tiếng vì trí thông minh, nhà viết
luận văn thường đứng ra bảo vệ các quyền tự do dân sự, gồm cả sự tự do tôn giáo.
Voltaire cũng là nhà tranh luận châm biếm, một nhân vật nói thẳng để ủng hộ các
cải cách xã hội, ông thường dùng các sáng tác của mình để chỉ trích các giáo điều của
Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo và các định chế bất công, mặc dù các luật lệ kiểm duyệt khắc
nghiệt và các hình phạt nặng nề dành cho những người dám chống đối chế độ đương
quyền của nước Pháp.
Voltaire còn là một trong các nhà văn khai sáng, cùng với John Locke và Thomas
Hobbes, đã có các tư tưởng và tác phẩm ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhà chính trị hoạt
động trong hai cuộc Cách Mạng Pháp và Hoa Kỳ.
François Marie Arouet chào đời vào ngày 21/11/1694 tại thành phố Paris, là người
con thứ năm và con út của ông Francois Arouet, một chưởng khế (a notary) và cũng là
một nhân viên ngân hàng hạng trung, và bà mẹ tên là Marie Marguerite d’Aumart, thuộc
một gia đình quý tộc trong tỉnh Poitou.


Khi còn nhỏ, Voltaire là một đứa trẻ ốm yếu, nhiều bệnh tật khiến cho gia đình tin
tưởng rằng sẽ không sống được lâu, thế nhưng ông đã kéo dài cuộc đời một cách đầy
nghị lực tới năm 84 tuổi.
Voltaire có người cha đỡ đầu là giám mục của miền Chateauneuf, là một nhà
thông thái nhưng bi quan. Ông này ưa thích cậu bé Voltaire thông minh nên đã hướng
dẫn cậu về thần học và đã dạy cho cậu Voltaire đọc các câu thơ châm biếm trong quyển


thơ Moisade.
Vào năm 1704, Voltaire theo học trường trung học Louis-le-Grand giảng dạy do
các cha Dòng Tên (Jesuites), ngoài các môn học căn bản còn học thêm tiếng La Tinh và
tiếng Hy Lạp (Greek). Trong thời gian theo học tại trường này tới năm 17 tuổi, Voltaire
đã đoạt được nhiều phần thưởng và một người bạn của cha thấy Voltaire là một thiếu
niên sớm phát triển nên đã tặng cho cậu 2,000 quan tiền để mua sách.
Cũng tại trường do các cha Dòng Tên giảng dạy, Voltaire được theo học một nền
giáo dục khai phóng (liberal education) nên đã phát triển thành một nhà văn có các cảm
nhận sắc bén về tự do. Do nhà trường thường hay tổ chức các buổi diễn kịch theo truyền
thống phục hưng cổ điển, Voltaire đã học hỏi được các điều căn bản về kịch nghệ.
Từ thuở thiếu thời, Voltaire đã tỏ ra có năng khiếu về làm thơ nên dự tính sau này
sẽ trở thành một thi sĩ, nhưng người cha, ông Francois Arouet, đã không tin tưởng vào
văn chương, cho rằng nghề này không thể mang lại một đời sống đầy đủ, nên ông đã bắt
cậu con trai theo học ngành Luật từ năm 1711 tới năm 1713.
Nhờ người cha đỡ đầu là giám mục miền Chateauneuf, Voltaire được giới thiệu
với các văn nhân, với các nhà quý tộc như Công Tước de Sully, Công Tước de Vendome,
ông Hoàng de Carti… Vì mong muốn nổi tiếng trong giới văn học, Voltaire đã viết ra các
câu thơ châm biếm đồng thời cũng trở thành một con người hào hoa, được các bà mệnh
phụ chú ý và ưa thích.
Vì nhận thấy Voltaire là một chàng trai sinh sống phóng đãng, ông Francois
Arouet đã bắt con trai phải rời thành phố Paris, đi làm thư ký cho vị Đại Sứ Pháp tại Hòa
Lan, trong thời gian sinh sống tại nơi đây, Voltaire đã yêu thương một thiếu nữ tị nạn
người Pháp theo đạo Tin Lành, tên là Catherine Olympe Dunoyer. Sự bỏ nhà ra đi của
cặp tình nhân này đã bị người cha cản trở và Voltaire bị bắt buộc phải trở về Paris.
Khi trở lại Paris, Voltaire đã được nhiều người biết tới vì các lời văn, lời thơ chỉ
trích châm biếm. Khả năng đặc biệt này cũng khiến cho Voltaire gặp phải nhiều rắc rối
trong suốt cuộc đời. Voltaire bị tố cáo là đã viết ra các lời thơ phỉ báng một số nhân vật
trong xã hội, vì vậy lần này bị cha bắt phải đi xa, sinh sống trong gần một năm và là
người khách của Hầu Tước De Saint-Ange. Chính trong thời gian này, Voltaire bắt đầu
viết các bài luận văn (essays) và xây dựng vở bi kịch đầu tiên (tragedy).



Voltaire có tài làm quen với rất nhiều bạn mới, nhưng do khả năng nhạy cảm với
các điều sai trái của xã hội, ông lại ưa thích tấn công những người mà mình không đồng ý
về các quan điểm, bằng các lời thơ nhạo bán.
Vào lúc trở về Paris, Voltaire được giới thiệu với một câu lạc bộ chính trị và văn
học rất danh tiếng có tên là Cung Đình de Seaux (Court de Seaux) với nhân vật chủ
trương là bà Công Tước du Maine. Có lẽ do bà này gợi ý mà Voltaire đã viết ra các lời
thơ châm biếm, công kích kẻ thù của bà Công Tước là Quan Nhiếp Chính d’Orleans (the
Regent). Vì những rắc rối, vì các kẻ thù, Voltaire phải chạy khỏi thành phố Paris vào
tháng 5 năm 1716, đầu tiên tới miền Tulle rồi miền Sully.
Voltaire bị nghi ngờ đã sáng tác ra 2 tập thơ nhạo báng tên là “Puerto Regnanto”
và “Tôi đã nhìn thấy” (J’ai vu) nên bị bắt vào ngày 16/5/1717, bị nhốt trong ngục Bastille
trong 11 tháng. Khi được thả ra, ông phải đi sống lưu vong tại miền Chatenay và chính
vào thời gian này, Voltaire đã sửa chữa lại vở bi kịch đầu tiên, có tên là Oedipe, với chủ
đề là sự chuyên chế của giới tu sĩ và bắt đầu viết tập thơ anh hùng ca L’Henriade, qua đó
ông ca ngợi các hành động của Vua Henry IV của nước Pháp, để đề cao sự dung thứ
(tolerance). Qua hai tác phẩm ban đầu này, người ta đã thấy rõ ở Voltaire một con người
tận tụy với sự tự do và sự công bằng, chống đối mọi hình thức đạo đức giả, sự cuồng tín
và các tập tục xấu.
Sau khi được thả ra khỏi nhà ngục Bastille, ông bắt đầu dùng bút hiệu Auret de
Voltaire. Chữ “de” là do ông thuộc gia đình quý tộc của bà mẹ, còn có người cho rằng tên
“Voltaire” là do khi còn đi học, ông được các bạn bè cùng lớp gọi bằng tên riêng là “le
volontaire” (người tự nguyện làm việc).
Đầu tiên được trình diễn vào tháng 11 năm 1718, vở bị kịch Oedipe đã sớm thành
công và đã được diễn xuất liên tục trong 45 ngày, và khi Voltaire trở về Paris, ông được
mọi người ca ngợi là một nhà thơ thiên tài, chuyên về bi kịch (a gifted tragic poet). Cũng
do nổi tiếng vì viết ra các lời thơ châm biếm, công kích, Voltaire bị tố cáo là tác giả của
tập thơ Philippiques, chế nhạo Công Tước d’Orleans, nhưng vào thời gian này, Voltaire
là khách mời của Công Tước de Villars, một vị anh hùng trong chiến tranh và cũng là

thống chế của nước Pháp (maréchal de France). Đây là thời kỳ Voltaire thu thập các tài
liệu để viết ra các tác phẩm lịch sử.
Cho tới cuối năm 1725, Voltaire nhận được sự bảo trợ của Công Tước Richelieu
(the Duke of Richelieu) nên cuộc sống rất dễ chịu nhưng rồi gặp phải sự ganh ghét của
Hiệp Sĩ Rohan (Chevalier du Rohan), ông này đã chế nhạo biệt hiệu “Voltaire”. Kết quả
sau cuộc cãi cọ là Hiệp Sĩ Rohan đã cho các người hầu tấn công nhà thơ. Khi Voltaire
thách đố cuộc đấu gươm thì bị ông Rohan kể trên nhờ thế lực, nhốt Voltaire vào trong
Ngục Bastille trong 2 tuần lễ. Sau khi được trả tự do, Voltaire phải ra đi sống lưu vong,
qua nước Anh.


Trước kia vào đầu thập niên 1720, Voltaire đã gặp ông Henry St. John, Tử Tước
miền Bolingbroke (Viscount of Bolingbroke) khi chính ông này đang sống lưu vong tại
nước Pháp. Hai người trở nên đôi bạn thân và vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với nhau.
Có lẽ do tình bạn này mà Voltaire đã trải qua 3 năm sinh sống trên đất nước Anh và sự
việc này đã ảnh hưởng lớn lao tới cuộc đời của Voltaire.
Trong các năm từ 1726 tới 1729, hoàn cảnh trí thức và văn hóa tại nước Anh đã
làm cho Voltaire vui sướng. Ông được các nhân vật thuộc hai đảng Whig và Tory đón
tiếp nồng hậu. Trong số các người bạn cũ và mới, Voltaire đã gặp Alexander Pope,
Jonathan Swift, John Gay, Edward Young và James Thomson, và Voltaire đã ghi lại
trong nhật ký về sự kính trọng và thán phục của mình đối với tác giả Jonathan Swift của
cuốn truyện “Các cuộc Du Lịch của Julliver” (Gulliver’s Travels), và chắc chắn rằng tác
phẩm này đã ảnh hưởng rất nhiều tới cuốn truyện Candide. Voltaire cũng đặc biệt kính
trọng Alexander Pope, một nhân vật cùng có các đặc tính thông thái, châm biếm, làm thơ
dễ dàng và hay chỉ trích các điều sai trái của xã hội Anh.
Trong khi sinh sống tại nước Anh, Voltaire đã học cách đọc và viết tiếng Anh,
nghiền ngẫm các tác phẩm của Francis Bacon, William Shakespeare, John Milton, Isaac
Newton và John Locke. Do sự yêu thích Shakespeare mà Voltaire bắt đầu viết vở kịch
“Brutus”.
Voltaire cũng thu lượm các tài liệu để viết nên tác phẩm “Các Bức Thư Triết Học

về Người Anh” (Lettres philosophiques sur les Anglais). Voltaire đã nhận thấy sự tự do
và sự dung thứ (tolerance) trên quê hương này, ông đã ca ngợi nền văn hóa Anh và so
sánh nước Anh với nước Pháp. Đối với tự do ngôn luận, Voltaire đã từng nói rằng: “tôi
có thể không đồng ý với lời nói của một nhân vật nào đó nhưng tôi quyết bảo vệ cho tới
chết cái quyền mà một cá nhân được nói ra”. Nhà văn học sử danh tiếng người Pháp là
ông Gustave Lanson đã nói rằng tác phẩm “Các Bức Thư ” kể trên là một trái bom ném
vào “chế độ cũ” của nước Pháp.
Vào mùa xuân năm 1729, Voltaire tìm cách xin phép trở về nước Pháp rồi qua
năm 1733, ông cho xuất bản tác phẩm “Các Bức Thư” và tập thơ châm biếm “Temple du
Gout”. Tác phẩm thứ nhất trong khi ca ngợi người Anh về các tinh thần dân chủ, tự do,
dung thứ, thì lại công kích chính quyền và nhà thờ của nước Pháp. Tập thơ thứ hai nhạo
báng các nhà văn đương thời, đặc biệt là J. J. Rousseau, vì thế, chính quyền Pháp đã ban
ra một lệnh truy nã Voltaire, căn nhà của ông bị lục soát.
Vào lúc chính quyền Pháp ra lệnh lùng bắt Voltaire thì ông đang cư ngụ tại Cirey,
trong tỉnh Lorraine, đây là một vùng đất độc lập và ông là khách mời của bà Emilie de
Breteuil, nữ Hầu Tước của vùng Châtelet. Bà Hầu Tước này trẻ hơn Voltaire 12 tuổi, là
một phụ nữ đặc biệt. Bà ta thông minh, đã tìm hiểu các môn Toán Học, Khoa Học và
Triết Học, và rất hâm mộ nền triết học lạc quan của Leibnitz. Bà ta cũng giống như
Voltaire ở sự ưa thích Newton và để trình bày hệ thống vật lý Newton, bà Emilie đã dịch


tác phẩm “Nguyên Lý” (The Principia) sang tiếng Pháp, đồng thời cũng thêm vào đó các
lời bình luận.
Trong thời gian sinh sống tại Cirey, Voltaire đã thực hiện được khá nhiều công
việc. Ông đã soạn xong phần khảo sát về Siêu Hình (methphysics), viết xong 6 vở kịch,
hoàn thành hai tập thơ trong đó có tác phẩm Le Mondain (Trần Tục), đây là sáng tác
châm biếm các nhà tu Jansenits là những người theo giáo điều giống như các người theo
đạo Calvinism. Voltaire cũng viết xong tác phẩm “Luận Bàn về Con Người” (Discours
sur l’homme), bắt đầu viết tác phẩm “Thế Kỷ của Vua Louis XIV” (Siècle de Louis XIV)
và cuốn lịch sử thế giới “Khảo Luận về các Tập Quán” (Essai sur moeurs).

Sau khi quan Phụ Chính Orléans qua đời, giới quyền thế tại Paris đã đón chào
Voltaire trở lại.
Sau năm 1743, Voltaire được hưởng các ân sủng của Triều Đình Pháp, phần lớn
nhờ Hồng Y Richelieu và Bà Pompadour, đây là phụ nữ rất hâm mộ nhà soạn kịch
Voltaire. Tới khi tác phẩm mới “Tập Thơ Fontenay” (Poeme de Fontenay, 1745) của
Voltaire thành công và được nhiều người ca ngợi, Voltaire được lãnh một món tiền trợ
cấp khá lớn và được chọn làm nhà nghiên cứu lịch sử của hoàng gia (a royal
historiographer), chức vụ này trước kia đã do Racine và Corneille đảm nhiệm.
Cũng vào thời gian này, Voltaire quay sang viết loại truyện triết học
(philosophical tales) trong đó tác phẩm “Candide” được coi là danh tiếng nhất. Voltaire
cũng soạn các vở kịch mới, cạnh tranh với nhà soạn kịch Crébillon, sự việc này đã gây ra
mối bất hòa, rồi cuối cùng vào năm 1746, Voltaire được bầu vào Hàn Lâm Viện Pháp
Quốc (the French Academy).
Với ngòi bút táo bạo, Voltaire không ngừng chỉ trích, lần này trong tác phẩm châm
biếm “Trajan est-il content” (Trajan có bằng lòng không) với người bị ám chỉ chính là
Vua Louis XV.
Vào năm 1748, Voltaire lại phải đi tìm nơi ẩn náu, lần này tới vùng đất của Bà
Công Tước de Sceaux rồi sau đó, đi theo bà de Châtelet tại Luneville. Vào tháng 9 năm
1749, bà de Châtelet đã qua đời sau khi hạ sinh một đứa con, sự việc này khiến cho ông
phải tìm một nơi cư ngụ khác. Voltaire không thể trở về Paris vì sự thù nghịch với
Crébillon. Trong khi đó, Đại Đế Frederick (Frederick the Great) của nước Phổ là người
đã từng gặp Voltaire và đã trao đổi thư từ với ông trong thời gian qua, đã ngỏ lời mời nhà
triết học Voltaire tới Potsdam. Đây là nơi mà vị Vua của nước Phổ đã thiết lập nên một
Hàn Lâm Viện, và đang chờ đợi Voltaire để thêm tên ông vào danh sách các nhà thông
triết (philosophes), tức là các nhà trí thức của châu Âu.
Vì vậy, Voltaire đã tới Potsdam vào năm 1750, nhận được tiền trợ cấp rộng rãi,
nhờ vậy ông hoàn thành hai tác phẩm lịch sử, viết ra với tham vọng lớn lao, đó là cuốn


“Thế Kỷ của Vua Louis XIV” (Siècle de Louis XIV). Ông cũng viết ra một truyện triết

học mới, cuốn Micromégas, đây là tác phẩm chịu ảnh hưởng của cuốn “Các Cuộc Du
Lịch của Gulliver” (Gulliver’s Travels) của Jonathan Swift, và Voltaire tiếp tục soạn
cuốn lịch sử thế giới (universal history).
Nhưng, cuộc sống tại Potsdam của Voltaire đã không kéo dài được lâu bởi vì cá
tính của hai nhân vật. Voltaire cảm thấy nhà vua Phổ quá kiêu căng trong khi đó ông lại
chỉ trích Hàn Lâm Viện Khoa Học của Vua Frederick. Đã có một lần Voltaire bị bắt giữ
tại Frankfort với hành lý bị lục soát. Voltaire như vậy không thể sinh sống tại nước Phổ,
cũng như không thể trở về Paris vì đã có thời gian hợp tác với Vua Frederick, cuối cùng
ông đã chọn nơi cự ngụ là Geneva, một địa phương có nền tự do tương đối khá hơn.
Vào lúc này, Voltaire là một người giàu có, ông đã thừa hưởng các số tiền từ
người cha, người anh của mình, đã nhận lãnh các trợ cấp rộng rãi từ các Vua nước Pháp
và nước Phổ, đã kiếm được nhiều tiền nhờ các tác phẩm văn chương, đặc biệt là các vở
kịch. Hơn nữa, ngay từ lúc nhỏ, Voltaire đã tỏ ra là người có năng khiếu về đầu tư và tài
sản của ông có thể coi như ngang với tài sản của ông Rothschild.
Voltaire đã mua một lâu đài tại Geneva và đặt tên là “Les Délices” (Niềm Vui),
đây là “lâu đài mùa hè” của ông. Voltaire cũng mua một lâu đài khác tại Monrion, thuộc
xứ Lausanne và gọi nơi này là “lâu đài mùa đông”. Cũng tại xứ Thụy Sĩ, Voltaire đã viết
tác phẩm “Candide” và ông vẫn không ngừng tấn công các tôn giáo.
Voltaire còn mua một lâu đài tại Ferney trên đất Pháp nhưng rất gần biên giới
Thụy Sĩ và ông dọn về nơi này vào năm 1760 và sinh sống với một người cháu gái là bà
Denis. Tại Ferney, cảnh sống của Voltaire thực là sang trọng với 60 người phục vụ. Ông
rất hiếu khách, thường xuyên đón tiếp các nhân vật danh tiếng của khắp châu Âu.
Voltaire đã cư ngụ tại Ferney trong 20 năm trường.
Tại châu Âu, thế kỷ XVIII là thời kỳ của các nhà quân chủ tuyệt đối nhưng đây
cũng là thời đại của sự khai sáng (the age of the Enlightment). Đồng thời với Voltaire,
trên lục địa châu Âu đã xuất hiện các nhà văn và các nhà tư tưởng danh tiếng chẳng hạn
như Denis Diderot (1713 – 1784) và Jean La Rond d’Alembert (1717 – 1783) tại nước
Pháp, Cesare Baccaria (1735 – 1794) tại nước Ý và Gotthold Lessing (1729 – 1781) tại
nước Đức, tất cả các nhân vật này đều nói lên sự cần thiết phải giải quyết một cách hợp lý
các vấn đề xã hội, tôn giáo, chính trị… và họ cũng tranh đấu cho sự tự do tư tưởng và tự

do ngôn luận, và Voltairre vẫn được coi là “vị thống trị trí thức của châu Âu” (the
intellectual potentate of Europe).
Vào mùa xuân năm 1778, vở kịch cuối cùng của Voltaire, bi kịch Irène, được giới
chính quyền Pháp chấp nhận và cho trình diễn tại thành phố Paris và tác giả Voltaire đã
có mặt trong buổi trình diễn đầu tiên. Voltaire cũng được Hàn Lâm Viện Pháp ca ngợi là
nhân vật đặc biệt nhất.


Voltaire đã qua đời vào ngày 30/5/1778, ở tuổi 84. Để tưởng nhớ Voltaire, nay
Ferney – nơi ông đã sống 20 năm trước lúc qua đời ở Paris, được đặt theo tên ông là
Ferney – Voltaire. Lâu đài ông ở giờ là bảo tàng L'Auberge de l'Europe còn toàn bộ thư
viện của ông vẫn được giữ nguyên tại bảo tàng quốc gia Nga tại Sankt-Peterburg.
Sự nghiệp sáng tác của Voltaire rất phong phú. Ông là tác giả anh hùng ca La
Henriade (1728), trên 50 vở vừa bi kịch vừa hài kịch, trong đó đáng chú ý nhất là bi kịch
Zaia (Zaire, 1732); nhưng bộ phận quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông là truyện,
thường được gọi là truyện triết học: Ảo tưởng của Babuc (1746), Zadich hay Số mệnh
(1747), Micrômêga (1752), Căngđít hay Chủ nghĩa lạc quan (1759), Chất phát
(1767), Nàng công chúa ở Babylon (1768),…

2. PHONG CÁCH VOLTAIRE

Voltaire là một nhà văn, nhà triết học danh tiếng, nhà viết luận văn thường đứng ra
bảo vệ các quyền tự do dân sự, gồm cả sự tự do tôn giáo.
Voltaire về cơ bản là một người lí trí, ông ghét sự cuồng đạo, sùng bái thần tượng
và mê tín. Người ta có thế giết nhau để bảo vệ tín điều tôn giáo, mà họ chả hiểu gì là điều
ông thấy ghê tởm. Và ông ghét nhất là giới tăng lữ, những kẻ lợi dụng sự nhẹ dạ của tín
đồ để thâu tóm quyền lực về tay mình.
Ông luôn phấn đấu phát huy quyền làm người, bảo vệ quyền tự do cá nhân, tự do
tôn giáo và quyền được phán xử công minh. Ông thường công khai phát biểu đòi cải
cách những bất công trong xã hội mặc dầu lúc bấy giờ triều đình Pháp rất khe khắt với

những người chống đối.
Trong suốt cuộc đời mình, Voltaire đã tin tưởng rằng môn văn chương phải giảng
dạy “lẽ phải” cho quần chúng và ông đã dung các vở kịch và các tập truyện vào chính
mục đích này. Các tác phẩm của Voltaire đã đề cập tới các vấn đề tôn giáo, chính trị, xã
hội, triết học và ông luôn đấu tranh cho sự dung thứ và sự công bằng.
Quan điểm về tôn giáo
Qua các tác phẩm Voltaire thể hiện quan điểm rằng không cần đức tin để tin vào
Chúa. Ông tin vào Chúa nhưng là niềm tin lý tính. Ông cũng phản đối đạo Ki-tô quyết
liệt nhưng không nhất quán. Một mặt ông cho rằng Giê-su không tồn tại và các sách Phúc
âm là nguỵ tạo nên chứa đầy mâu thuẫn nhưng mặt khác ông lại cho rằng cũng chính
công đồng đó đã gìn giữ nguyên bản mà không thay đổi gì để giải thích cho những mâu
thuẫn trong các sách Phúc âm. Ông cũng gọi người da đen là động vật (trong Essai sur


les mœurs) và thấp kém so với con người cả về mặt thể chất và tinh thần. Ông cũng viét
nhiều về các chủng thổ dân khác nhau và có quan điểm bài Do thái.
Quan điểm về triết học:
Tác phẩm lớn nhất của ông để lại là “Dictionnaire philosophique” (“Từ điển
Triết học”) tập hợp nhiều bài viết riêng của ông và các bài ông viết trong “Encyclopédie”
(“Bách khoa thư”) của Diderot. Trong đó ông phản bác thể chế chính trị đương thời của
Pháp, nhà thờ Công giáo, Kinh Thánh và thể hiện văn phong, tính cách riêng của mình,
Voltaire. Qua đó ông nhấn mạnh vai trò của tôn giáo lý tưởng là giáo dục đạo đức chứ
không phải giáo điều.
Các việc làm chính thức của Voltaire không chỉ nhắm vào cách tiêu diệt sự bất
công và sự bất dung thứ, mà còn có mục đích khác là làm cải thiện xã hội, phổ biến kiến
thức như là một cách để để đánh đổ các thành kiến và bất dung thứ dù cho các sai lầm
này ở vào các phạm vi xã hội, tôn giáo hay chủng tộc.
Voltaire còn được nhớ đến như một người tranh đấu cho quyền tự do cá nhân, tự
do tôn giáo trong đó có quyền được xét xử công bằng và vạch rõ sự giả dối và không
công bằng của chế độ ba đẳng cấp.

Voltaire sinh sống trong thời đại của Vua Louis XV, vị vua này đã không thành
công trong công việc khiến cho nước Pháp thống trị được châu Âu. Trước vương quyền,
Voltaire không chống đối thể chế quân chủ, nhưng ông thường hay chỉ trích các tham
nhũng và lạm dụng của triều đình. Voltaire thường dùng kỹ thuật châm biếm để để tấn
công sự bất dung thứ (intolerance) và sự bất công (injustice), chống lại các thành kiến
trước các vấn đề xã hội, tôn giáo và chủng tộc.


II.

TÁC PHẨM “CANDIDE” – CHÀNG NGÂY THƠ

TÁC PHẨM CANDIDE
(Bản nước ngoài và Việt Nam)
1. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC

Vào năm 1755, thành phố Lisbon thuộc nước Bồ Đào Nha (Portugal) đã bị san
bằng do một trận động đất khủng khiếp. Hơn 30,000 người đã thiệt mạng. Biến cố này đã
làm chấn động châu Âu. Vào thời gian này, Voltaire đã là một nhà triết học hàng đầu của
nước Pháp và cũng là một trong các nhân vật có ảnh hưởng nhất của châu Âu.
Trước thảm họa này, Voltaire đã viết ra “Bài thơ về tai họa tại Lisbon” (Poem on
the Disaster of Lisbon) rồi 4 năm sau, 1759, ông đã viết ra tác phẩm châm biếm Candide
sau khi suy nghĩ về thảm họa kể trên.
Vào thời đại của Voltaire, rất nhiều người đã quá “lạc quan”, họ tin tưởng rằng
thời kỳ này là “lúc tốt đẹp nhất” và những gì đang xảy ra cũng là “tốt đẹp nhất”. Như vậy
sự thiệt mạng của hơn 30,000 nạn nhân có phải là “tốt đẹp nhất” không? Cuộc chiến


tranh 7 năm (the Seven Years War) kéo dài từ 1756 tới 1763, đã tàn phá châu Âu, có phải
là một sự “tốt đẹp nhất” không?

Năm 1759 Voltaire cho in “Candide” (các chuyên gia về Voltaire thống nhất cho
rằng tác phẩm được viết một năm trước đó). Tác phẩm này viết nhằm mục đích trả lời
cho triết thuyết của Rousseau về thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết gia
Leibniz, theo đó mọi sự trên đời sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người phải
lạc quan.
Tác phẩm viết ra đã xúc phạm đến nhiều nhà quyền quý, nên khi xuất bản tác giả
phải kí một biệt hiệu khác vì sợ bị trả thù. Vào ngày 2-3-1759, tác phẩm bị hội đồng
Geneve tố cáo và ra lệnh hỏa thiêu.
2. NHAN ĐỀ “CANDIDE”

Tên tác phẩm được lấy từ tên của nhân vật chính. Và cái tên đó đã gợi cho người
đọc phần nào tính cách của nhân vật bởi Candide trong tiếng Pháp là tính từ của
“candeur”, dùng để chỉ phẩm chất ngây thơ, trong trắng, thật thà của một tâm hồn. Và
đúng như cái tên của mình, chàng là một người “tính tình hiền hậu, hồn nhiên”, “xét đoán
việc đời thẳng thắn, với một tinh thần giản dị nhất”.
Liên hệ với hoàn cảnh sáng tác của bài thơ (Tác phẩm này viết nhằm mục đích trả
lời cho triết thuyết của Rousseau về thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết
gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người
phải lạc quan), phải chăng các tên Candide (trong trắng,ngây thơ), như một dụng ý của
tác giả rằng triết thuyết của Rousseau và chủ trương của triết gia Leibniz chỉ là thứ triết
thuyết, chủ trương ngây thơ, thơ ngộ mà thôi. Và tác giả đã làm rõ điều đó trong chính
tác phẩm qua nhân vật chính có cái tên Candide.
3. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM

a) Candide: là một thanh niên đơn giản, đã đi tới nhiều nơi trên thế giới và đã gặp
nhiều hoàn cảnh có khi vui tươi, có khi hãi hùng. Trong suốt cuốn tiểu thuyết, Candide đã
là một thử thách về quan niệm triết lý lạc quan (philosophical optimism) hay chủ trương
“tất cả đều tốt đẹp nhất”.
b) Nam Tước Thunder-ten-tronckh: là con người trống rỗng và tự cao, sinh sống
trong lâu đài Westphalia. Ông này cùng với con trai, được coi là hình ảnh của Đại Đế

Frederick của nước Phổ.
c) Cunegonde: là con gái rất đẹp của Nam Tước, là người mà Candide say mê.


d) Tiến Sĩ Pangloss: một nhà triết học uyên bác và là thầy dạy kèm của Nam Tước,
ông triết gia này chấp nhận nền triết học lạc quan.
e) Paquette: người hầu phòng trong tòa lâu đài của Nam Tước, cô này có liên hệ
với Tiến Sĩ Pangloss và truyền cho ông ta một thứ bệnh làm biến dạng con người.
f) Tín đồ của đạo Tái Rửa Tội (Anabaptist): là người tử tế, đã cứu sống Candide,
Pangloss và một thủy thủ trên tàu.
g) Bà già: người làm việc cho Cunegonde, đã giúp đỡ Candide thoát khỏi nơi giá
treo cổ tại địa điểm hỏa thiêu các người khác đạo (auto-da-fe), bà già này cũng đã nuôi
dưỡng Candide cho tới khi lành bệnh. Bà ta là con gái của Giáo Hoàng Urban X và công
chúa Palestrina, nhưng trong suốt cuộc đời, bà ta đã chịu nhiều khổ đau.

4. TÓM TẮT CỐT TRUYỆN

Candide là một thanh niên ra đời tại Westphalia, một thành phố Đức nhưng lại
sinh sống trong lâu đài của Nam Tước Thunder-ten-tronckh. Ông thầy dạy kèm cho Nam
Tước là Tiến Sĩ Pangloss đã giảng dạy cho Nam Tước học thuyết “lạc quan”
(philosophical optimism) theo đó “tất cả sẽ trở nên tốt đẹp nhất”.
Vì là một người đơn giản, Candide lúc đầu chấp nhận lý thuyết này nhưng anh ta
đã từng trải qua các kinh nghiệm và những nỗi khủng khiếp của chiến tranh, nhìn thấy rõ
các cảnh nghèo đói, các tính xấu của loài người, các đạo đức giả của nhà thờ…, vì thế
Candide bắt đầu nghi ngờ lý thuyết của Tiến Sĩ Pangloss.
Vào lúc này, Tiến Sĩ Pangloss có liên hệ tình ái mờ ám với Paquette, cô hầu
phòng. Người con gái đẹp của Nam Tước là cô Cunegonde đã chứng kiến cảnh dan díu
kể trên nên cũng muốn làm công việc tương tự với Candide. Khi cả hai người bị Nam
Tước bắt gặp đang tỏ vẻ yêu đương, Candide đã bị đuổi ra khỏi lâu đài.
Vì bị vừa đói, vừa rét, Candide bèn đi qua một thành phố bên cạnh, tại nơi này anh

ta được hai người lính giúp đỡ rồi bị bắt buộc đầu quân vào lính, vì vậy Candide bị các
cấp chỉ huy đánh đập. Anh ta liền bỏ trốn nên đã đi qua các làng mạc bị chiến tranh tàn
phá và đã chứng kiến các cảnh hoang phế khủng khiếp của chiến tranh. Candide tìm
đường tới xứ Hòa Lan theo Thiên Chúa Giáo với hy vọng có thể tìm được sự giúp đỡ
nhưng chỉ gặp những con người nhẫn tâm, trừ một anh chàng theo giáo phái rửa tội lại,
anh này đã đối xử tử tế và rộng lượng với Candide.
Sau đó Candide gặp một người ăn mày với hình dạng biến đổi rồi về sau mới
khám phá ra rằng người ăn mày này là Tiến Sĩ Pangloss. Pangloss đã kể lại các kinh


nghiệm cũ cùng với tin tức về cái chết do binh lính sát hại của Nam Tước và gia đình ông
ta. Vào lúc này, mặc dù tình cảnh tồi tệ và các nỗi khủng khiếp mà ông ta đã trải qua,
Tiến Sĩ Pangloss vẫn còn tin tưởng vào triết lý “lạc quan”. Anh chàng theo phái rửa tội
lại đã mang Tiến Sĩ Pangloss và Candide lên tàu biển, đi về Lisbon.
Khi một trận bão ập tới, anh chàng giáo phái kể trên đã bị chết sau khi tìm cách
cứu vớt một thủy thủ, tàu bị bể vỡ, chỉ còn ba người sống sót là Candide, Tiến Sĩ
Pangloss và người thủy thủ. Không lâu sau khi ba người này lên bờ tại Lisbon, một trận
động đất kinh khủng đã làm rung động thành phố này rồi các vị lãnh đạo của nhà thờ đã
tin rằng tai họa kể trên là do các người khác đạo mang lại, nên các lãnh đạo đã quyết định
về một cuộc hỏa thiêu các người ngoại đạo. Tiến Sĩ Pangloss bị treo cổ, Candide tránh
khỏi bị thiêu sống nhờ một bà già cứu giúp. Bà già này đã cho Candide ăn uống và tắm
rửa sạch sẽ rồi đưa chàng ta tới gặp Cunegonde, cô này đã thoát chết khi quân lính tấn
công Nam Tước một cách tàn bạo.
Cunegonde hiện đang sinh sống với hai người tình có quyền lực và chính cô này
đã cứu Candide khỏi bị lên dàn lửa. Sau đó, do cãi lộn, Candide đã đâm chết hai người
đàn ông kể trên. Quá sợ hãi, Candide, Cunegonde và bà già cùng nhau trốn ra một thành
phố cảng, tại nơi này, một con tàu quân đội đang chất hàng để đi đến xứ Paraguay. Nhờ
khả năng về quân sự, Candide được một ông tướng chú ý rồi ông tướng này đã phong cho
Candide làm đại úy chỉ huy bộ binh.
Về sau, Candide đã cùng Cunegonde và bà già đáp tàu biển đi xuống miền Nam

Mỹ (South America), trong chuyến đi xa này, bà già đã kể lại các câu chuyện khủng
khiếp mà bà ta đã gặp phải, bà ta đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ, nhiều hơn tất cả
các người khác. Tới lúc này, Candide bắt đầu nghi ngờ lý thuyết của Tiến Sĩ Pangloss về
chủ nghĩa “lạc quan”.
Tại thành phố Buenos Aires, ba người đã gặp Don Fernando là người chú ý tới
Cunegonde và muốn cưới cô này làm vợ. Candide rất đau buồn nhưng phải tìm cách lẩn
trốn bởi vì các nhân viên cảnh sát đang theo dõi dấu vết của Candide. Do được anh hầu
tên là Cacambo giúp đỡ, Candide đã trốn thoát và đã gặp Cha Linh Mục, chỉ huy trưởng
của một đạo quân Dòng Tên (a Jesuit army) tại Paraguay. Vi chỉ huy trưởng này hóa ra
lại là anh trai của Cunegonde, anh ta đã bị bỏ cho chết khi cha và mẹ của anh ta đã bị giết
tại Westphalia. Lúc này, Candide mới cảm thấy mình yêu thương Cunegonde nên hy
vọng rằng một ngày kia, sẽ cưới được nàng làm vợ. Người con trai của Nam Tước khi
biết được ý tưởng này của Candide, đã nổi giận rồi một trận đấu gươm xảy ra và Candide
đã giết chết anh ta.
Một lần nữa, Candide và Cacambo phải bỏ chạy rồi không lâu sau đó, họ gặp
nhóm dân Oreillons, những người này suýt nữa giết chết Candide, nhưng rồi đã đối xử tử
tế với Candide. Sau khi rời bỏ xứ sở của các người kể trên, Candide và Cacambo tới miền
đất Eldorado, đây là nơi chứa đầy vàng và ngọc mà người dân địa phương lại không cần


tới, bởi vì các nhu cầu của người dân đã được chính quyền địa phương cung cấp.
Eldorado cũng là nơi không có tòa án, không có nhà tù bởi vì mọi người dân đã đối xử
với nhau công bằng và không bào giờ phạm luật. Các công dân của xứ Eldorado tin
tưởng vào Thượng Đế nhưng họ không bào giờ cầu nguyện, họ chỉ cảm tạ Thưởng Đế
bời vì họ có đầy đủ các thứ cần tới.
Do muốn tìm kiếm Cunegonde, Candide và Cacambo đã rời khỏi xứ Eldorado
cùng với một toán lừa màu đỏ chất đầy vàng, ngọc và các đồ tiếp tế khác. Khi tới miền
Surinam, họ tách ra đi theo hai hướng khác nhau: Cacambo một cách bí mật hướng về
Buenos Aires để tìm cách mua chuộc, giải cứu Cunegonde, còn Candide đi tới Venice là
nơi anh ta không bị cảnh sát theo dõi. Candide bị hại do thuyền trưởng tên là Mynheer

Vanderdendur và do một viên quan tòa mà Candide đã nhờ bão chữa. Thất vọng, Candide
đã quảng cáo, muốn tìm một người bất hạnh nhất và người được chọn là một học giả lớn
tuổi, tên là Martin. Sau đó, Candide và Martin cùng đi tới Venice.
Tại thành phố Paris, Candide đã mắc bệnh và đã được nhiều người chăm sóc, tất
cả những người này đều chỉ muốn lấy tài sản của Candide. Sau đó Candide và Martin đi
tới nước Anh và đã chứng kiến nhiều cảnh bạo hành, rồi cuối cùng họ tới được thành phố
Venice.
Qua các cuộc thảo luận khác nhau, qua nhiều lần gặp mặt nhiều người khác nhau,
Candide bắt đầu không còn tin tưởng vào triết lý “lạc quan” nữa. Không lâu sau đó,
Candide gặp lại Cacambo, bây giờ là một tên nô lệ, anh này báo tin cho Candide biết rằng
Cunegonde đang ở Constantinople và làm việc như một người hầu. Candide đã trả tiền
chuộc cho Cacambo để rồi cùng đi Constantinople. Tại nơi này, họ đã gặp lại Tiến Sĩ
Pangloss và người con trai của Nam Tước, cả hai người này đã tưởng bị chết, nhưng còn
sống là nhờ sợi dây treo cổ Tiến Sĩ Pangloss đã tuột nút thắt, còn người con trai của Nam
Tước đã lành khỏi vết thương bị Candide đâm.
Tất cả các người này cùng đi tìm kiếm Cunegonde, lúc này cô nàng đang sinh
sống với bà già và không còn đẹp đẽ như trước kia, và Candide đã chuộc lại tự do cho hai
người mới này. Nhưng khi người con trai của Nam Tước cản trở cuộc hôn nhân của
Candide với Cunegonde, mặc dù Candide không còn mong muốn thứ đám cưới này,
người con trai của Nam Tước đã bị đám đông giết chết.
Vào lúc cuối, Candide đã kết hôn với Cunegonde và mua một trang trại nhỏ bằng
số tài sản Eldorado còn sót lại. Tất cả nhóm người này: Candide, Cunegonde, Cacambo,
Martin, Pangloss và bà già, đều sống với nhau tại trang trại kể trên rồi sau đó còn có
Paquette và người bạn đồng hành của cô ta là sư huynh Giroflee. Họ thảo luận về triết lý
của cuộc đời cho tới khi gặp một anh Thổ Nhĩ Kỳ đang ngồi nghỉ xả hơi dưới một gốc
cây. Anh này cho biết rằng anh ta chỉ có một nông trại nhỏ để sinh sống với các con.
Nông trại là nhu cầu của anh ta, đã tránh cho anh ta khỏi cảnh nhàm chán và các ước
muốn xấu xa.



Nhờ lối giải thích kể trên, Candide cũng cho rằng nhóm người của anh sẽ tìm ra
hạnh phúc và họ bắt đầu canh tác nông trại nhỏ bé của họ bằng cách “hãy trồng trọt khu
vườn của chúng ta”.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “CANDIDE”
1. TÍNH CÁCH NHÂN VẬT CANDIDE
III.

1.1.

Nhân vật Candide trước khi lưu lạc: tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa lạc quan
Đây là thời gian mà chàng thanh niên Candide được sống hạnh phúc trong lâu đài
của Nam tước Thunder-ten-tronckh, một lâu đài đẹp nhất của xứ Westphalie. Chàng là
một con người có tâm hồn giản dị, trong sáng và chàng trung thực với những nhận xét
thẳng thắn về việc đời của mình, thật đúng như ý nghĩa của cái tên chàng “Candide – sự
trong trắng, thật thà, ngây thơ”, vì lí do ấy mà mọi người gọi chàng là Chàng Ngây Thơ.
Trong cung điện nguy nga lộng lẫy đó chàng thấy có những con người “bậc nhất”:
Nam tước là một con người thế lực nhất vùng; Vợ ngài, “bà Nam tước” được kính trọng
không chỉ vì địa vị mà còn vì thân thể đẫy đà của bà; Còn con gái ngài – cô Cunégonde là
người xinh đẹp nhất, mới 17 tuổi mà hồng hào, cao lớn…v.v
Chàng nhìn thấy mọi thứ trên đời này đều tốt đẹp, hoàn hảo. Điều này được hình
thành là nhờ vào thuyết lí mà thầy của chàng – ông Pangloss: “Vị thánh sống trong nhà”
môn đệ của Lepniz và Vônphơ luôn nhắc đi nhắc lại rằng: “Tất cả đều tốt đẹp nhất trong
cái thế giới tốt đẹp nhất có thể có này”. Và chàng tuân theo những giáo huấn của
Pangloss một cách tin tưởng và tuyệt đối như sự tin tưởng của cậu vào người thầy của
mình. Cái mà chàng tin tưởng đó là thế giới này được bao quanh bởi sự tốt đẹp, hoàn hảo
không có gì gọi là xấu xa, đau khổ cả. Và nếu có cái gọi là xấu xa, đau khổ thì kẻ môn đệ
của Lepniz lại thao thao bất tuyệt cái lập luận nực cười của mình vào đầu chàng: “Cái gì


sinh ra cũng có mục đích, cho nên tất yếu cái gì cũng nhằm mục đích tốt đẹp nhất. Thử

xem xét cái mũi sinh ra để mà đỡ mục kính, vì vậy chúng ta có kính đeo. Chân là để
mang giày, vì vậy chúng ta đi giày. Đá sinh ra để người ta đẽo gọt và xây lâu đài, vì vậy
cụ lớn có một lâu đài đẹp bởi lẽ ngài Nam tước vĩ đại nhất của tỉnh phải được ở một nơi
nào tốt nhất; còn như giống lợn sinh ra là để cho người ta ăn, cho nên quanh năm ta
được ăn thịt..”. Bởi vì bản tính ngây thơ nên có thể nói là chàng tin tưởng tuyệt đối vào
lời thuyết giáo của Pangloss rằng “những ai đưa ra rằng tất cả là tốt đẹp thì người đó đã
nói một điều ngu xuẩn, cần phải nói rằng tất cả là tốt đẹp nhất ở trên đời này”. Dường
như chàng đã bị cái “lạc quan” thái quá của triết gia Pangloss in đậm trong tâm tưởng của
mình. Và chàng đã chia sẻ một cách tự nguyện cái chủ nghĩa lạc quan này trong lúc tình
yêu của chàng với con gái của Nam tước là tiểu thư Cunégonde đang nảy nở. Một hôm,
Cunégonde thấy thầy Pangloss đang bậy bạ với một người hầu phòng, chính điều này đã
khiến “nàng thấy rõ lí do khiến tiến sĩ làm cuộc thí nghiệm, những hậu quả và những
nguyên nhân” bởi vì “chẳng đời nào có cái gì xảy đến mà không có một nguyên nhân
hoặc chí ít là một lí do xác định, nghĩa là cái có thể dùng để giải thích theo cách tiên
nghiệm tại sao cái đó lại tồn tại và tại sao nó lại hơn tất cả những cách khác như thế”
( Lepniz - Biện thần luận). Thầy Pangloss và người hầu phòng như là lí do để xảy ra
nguyên nhân chàng Candide và Cunégonde muốn diễn lại cảnh ấy và đã bị Nam tước
phát hiện đuổi cả chàng và thầy Pangloss ra khỏi tòa lâu đài. Tuy bị đuổi ra khỏi lâu đài
phải sống khổ cực nhưng chàng luôn tin tưởng vững chắc vào thuyết lí của thầy Pangloss
“Những đau khổ riêng tạo nên điều tốt lành chung, vì vậy càng nhiều nỗi đau khổ riêng
thì mọi việc càng tốt lành bấy nhiêu”.
Nhân vật Candide trong khi lưu lạc: hình thành nên mối nghi ngờ về
chủ nghĩa lạc quan
“Candide” đại diện cho một lời chỉ trích của Voltaire dành cho triết gia thế kỷ
XVII – Leibniz. Voltaire sáng tạo ra Pangloss như một đại diện châm biếm Leibniz.
Leibniz quan niệm thế giới là một sự hòa hợp xác định trước, tuyên bố rằng cái ác chỉ
tồn tại để làm nổi bật cái tốt và rằng thế giới này là thế giới tốt nhất có thể bởi vì Thiên
Chúa đã tạo ra nó. Quan niệm của Leibniz thế giới là một phần của một trường học lớn
của tư tưởng được gọi là theodicy, mà cố gắng để giải thích sự tồn tại của ma quỷ trong
một thế giới được tạo ra bởi một toàn trí, toàn năng, hoàn toàn tốt là Thiên Chúa.

Voltaire chỉ trích sự lạc quan không pha loãng của nó. Nếu đây là thế giới tốt nhất có thể,
thì tại sao bất cứ ai cố gắng để giảm bớt đau khổ? Pangloss là một hình mẫu của một nhà
triết học quá trừu tượng. Pangloss nói về cấu trúc của thế giới, nhưng biết rất ít về nó kể
từ khi ông đã sống một cuộc sống nhàn rỗi trong một lâu đài. Candide tin Pangloss mà
không cần thắc mắc mặc dù ông có rất ít kinh nghiệm trực tiếp với thế giới bên ngoài.
Cuộc lưu lạc của Candide bắt đầu khi chàng bị trục xuất khỏi lâu đài thiên đàng.
Một loạt các bất hạnh xảy ra với chàng có vai trò quan trọng trong việc tái giáo dục thông
qua kinh nghiệm trực tiếp với thế giới. Kinh nghiệm thu nhặt được trong thế giới thực
trực tiếp mâu thuẫn với sự lạc quan của Pangloss. Trong thực tế, thế giới là một nơi
khủng khiếp đầy ác, tàn ác và đau khổ.
1.2.


Đầu tiên, chàng lết bộ tới tỉnh Valdberghoff-tracbk-dikdorff. Vừa đói, vừa mệt lại
không một xu dính túi, chàng buồn rầu đứng trước cửa một quán ăn. Hai người bận áo
xanh mời chàng ăn và nói: “Vả lại, người ta sinh ra là để giúp đỡ lẫn nhau”. Candide hồn
nhiên đáp lại: “Chính hiền triết Pangloss đã thường nói với tôi điều ấy, và tôi nhận thấy
trên đời mọi việc đều hoàn hảo hơn”. Bọn lính dẫn dụ chàng vào trại lính mà chàng
không hề hay biết, vẫn cứ ngây thơ tin tưởng về cái gọi là “người ta sinh ra là để giúp đỡ
lẫn nhau”. “Chàng Ngây Thơ rất ngạc nhiên, chưa hiểu tái sao chàng lại trở thành một vị
anh hùng”.
Hay như trong cuộc chiến giữa vua Gia Bảo Lợi và vua Abares, khi trông thấy
thây người chất đống, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng súng thần công khai hỏa rợn người,
“chàng Ngây Thơ run rẩy như một nhà triết học, chàng cố sức ẩn núp trong cuộc giết thịt
người hùng dũng ấy”. Sau đó, chàng lợi dụng bỏ trốn qua các ngôi làng như những đống
tro tàn, chàng đã nghe nói rằng “dân nước này giàu có và theo đạo Cơ đốc, nên chàng
không thể ngờ rằng họ xấu với chàng và tin rằng học cũng đối xử tốt với chàng như hồi
chàng còn ở trong lâu đài”.
Đến khi Candide bị đánh đập máu me đầy mình vì “đã nghe với vẻ tán thành”
những lời triết lý của tiến sĩ Pangloss, chàng mới chợt nghĩ thầm “Pangloss tiên sinh, nhà

hiền triết giỏi nhất thiên hạ mà cũng bị treo cổ trước mắt ta không biết vì lý do gì? Còn
nhà từ thiện Jaquess, người hoàn hảo nhất trong loài người, tại sao ông lại bị chết đuối ở
cửa biển? Còn cô Cunégonde nữa, hòn ngọc trong giới thiếu nữ, sao cô lại bị người ta mổ
bụng?” Nghĩa là Candide đã bắt đầu hoang mang với cái chủ nghĩa lạc quan của thầy dạy
mình, nếu cuộc đời hoàn hảo và dần tốt đẹp lên thì mọi việc đã không xảy ra như vậy?!
Và trong dịp tình cờ gặp lại Cunegonde, nghe nàng kể về những thảm họa của
cuộc đời mình, rồi cùng nàng bỏ trốn với số bạc vàng nàng có được từ những tên thích
nàng nhưng khi đến Cadix, bị ăn trộm hết, Candide bỗng dưng nói “triết gia Pangloss
thường chứng minh rằng tất cả của cải trên cõi đời đều là của chung cho mọi người, ai
cũng có quyền hưởng ngang nhau. Theo nguyên tắc ấy, thì ông linh mục phải để lại cho
chúng ta một phần của cải, để chúng ta hoàn tất cuộc hành trình của chúng ta”. Đến lúc
này, niềm tin tuyệt đối của Candide đã lung lay, nhưng vẫn còn mạnh mẽ lắm.
Tiếp tục cuộc hành trình, Candide cùng người bạn đồng hành của mình –
Cacambo – lại chứng kiến biết bao đau thương của cuộc đời. Khi hai người đến Surinam,
họ gặp một người mọi da đen nằm khốn khổ trên đường bị cụt mất một tay và một chân
vì bị chủ đối xử tàn bạo. Candide đã phải thốt lên rằng: “Ông Pangloss ơi! Ông đã không
đoán được cảnh tượng ghê gớm như thế này… Thôi từ nay tôi không còn tin ở chủ nghĩa
lạc quan của ông nữa”. Cacambo hỏi: “Chủ nghĩa lạc quan là cái gì vậy?” Candide
chảy nước mắt, nhìn lại người mọi da đen: “Than ôi! Đó chính là tính tinh tưởng cuồng
nhiệt rằng tất cả mọi việc đều tốt, khi mà người ta gặp toàn điều xấu”. Ngay chính lúc
này, Candide đã bị dao động bởi chính những điều mình mắt thấy tai nghe, những điều
chàng không được dạy mà chỉ có được qua những tìm hiểu thực tế như thế này. Như vậy,
chủ nghĩa lạc quan đã thực sự mất giá trị trong tâm hồn chàng! Chàng đã nhận ra nó chỉ
là sự “tin tưởng cuồng nhiệt” mà thôi, sự thật cuộc sống không thể cho con người ta tiếp
tục lạc quan được nữa.Tuy vậy, sự “tin tưởng cuồng nhiệt” đó vẫn còn âm ỉ trong con
người Candide.


Sau này, chàng ta có gặp được nhà thông thái già Martin. Hai người như hai thế
đối lập: Candide vẫn luôn nghiêng về cái lý thuyết lạc quan của hiền triết Pangloss,

ngược lại Martin lại hết sức bi quan, Martin tự nhận rằng bản thân ông theo thuyết thiện
ác cộng đồng. ông cho rằng “ma quỷ xen vào việc đời quá nhiều” hay “ tôi phải tin là
Thượng đế đã bỏ quên Trái đất cho một thứ ác quỷ nào đó”. Martin xem mọi việc trên
trái đất qua lăng kính bi quan, mọi việc đều hiện lên bằng bộ mặt xấu xa của nó. Ông ta
không thấy ở bất kì đâu có điều tốt, tất nhiên là trừ xứ Eldorado. Giữa lúc cuộc tranh cãi
của Candide và Martin đang sôi nổi thì một tiếng súng nổ ra trên con tàu hai người đi.
Một chiếc tàu khác đã bị bắn trúng, người ta nhận thấy chiếc tàu bị bắn chìm là tàu của
tên thuyền trưởng người Hà Lan đã cướp châu báu của Candide – những vật chàng được
tặng từ xứ sở thần tiên Eldorado, Candide đã tìm thấy con cừu của mình khi nó đang trôi
dạt trên biển khi chiếc tàu bị chìm. Chàng đã vui mừng khi nghĩ rằng kẻ ác đã bị trừng trị,
chàng tìm lại được con cừu thì chàng cũng sẽ gặp lại được nàng Cunegonde. Trong
Candide luôn tràn ngập niềm tin, tin vào một ngày mai tươi sáng. Tinh thần lạc quan
trong chàng nhờ đó cũng có cơ hội hồi sinh.
Nhưng mãi sau này, trên chuyến tàu đến Hà Lan, Candide đã la lên rằng “Thế giới
này là cái gì vậy?”. Đáp lại lời chàng là ông Martin với câu nói “là một cái vừa điên rồ
vừa ghê tởm”. Dường như tinh thần lạc quan , tin rằng mọi thứ trên đời đều tốt đẹp hơn
lên của Candide đang lung lay mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Như vậy,Candide, một thanh niên hiền lành, trung thực, và dễ chịu, bị trục xuất
khỏi lâu đài mà chàng cho là thiên đàng, Candide đi khắp nơi trên thế giới. Candide phiêu
lưu khắp nơi, gặp gỡ bạn bè cũ và người quen ở những nơi bất ngờ và hoàn cảnh không
bình thường. Trong cuộc hành trình của mình, chàng đã gặp nhiều tai nạn bất ngờ và phải
chịu đựng nhiều khó khăn và đau đớn. Tất cả những điều đó từ từ thuyết phục Candide
rằng sự lạc quan thực sự không phải là tốt nhất của tất cả các thế giới có thể.
Nhân vật Candide sau khi lưu lạc: từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa lạc quan
Hầu như, các nhân vật trong sáng tác của Voltare dù muốn hay không vẫn bị ném
vào xã hội phi đạo đức mặc họ là những con người hoàn hảo về mặt đạo đức. Thử hỏi,
bạn tin tưởng vào cuộc đời đó, bạn lạc quan đó, nhưng thực tại lại hết sức phũ phàng, cho
bạn nếm đủ mọi bất hạnh, đau thương của cuộc sống, liệu bạn còn lạc quan hay không?
Đa phần, niềm tin cũng như sự lạc quan đó, sẽ tiêu tan. Candide cũng vậy!
Cùng với sự tăng lên không ngừng của những khổ cực, vất vả mà Candide đã phải gánh

chịu trong suốt cuộc lưu tán của mình như: bị đánh, bị cưỡng bức vào lính, bị đắm tàu, bị
đưa đi tử hình, bị bắt giam, bị lừa gạt... niềm tin về cuộc đời trong chàng cũng giảm dần.
Candide đã thực sự thức tỉnh, không còn mê đắm trong chủ nghĩa lạc quan viễn vông mà
tiến sĩ Pangloss gieo vào đầu chàng bấy lâu nay. Hay nói đúng hơn, Candide từ chỗ hoài
nghi đã đi đến quyết định dứt khoát phải đoạn tuyệt chủ nghĩa lạc quan và coi đó là tư
tưởng điên rồ.
Ngày gặp lại tiến sĩ Pangloss trên đường đi đến bờ biển Propontide, lúc này
Pangloss đang là một tên tù khổ sai chèo thuyền được Candide bỏ tiền ra chuộc, Candide
đã từ tốn hỏi: “Ông Pangloss thân mến, tôi xin phép hỏi ông: khi ông bị thắt cổ, rồi rạch
da bụng, kế đến bị đánh đòn, bì đày đi khổ sai chèo thuyền, thì ông có còn nghĩ là mọi
1.3.


việc sẽ hoàn hảo hơn, hay không?” Như vậy, rõ ràng, Candide đang đưa ra những dẫn
chứng cụ thể trong chính cuộc đời của Pangloss để phủ định lại hoàn toàn thuyết lạc quan
của ông ta: “Tất cả đều tốt đẹp nhất trong cái thế giới tốt đẹp nhất có thể này”. Cuộc đời
nếu thật tốt đẹp tại sao Pangloss lại phải chịu những đắng cay đến cùng cực như vậy?!
Khi hỏi câu hỏi này, bản thân Candide đã ý thức về bản chất thật của cuộc sống rồi,
chàng thấy rằng vì tin tưởng một cách mù quáng vào chủ nghĩa lạc quan này nên chính
chàng, chính Pangloss lại trở thành những nạn nhân đáng thương của cái xấu xa, độc ác.
Ngay trong chuyện tình cảm, Candide cũng tỏ ra trưởng thành hơn bao giờ hết.
Xuyên suốt câu chuyện, Candide yêu say đắm con gái ngài Nam tước – cô Cunegonde,
dầu đi đến đâu, dầu trải qua những sóng gió gì, nguyện vọng của Candide cũng chỉ là
được cưới nàng. Tuy nhiên, đó chỉ là khi trong chàng chủ nghĩa lạc quan còn khá mạnh
mẽ. Đến cuối tác phẩm, tình cảm này ngỡ như phai nhạt đi, giống như sự phai nhạt của
chủ nghĩa lạc quan trong chàng vậy. Trước sự thay đổi nhan sắc của Cunegonde, từ một
cô gái đẹp đẽ, duyên dáng, quần áo lụa là “tiểu thư đẹp nhất trong các thiếu nữ, con cái
trưởng giả”, thời gian và số phận chỉ để lại cho nàng “màu da đã xạm, giọng nói khô
khan, mắt nổi tia máu, má nhăn nheo, cánh tay nắng cháy, tróc da”, chàng Ngây thơ
tuyệt vọng, “lùi lại ba bước, rùng rợn”. Thái độ của chàng chứng tỏ sự hụt hẫng đến

cùng cực, hụt hẫng về sự phai tàn của Cunegonde thì ít, mà hụt hẫng về chủ nghĩa lạc
quan thì nhiều. Mọi thứ tốt đẹp lên ư? Mọi việc đều có cứu cánh hoàn bích hơn ư? Nếu
như vậy thì người yêu của chàng đã không đến nông nỗi này.
Và cũng chính nhờ người hàng xóm, Candide cùng gia đình nhỏ của mình đã biết
được “Sự làm việc làm cho tránh được ba điều là buồn rầu, tật xấu, và sự đòi hỏi”, nghĩa
là khi người ta làm việc, người ta sẽ không còn thời gian để suy nghĩ viển vông, để buồn,
rồi lại đưa ra những triết lý huyễn hoặc nữa, người ta sẽ “sung sướng”. Lao động chính là
cơ sở để hạn chế sự nảy sinh của cái ác, là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Cho nên
Candide đã quyết định “phải trồng tỉa khu vườn” để mọi người bắt tay vào lao động,
quên đi những triết lý vô bổ siêu hình ngày nào. Suy nghĩ này được lặp lại hai lần trong
tác phẩm thể hiện sự quyết tâm cao độ của Candide.
Nhưng dường như, nhân vật, hay chính tác giả vẫn ít nhiều thỏa hiệp với cái xã hội
đầy rẫy những cái ác, cái xấu xa ấy. Kết thúc các truyện triết lý là những âm điệu thỏa
hiệp...Voltare đã thể hiện ước mơ của các nhà tư tưởng Thế kỷ Ánh Sáng về một xã hội
hoàn hảo nhưng chính ông cũng không tin rằng điều đó có thể xảy ra. Bởi thế, Voltare đã
không nói lên một cách rõ ràng, không trả lời dứt khoát cho câu hỏi có thể cân bằng giữa
cái thiện và cái ác được không. Soi chiếu vào tác phẩm, đúng là Candide bác bỏ chủ
nghĩa lạc quan, muốn xã hội tốt đẹp lên nhưng làm thế nào để xã hội tốt đẹp lên Candide
vẫn còn mờ mịt. Anh chỉ biết “phải trồng tỉa khu vườn của chúng ta đã”, còn khu vườn
đó sẽ như thế nào, có phát triển hay là không, nếu phát triển cây trái có tươi tắn không,
thì anh không biết. Dường như việc thay đổi xã hội đã không được đặt ra một cách bức
thiết. Đó chính là hạn chế của nhà văn – nhà tư tưởng Voltare.


2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Candide

Là một triết gia có sáng tác văn học nên các tác phẩm của Voltaire theo lẽ tất nhiên có
một số đặc điểm liên quan nhiều đến triết học. Trong chúng có rất nhiều thứ, có thể nói là
tất cả mọi thứ trong vũ trụ, có rất nhiều lời nói, nhưng luôn luôn thiếu vắng một số cột đỡ
then chốt của tác phẩm văn chương: tâm lý nhân vật, sự dẫn dắt cốt truyện, và đặc biệt là

các chuyển hoá.
Nhân vật của Voltaire như chúng ta thấy trong Candide, xuất hiện và giữ nguyên tâm
lý đã có, không có biến đổi. Do đó, các nhân vật ấy giống như các hằng số - rất có thể coi
những nhân vật này gần với các quy luật phổ quát, cái đích hướng tới và chủ đề suy tư
của các triết gia điển hình.
Xét về diễn ngôn, Candide nằm ở giữa Đối thoại triết học thuần tuý và kịch hài. Một
đặc điểm về hình thức quan trọng của hài kịch là sự tập hợp đông đảo các nhân vật chính
và phụ ở kết thúc, mà ở đây là đoạn ở khu vườn Propontide. Kịch hài cũng thường không
để nhân vật chết, và thường sử dụng cái chết như là một yếu tố đầy tính nhẹ nhõm: nhân
vật liên tục bị tưởng là đã chết nhưng sau này sẽ gặp lại trong một hoàn cảnh khác. Cái
chết ở đây giống như một cuộc di trú, nó đưa nhân vật di chuyển một cách vô hình trong
không gian, sự nặng nề của cái chết được giảm trừ hoàn toàn tính chất bi thảm. Thêm một
đặc điểm nữa là yếu tố ngẫu nhiên được tận dụng tối đa, điều này giúp tác giả tạo được
nhiều tình tiết hơn, nhưng mặt trái của nó là khiến cho câu chuyện luôn bị đẩy ra xa khỏi
“sự tự nhiên”.
Ngòi bút của Voltaire tập trung miêu tả những cuộc phiêu lưu không bình thường của
các nhân vật, trong đó cuộc hành trình của chàng Candide đậm tính chất hoang đường.
Voltaire không tạo dựng nhân vật có tính cách đa dạng, phức tạp, có đời sống nội tâm
phong phú mà ông nhấn mạnh, phóng đại trong tính cách nhân vật, khái quát hóa thành
những hình tượng nghệ thuật có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Candide điển hình cho con người
phán xét việc đời thẳng thắng với một tinh thần giản dị nhất, chàng luôn giữ một niềm tin
chắc chắn vào cái tốt đẹp, một sự “kiên định triết học” với đầy đủ ý nghĩa hài hước của
cụm từ này.
Tình huống giữ vai trò nhất định trong trong đời sống nhân vật Candide vì chàng bị
xô đẩy đến một nơi khác, bất ngờ bị lôi kéo vào những chuyện rắc rối (Candide bị đánh
thập tử nhất sinh, bị đuổi khỏi tòa lâu đài Nam Tước, bị bão to gió lớn làm đắm thuyền,
gặp cướp biển, bị lừa đảo, bị đày làm khổ sai,…) Nhân vật không bị đặt vào tình huống
phải lựa chọn gay gắt và hành động tức thời. Voltaire không hướng vào miêu tả tính cách
mà chỉ cần tạo dựng nhân vật như những mẫu người giả định để biểu đạt tư tưởng đó.
Nhật vật Candide không được miêu tả ngoại hình cụ thể, rõ nét: “một chàng thanh

niên tính tình hiền hậu, hồn nhiên sống trong tòa lâu đài này. Bộ diện của chàng phản
chiếu tâm hồn chàng…”
Tên nhân vật Cadide thể hiện phẩm chất, con người chàng: Candide – ngây thơ
Nhân vật Candide có quá trình chuyển hóa nhưng không hợp với logic nội tại của nó.
Candide vốn là con người lạc quan ngây thơ sau khi chứng kiến thực tế xã hội và bản
thân phải qua bao nỗi cơ cực đã nhận thức sâu săc về xã hội đương thời và hoài nghi triết
lí của giáo sư Pangloss.


Nhân vật trung tâm Candide mang tính lí tưởng, chứa đựng nhiều yếu tố phi lí,
khác thường (chàng luôn ngay thẳng, thật thà, và đặc biệt không bị nhiễm bởi những thói
xấu xa, tội lỗi đang đầy rẫy trong xã hội). Voltaire không coi trọng tính chân thực của
các chi tiết . Điều nhà văn quan tâm chính là tính chân thực của những vấn đề đặt ra qua
nhân vật chứ không phải của những chi tiết, là tính chân thực của những khái quát nghệ
thuật và tính lịch sử của vấn đề được trình bày qua câu chuyện.
IV.

GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM
1. Phê bình các hệ thống triết học

Candide là tác phẩm chỉ trích một cách khôn ngoan và châm biếm các hệ thống
triết học trừu tượng, đặc biệt là chủ thuyết lạc quan (optimism) của Gottfried W. Leibnitz
(1646 – 1716). Leibnitz là nhà triết học danh tiếng người Đức, được một số nhà tư tưởng
trong thế kỷ XVIII kính trọng. Voltaire không phản bác tất cả các ý tưởng của Leibnitz
mà chỉ tấn công chủ thuyết lạc quan, qua hình ảnh của Tiến Sĩ Pangloss.
Voltaire bác bỏ quan niệm cho rằng thế giới này có các biến cố do định mệnh
(fatalism), theo đó mỗi nguyên nhân đều sinh ra hậu quả thích hợp và các nguyên nhân
này đều phản ảnh ý muốn của Thượng Đế. Tiến Sĩ Pangloss vì quá lạc quan nên đã chấp
nhận dễ dàng mọi sự việc xảy ra, trái với ý nghĩ của Voltaire là con người phải có tinh
thần phấn đấu và cải tiến để sửa sai các khuyết điểm. Voltaire cũng bác bỏ ý niệm cho

rằng Thượng Đế đã can thiệp vào mọi công việc hàng ngày trên thế gian này, bởi vì các ý
tưởng của ông được căn cứ trên lý trí (reason).
Vào cuối tác phẩm, Candide đã bày tỏ quan điểm của Voltaire, đó là Thượng Đế
đã bỏ lại thế gian này sau khi đã tạo dựng nên và con người phải vun trồng khu vườn của
chính mình.
Trong tác phẩm “Candide”, Martin là con người bi quan (a pessimist), đã đi theo
chủ thuyết kể trên nên tin tưởng rằng Thượng Đế đã bỏ thế gian này cho bọn ác quỷ
(Satan và bóng tối) và điều ác là một hiện thực, không phải là một ảo giác.
Voltaire là người không hề tin tưởng vào một chủ thuyết nào, ông không ưa các lý
thuyết trừu tượng và những người theo lý thuyết, dù cho đó là chủ thuyết lạc quan của
Leibnitz hay bi quan của Mani. Voltaire chỉ tin tưởng vào thực nghiệm (empiricism) theo
đó mọi kiến thức hay các điều hiểu biết phải do từ các kinh nghiệm của giác quan
(sensory experiences). Về điều này, Voltaire chịu ảnh hưởng của nhà triết học người Anh
John Locke (1632 – 1704). Theo Voltaire, một ý tưởng hay một giả thuyết chỉ có giá trị
khi liên quan tới thế giới vật lý để cho con người có thể nhận biết và kiểm tra qua các
giác quan.



2. Chỉ trích xã hội

Cuốn Candide khai thác các thực tại xã hội, chiến tranh chết chóc, động đất, dịch
hạch, một thuỷ sư đô đốc bị xử bắn, một nữ tài tử chết không có quan tài, một công nhân
bị chủ chặt tay chân. Bao nhiêu bất công trong một chế độ phong kiến tàn ác.
Tác giả đưa ra một bài học: sống trên đời, nên bác bỏ các thuyết lý viển vông, quá
cao xa, nên sống thực tế và trông vào sự làm việc mới tạo được hạnh phúc.
Voltaire tấn công mọi hình thức của xã hội: bản chất của con người đã bị thay đổi
bởi các định chế dân sự (civil institutions). Chẳng hạn, Candide đã tìm thấy ở thành phố
Paris các kẻ nói dối và các tên vô loại. Giới tu sĩ từ Giáo Hoàng tới linh mục thì hư hỏng,
cuồng tín, tham lam, đàn áp, ham quyền lực. Giới y sĩ là loại lang băm, hành nghề gian

lận, giới tòa án và cảnh sát có lòng liêm chính đáng bị nghi ngờ, sự phân biệt giai cấp
trong xã hội được căn cứ vào cách giàu sang dỏm hơn là tài năng, còn sự thịnh vượng của
Châu Âu đặt căn bản trên sự nghèo khó của người dân và trên sự buôn bán nô lệ. Sau
cùng, vinh quang bề ngoài của chiến tranh thì tương phản với sự tàn phá cả trên mặt đất
lẫn trên mặt biển.
3. Giải pháp của Voltaire

Voltaire đã đề cập tới một nơi toàn hảo (a perfect place), đó là miếng vườn cộng
đồng của Candide (Candide’s garden community). Tại nơi này, mọi người cần phải làm
việc chăm chỉ (hard work), thật thà, có tinh thần cởi mở, cầu tiến và cố gắng chung.
Trong cộng đồng lý tưởng này, mỗi người tham gia tùy theo tài năng và sức mạnh của
từng cá nhân, và mọi người phải làm việc thật chăm chỉ để cải thiện các điều kiện sinh
hoạt bởi vì đây là nền văn hóa hướng vào công việc (work-oriented culture).
V.

Kết luận
Cuốn Candide – Chàng ngây thơ của Voltaire nhằm mục đích trả lời cho triết
thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết
gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người
phải lạc quan. Ông đưa ra một nhân vật chính có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật
thà đến mức ngây thơ nên người ta phải gọi là “Chàng ngây thơ”. Chàng là một con
người có tâm hồn giản dị, trong sáng, trung thực với những nhận xét thẳng thắn. Candide
đã phải trải qua bao nhiêu tai họa, biến cố,… đã khiến chàng đi đến hoài nghi và cuối
cùng đã bác bỏ hẳn cái chủ nghĩa lạc quan mà chàng đã học được ở Pangloss, đối với anh
đó chỉ là những từ bất hạnh mà anh học được trong cuộc đời khủng khiếp. Thuyết hài hòa
tiền định do Leibniz và Vonphơ đề xướng tỏ ra rất nguy hiểm. Nó ru ngủ tinh thần đấu
tranh, buộc mọi người phải làm ngơ trước thực tế xấu xa và đen tối của xã hội. Bản thân


nhân vật Candide góp phần đắc lực đánh quỵ chủ nghĩa lạc quan và thuyết Hài hòa tiền

định.
Lưu lạc vào một thế giới hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy
về được ngọc vàng châu báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người
giàu mạnh nhất thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở
thành nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiều lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho
nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng chỉ có thể
mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường. Candide
phải tìm đến giải pháp lao động, mua một mảnh vườn để “lao động, không lí luận gì nữa
thì mới sống được”. Thế giới của ánh sáng, của giấc mơ xã hội được gửi gắm vào xứ sở
Eldorado xa vời, cách biệt với thế giới loài người. Eldorado tồn tại như một tâm thức
huyền thoại.
Tóm lại, nhân vật chính mà Voltaire xây dựng đã không thể chiến thắng được cái
xã hội đen tối , cái xã hội phong kiến thối nát ấy. Cho nên nhìn về một xã hội mới
Voltaire chỉ thấy những viễn cảnh tương lai trong ảo mộng mơ hồ. Họ là những con
người lí tưởng, thật thà, không bị nhiễm những điều xấu xa, không bị cuốn hút vào trong
những tội lỗi đầy rẫy trong xã hội. Trong thế kỉ bất hạnh ấy, họ lại là nạn nhân, và cũng
chính họ là những quan tòa của xã hội; lên tiếng phán xét và phê phán các thể chế xã hội,
các tổ chức trong bộ máy giai cấp thống trị. Những con người ấy có thể thay đổi xã hội
được không? Voltaire cũng không trả lời được. Vì vậy các nhân vật của ông có phê phán
xã hội mãnh liệt bao nhiêu đi nữa, nhưng cuối cùng vẫn thõa hiệp với xã hội phong kiến.
Tuy nhiên, nếu cuộc sống là tồi tệ, thì một ngày nào đó, mọi việc rồi sẽ tốt, đó là
hy vọng của chúng ta. Chống đối một lý thuyết trừu tượng hão huyền, Voltaire đề xuất
một hoạt động cho sự vận hành của loài người: “hãy trồng trọt khu vườn của chúng ta,”
khu vườn ấy chính là thế giới. Sự khẳng định chủ đề này đảm bảo cho sự thống nhất của
những cuộc phiêu lưu khác nhau của Candide, được thuật lại bằng một phong cách sinh
động, được tạo nên từ sự chối tai khôi hài và lúc nào cũng thấm đượm sự mỉa mai, trào
lộng.




×