Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

KỸ THUẬT NUÔI gà AI cập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.26 KB, 28 trang )

I.

-





KỸ THUẬT NUÔI GÀ AI CẬP
ĐẶC ĐIỂM.

Gà Ai Cập hay còn gọi là gà Fayoumi là một giống gà có nguồn gốc từ
vùng Ai Cập và được nhân giống từ lâu trong lịch sử. Đây là giống gà cao
sản và cho năng suất cao về sản phẩm trứng gà. Ngay từ thời trước công
nguyên, người Ai Cập đã nổi tiếng về việc nuôi gà để lấy trứng. Họ nuôi
giống gà Fayoumi là giống có nguồn gốc từ thành phố Fayoum cổ đại của Ai
Cập.[2]
Gà Ai Cập có tầm vóc nhỏ, nhanh nhẹn, thịt chắc, chân cao, tiết diện hình
nêm thể hiện rõ hướng chuyên dụng trứng. Đến 20 tuần tuổi kết thúc giai
đoạn hậu bị, gà bước vào giai đoạn sinh sản. Gà có khả năng chống chịu
bệnh thật tốt, thích hợp với nhiều phương thức chăn nuôi.
Gà Ai cập là giống gà thả vườn của Ai Cập, có năng suất trứng đạt 200 –
220 quả/năm, tỷ lệ lòng đỏ cao, chất lượng trứng thơm ngon, được nhập vào
nước ta tháng 4/1997.

Gà Ai Cập

* Kỹ thuật chọn giống:





Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập,
trọng lượng gà 30 – 32g là đạt yêu cầu. Tránh chọn những con khô và khèo
chân, vẹo mỏ, hở rốn.
II.








CHUỒNG TRẠI, DỤNG CỤ CHĂN NUÔI.

Chuồng trại phải sạch sẽ, thoáng, khô ráo, ấm về mùa đông, mát về mùa hè;
phòng được chồn, chó, chuột.
Nuôi gà trong nông hộ cần có chuồng, xung quanh vườn phải có hàng rào
bao quanh, không nên thả rông.
Chuồng nuôi phải cách ly nhà ở, không nhốt chung gà trong khu chuồng lợn,
trâu, bò và không nuôi chung với ngan, vịt.
Phải có hố sát trùng trước cửa chuồng.
Cần có đầy đủ máng ăn, máng uống, chụp sưởi, rèm che, chất độn chuồng và
bố trí đầy đủ ổ đẻ khi gà bước vào giai đoạn sinh sản.
Đặt máng ăn, máng uống trong vườn nên đặt dưới gốc cây.
THỨC ĂN, NƯỚC UỐNG NUÔI GÀ.
Thức ăn phải được phối chế sao cho đảm bảo đầy đủ và cân đối các chất
dinh dưỡng trong khẩu phần theo từng giai đoạn nuôi gà. Không được sử
dụng các loại thức ăn ẩm mốc để phối hợp.
Không dùng thức ăn quá hạn sử dụng.

Định mức ăn của gà Ai Cập như sau:
III.






Tuần tuổi
0–6
7–9
10-13
14-17
18-19
TT
20-21
22-25
26-29
30-33
34-39

Trọng lượng cơ thể
(g)
500 – 670
730-1020
1100-1280
1350-1400
Tỷ lệ đẻ (%)
5,25-12,5
38,5-58,5

66,8-71,7
73-74,5
73,4-68,2

Thức ăn/con/ngày (g)
Ăn tự do
Ăn tự do đến 9h đêm
60 – 65
70-75
80-85
Thức ăn/ngày (g)
95
100-105
110-115
120
115-110


40-47
48-72


68-61,6
61,5-42,5

105
100

Nước uống: Cho gà uống nước sạch. Trong giai đoạn gà con (0 – 6 tuần
tuổi) nên cho gà uống nước sôi để nguội, pha thuốc vitamin C, B và đường

glucoz. Không cho gà uống nước nóng quá trên 300C .

KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG.
 Khả năng điều tiết thân nhiệt của gà con chưa hoàn chỉnh, sức đề kháng
kém, dễ cảm nhiễm bệnh. Do đó, trong giai đoạn đầu phải sưởi ấm cho gà.
Nhiệt độ sưởi ấm trong 1 tuần đầu từ 32 – 350C,
 Chuẩn bị trước khi đưa gà về: lồng úm, chụp sưởi, chất độn chuồng, máng
ăn, máng uống, thức ăn…, trước khi đưa gà vào úm phải sưởi ấm chuồng
trước đó vài giờ.
 Cho ăn ngô nghiền trong ngày tuổi thứ nhất để tiêu hết túi lòng đỏ còn lại
trong bụng.
 Giai đoạn gà cho ăn thức ăn có chất lượng tốt và cho ăn tự do, liên tục cả
ngày và đêm.
 Trong quá trình úm, thường xuyên quan sát sự phân tán đàn gà trong quây để
điều chỉnh nhiệt độ cho phù hợp:
+ Gà tụm lại dưới chụp sưởi là bị lạnh.
+ Gà tản xa chụp sưởi là bị nóng.
+ Gà nằm đều quanh chụp sưởi là đủ nhiệt.
 Thả gà trong quây úm với mật độ khoảng 20 – 25 con/m2. Giai đoạn gà dò 7
– 8 con/m2; giai đoạn gà sinh sản 4 – 5 con/m2chuồng.
 Giai đoạn gà hậu bị cho ăn hạn chế theo định mức để khống chế khối lượng
cơ thể gà. Giai đoạn này trống mái nhốt riêng và chỉ cần dùng ánh sáng tự
nhiên.
 Giai đoạn gà sinh sản cho ăn theo tỷ lệ đẻ trứng và ghép trống mái theo tỷ lệ
1 trống / 8 – 10 mái. Giai đoạn này ngoài ánh sáng tự nhiên phải chiếu sáng
bổ sung vào ban đêm, sao cho đảm bảo thời gian chiếu sáng 16 giờ/ngày.
IV.

CÔNG TÁC VỆ SINH PHÒNG BỆNH.
Hạn chế người và động vật ra vào khu chăn nuôi, ngăn không cho tiếp xúc

với chim hoang dã.
Định kỳ phun thuốc sát trùng trong và xung quanh chuồng nuôi.
V.










Quan sát đàn gà thường xuyên để phát hiện những con bị bệnh và nuôi cách
ly, đồng thời báo cáo cho thú y cơ sở gần nhất để có biện pháp can thiệp kịp
thời.
Để trống chuồng ít nhất 15 ngày trước khi đưa đàn gà mới vào nuôi. Nếu bị
dịch bệnh phải để trống chuồng ít nhất 3 tháng.
Tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin phòng bệnh cho gà theo hướng dẫn của
thú y. Lịch tiêm phòng cụ thể như sau:

Ngày tuổi Loại Vac xin
Cách sử dụng
1–4
Vitamin B1, B-Complex Cho uống
5 ngày tuổi Gumboro lần 1
Nhỏ mắt, mũi
Nhỏ mắt, mũi.
Lasota lần 1
7 ngày tuổi

Chủng vài màng
Đậu gà
cánh
10 ngày
Cúm gia cầm lần 1
Tiêm dưới da cổ
tuổi
15 ngày
Gumboro lần 2
Nhỏ mắt, mũi
tuổi
Lasota lần 2, kết hợp
25 ngày phòng bệnh đường ruột Nhỏ mắt, mũi
tuổi
bằng kháng sinh theo Trộn vào thức ăn
liều hướng dẫn
40 ngày
Cúm gia cầm lần 2
Tiêm dưới da cổ
tuổi
Newcasle Hệ 1 để
2 tháng
phòng bệnh dịch tả gà;
tuổi
Tiêm dưới da
Phòng tụ huyết trùng
1 – 3 tháng
Mỗi tuần cho uống 2
Phòng bệnh cầu trùng
tuổi

lần theo hướng dẫn


Đặc điểm
Gà Ai Cập có tầm vóc trung bình, con cái có thân hình nhỏ nhẹ, tiết diện hình nêm
thể hiện rõ hướng chuyên dụng trứng. Gà Ai Cập có chân cao, rất nhanh nhẹn, thịt
săn chắc và ngon, chúng có bộ lông hoa mơ đen đốm trắng, chân chì, cổ dài, lông
đuôi cao một số có lông màu hoa mơ đen đốm trắng, cổ trắng, mào cờ đỏ tươi, da
trắng, chân màu chì, xung quanh mắt có màu lông sẫm hơn cho nên gọi là mắt hoa
hậu.[2]
Gà mái lúc 19 tuần tuổi chỉ đạt 1,35-1,45 kg, lúc này nó đã bắt đầu đẻ. Gà có khả
năng chống chịu bệnh tật tốt, chịu được kham khổ, có thể nuôi nhốt hoặc thả vườn.
[3]
Gà Ai cập có thể nuôi nhốt hoặc thả vườn tùy theo khả năng diện tích đất đai của
chủ hộ. Đây là loại gà ưa yên tĩnh, thích hợp với vùng đồi.[4]


Đẻ trứng
Sau 20 tuần tuổi gà Ai Cập đã bắt đầu đẻ trứng, chúng sẽ kết thúc giai đoạn hậu bị,
gà bước vào giai đoạn sinh sản, gà đẻ nhiều, chỉ cần nuôi hơn 4 tháng là có thể cho
lứa trứng đầu tiên.[5] Năng suất trứng đạt 250-280 quả/mái/năm, trung bình từ 200210 trứng/năm.[5] Sản lượng trứng chỉ đạt 141 quả, năng suất trứng có thể đạt 195205 quả ở mức 72 tuần tuổi, tỷ lệ đẻ trứng cao, thời kỳ sinh sản đạt tỷ lệ 85% trong
đó khoảng trên 80% trứng to và đều.[6] Trứng chúng rất ngon, ngon hơn các loại
trứng gà khác, tỷ lệ lòng đỏ cao, trứng có tỷ lệ lòng đỏ chiếm 34%.[7]
Sau khi nuôi 20 tuần tuổi chọn những con đạt tiêu chuẩn chuyển sang đàn gà đẻ, gà
mái sinh sản có mào và tích tai to mềm, màu đỏ tươi, khoảng cách giữa 2 xương
háng rộng đặt lọt 2-3 ngón tay, khoảng cách giữa mỏm xương lưỡi hái và xương
háng rộng rộng đặt lọt 3 ngón tay. Lỗ huyệt ướt, cử động màu nhạt. Màu vàng của
mỏ và chân nhạt dần theo thời gian đẻ. Ghép gà trống với gà mái theo tỷ lệ 1/8 đến
1/10. Gà đẻ chỉ cho năng suất cao trong vòng một năm đầu.[7]
Chăn nuôi

Giống gà Ai Cập có quy trình chăm sóc khó hơn các giống gà khác.[6] Nuôi gà
Ai Cập thả vườn cũng phải có chuồng cho gà trú mưa, nắng. Xây dựng chuồng
ở vị trí cao ráo, dể thoát nước, ấm áp về mùa đông, thoáng mát về mùa hè, tránh
gió đông bắc thổi trực tiếp vào chuồng. Chuồng nuôi nhốt có máng cho ăn và
máng nước uống, ổ đẻ đạt ở trên cao, cách mặt sàn 1-1,5m. Gà sinh sản trên 21
tuần tuổi nuôi khoảng 5-6 con/m2. Tùy theo thời tiết mà bổ sung thêm đèn
chiếu ánh sáng và sưởi ấm cho gà. Khi gà đẻ, nên bấm mỏ của gà trên để tránh
xây xát khi chúng mổ nhau.
Thức ăn bổ sung bột đá, vỏ sò gấp 2-3 lần để gà tạo vỏ trứng, sử dụng 8-10%
thóc mầm trong thức ăn để tăng khả năng sinh sản, tỷ lệ phối và tăng lượng
vitanmin bằng cách cho ăn thêm rau xanh. Đảm bảo nước uống thường xuyên,
sạch, ngày thay 2-3 lần. Thu gom trứng 3- 4 lần trong ngày để đảm bảo tứng
sạch và tránh bị dập vỡ. Cho ăn bằng thức ăn công nghiệp hoặc bằng tấm gạo,
bắp xay, bổ sung ít bột cá, thêm rau xanh như rau muống, rau lang thái nhỏ.
Chăn thả ngoài vườn để tận dụng thức ăn thiên nhiên.[3]
Gà mái được cho ăn tăng dần theo tỷ lệ đẻ, nếu tỷ lệ đẻ dưới 50% thì cho ăn
110 gam/con/ngày, tỷ lệ đẻ 50 - 65% thì cho ăn 120 gam/con/ngày, tỷ lệ đẻ trên
65% thì cho ăn 130 gam/con/ngày. Sau khi tỷ lệ đẻ đạt đỉnh cao, nếu tỷ lệ đẻ


giảm thì giảm dần lượng thức ăn khoảng 2 gam/con/ngày sau mổi tuần. Hạn
chế số lượng thức ăn hàng ngày từ 7 tuần tuổi, khống chế thức ăn để gà đạt khối
lượng chuẩn (không quá béo, quá gầy). Quan sát kích thước trứng, vỏ trứng,
nếu võ mỏng thì bổ sung thêm canxi. Nếu trứng nhỏ hơn trứng bình thường thì
phải tăng thêm lượng thức ăn.[3]
Ở Việt Nam
Giống gà Ai Cập nhập vào Việt Nam từ Anh và được nuôi theo hướng gà
chuyên lấy trứng, với sản lượng cao, giống gà này được gọi là gà siêu trứng, rất
thích hợp với môi trường Việt Nam. Thịt gà Ai Cập thơm ngon, có giá cao hơn
gà phổ biến tại địa phương từ 20 - 25%. Loài gà này rất phù hợp với khí hậu ở

Mộc Châu, chóng lớn, ít bệnh tật. Trứng gà Ai Cập nhỏ nhưng lòng đỏ to, thơm
ngon. Xuất bán ra thị trường giá dao động từ 3.000 - 5.000 đ/quả. Gà già bán
cũng bán được 70.000 - 80.000 đ/con,[4] gà Ai Cập giống 1 ngày tuổi được bán
với giá 15.000 đồng/con.[8]
Một số nơi, trứng gà Ai Cập được người tiêu dùng khá ưa chuộng, giá bán
ngang bằng với giá gà kiến và cao gần gấp 2 so với gà công nghiệp, thì gà Ai
Cập thương phẩm cũng được đánh giá cao, bởi thịt săn chắc, thơm ngon với giá
từ 90-110 ngàn đồng/kg.[9][10] Tại Việt Nam, đã nuôi thử nghiệm thành công
giống gà siêu trứng VCN-G15 (giống gà lai giữa gà Ai Cập và gà trống
Ukraine). Giống gà này nhanh nhẹn nên có thể nuôi theo nhiều hình thức như
nuôi nhốt tập trung, nuôi bán thả hoặc nuôi trong nông hộ.[11
I. Xây dựng chuồng trại
+ Nền phải kiên cố, chắc để dễ vệ sinh, dễ sát trùng tiêu độc, nền có độ dốc thích
hợp dễ thoát nước, không ẩm ướt, tránh bị chuột đào bới. Bởi vậy, nền chuồng
thường láng xi-cát hoặc lát gạch.
+ Diện tích nền chuồng tùy thuộc vào quy mô, mức độ thâm canh nhưng phải đảm
bảo đủ rộng. Chuồng nuôi gà con 10 – 12 con/m2, Chuồng nuôi gà dò 5 – 6
con/m2.
+ Mái chuồng làm bằng vật liệu khó hấp thu nhiệt để chống nóng. Mái có thể lợp
bằng tole hoặc mái lá, lợp qua vách chuồng khoảng 1 m để tránh mưa, hắt làm ướt
nền chuồng. Làm một mái hoặc 2 mái.


+ Tường vách chuồng: Xây cách hiên 1 – 1,5 m , vách chỉ nên xây cao 30 – 40 cm
còn phía trên dùng lưới thép hoặc phên nứa. Trường hợp tường vách được coi là
tường bao thì phải có thêm cửa sổ để chuồng thông thoáng
+ Rèm che: Dùng vải bạt, bao tải, … Che cách vách tường 20 cm phía ngoài
chuồng nuôi, nhằm bảo vệ cho gia cầm tránh được mưa, gió rét nhất là ở giai đoạn
gà nhỏ.
+ Chuồng được ngăn làm nhiều ô, tùy diện tích nhưng ít nhất nên ngăn thành 2 –

3 ô để dễ quản lý đàn gà nhất là gà sinh sản. Nên ngăn ô bằng lưới thép hoặc nan
tre đảm bảo thông thoáng.
+ Hệ thống cống rãnh: Chuồng nuôi bắt buộc phải có hệ thống cống rãnh ngầm,
đồng thời có đường thoát nước bên ngoài để tránh hiện tượng đọng nước xung
quanh tường.
+ Chuồng làm cao 1,5 m, dài 2,5 m, rộng 2m. Chuồng có 1 hoặc 2 cửa cho gia cầm
ra vào.
Chuồng phải được vệ sinh khử trùng tiêu độc trước khi nuôi. Có thể dùng
Formol 2% với liều 1ml/m2, Paricolin 0,05% hoặc disinfecton 0,05% trước khi bắt
gà về nuôi từ 7- 15 ngày.
II. Chuẩn bị vườn thả (bãi chăn)
– Bãi thả nên có cây bóng mát (trồng cây ăn quả hoặc cây lâm nghiệp), có trồng cỏ
xanh là nguồn thức ăn có chứa nhiều vitamin, khoáng, là nguồn dinh dưỡng cho
gà. Có thể làm lán tạm để treo thêm máng ăn (chú ý tránh mưa ướt) và máng uống
cho gà trong thời gian chăn thả. Cây bóng mát trồng cách hiên chuồng nuôi 4 –
5 m, tán cây che nắng phải cao hơn chiều cao mái hiên chuồng nuôi để tăng cường
thông thoáng.
– Có bãi thả gà tự do, vận động. Trên bãi thả gà có thể tìm được một số thức ăn,
tắm nắng để tạo vitamin làm xương rắn chắc, sức khỏe tốt, ít bị bệnh.
– Vườn thả phải đủ diện tích cho gà vận động và kiếm thêm thức ăn. Yêu cầu diện
tích bãi chăn thả tối thiểu là từ 0,5 đến 1m2/gà, bãi chăn bố trí cả hai phía
(trước và sau) của chuồng nuôi và thực hiện chăn thả luân phiên, sẽ tốt hơn là sử
dụng bãi chăn thả một phía. Bãi chăn bố trí chạy dọc theo chiều dài chuồng nuôi,
sao cho khoảng cách từ cửa chuồng đến hàng rào không quá xa, gà dễ ra vào (đặc
biệt khi gặp thời tiết bất thường xấu).
– Bãi chăn thả được san lấp bằng phẳng, dễ thoát nước, không có vũng nước
tù đọng, không có rác bẩn, vật lạ ở trong bãi chăn, định kỳ thu dọn lông gà rơi vãi


ở bãi chăn. Thường xuyên duy trì thảm thực vật ở bãi chăn để có môi sinh, môi

trường tốt cho khu trang trại, hơn nữa còn bổ sung thêm nguồn thức ăn xanh, giàu
vitamin cho gà.
– Bao xung quanh bãi chăn nên sử dụng lưới mắt cáo hoặc rào bằng phên tre,…
Sao cho thông thoáng nhưng chắc chắn, chống người, thú hoang, hoặc thú nuôi
xâm nhập và gà không thể vượt qua
– Bãi chăn phải thường xuyên vệ sinh và định kỳ phụ tiêu độc.
III. Chuẩn bị quây úm và phương pháp sưởi ấm gà con
– Quây gà làm bằng cót, tấm nhựa hoặc dùng lưới thép và bên ngoài bọc bằng
bạt…
– Quây úm được bố trí trong phòng úm, không nên làm gần cửa ra vào tránh gió
lùa. Có thể dùng các tấm mây bồ, tôn .. có chiều cao 0,5 m, quây vòng tròn có
đường kính 2,8 – 3,0 m. Một quây gà đường kính như trên nuôi được 400 gà con
vào mùa hè và 500 con vào mùa đông.
– Mùa hè ngày tuổi thứ 5 thì nới rộng quây và đến ngày thứ 10 thì có thề tháo bỏ
quây. Mùa đông ngày tuổi thứ 7 thì nới rộng quây và cuối tuần thứ 2 – 3 thì có thể
tháo bỏ quây.
– Bố trí trong quây úm: Khay, mẹt cho gà con ăn và máng uống nhỏ được bố trí
xen kẽ nhau trong quây đảm bảo cho gà con ăn uống được thuận tiện. Chụp sưởi
(làm bằng tôn dạng hình nón có đường kính rộng 60 đến 80cm, bên trong khoét 3
lỗ so le nhau để lắp bóng điện, ở nóc chụp có móc để buộc dây treo) dùng bóng
điện, bóng hồng ngoại để cung cấp nhiệt sưởi, chụp sưởi có tác dụng hứng
nhiệt và tập trung nhiệt để tăng khả năng cấp nhiệt cho gà, ngoài ra làm chụp sưởi
sẽ không làm cho nhiệt thoát ra ngoài nên tiết kiệm được điện… chụp sưởi thường
treo giữa quây gà, treo cao 40 – 50 cm so với mặt nền.
* Sưởi ấm cho gà :
Chụp sưởi đặt cách mặt nền 30 – 40 cm. Điều chỉnh dụng cụ sưởi ấm cho gà tùy
thuộc vào nhiệt độ môi trường và tuổi gà. Trong quây gà và chuồng nuôi, nhiệt kế
nên đặt tầm ngang lưng gà. Gà con đủ nhiệt sẽ an uống tốt, khoẻ mạnh lớn
nhanh và ít bệnh; nếu gà bị thiếu nhiệt khi úm thì sẽ an uống kém, hay mắc bệnh,
nhiều gà còi cọc, tỷ lệ hao hụt cao,…

Bằng cách quan sát hoạt động của gà, ta cũng có thể đánh giá được nhiệt độ có phù
hợp hay không để điều chỉnh chụp sưởi cho thích hợp.


+ Khi nhiệt độ cao quá yêu cầu : Đàn gà tỏa ra xung quanh sát vòng quây, tránh xa
chụp sưởi, há mỏ để thở, uống nhiều, ăn ít.
+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ đông lên
nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít
+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ
đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít
+ Khi nhiệt độ thích hợp : Đàn gà phân bố đều trong quây, ham ăn uống,
kêu ít (yên tĩnh).
+ Nếu gà tụm lại một phía trong quây : có thể bị gió lùa, cần phát hiện và
che hướng gió.

IV. Chọn gà con
Xác định tiêu chuẩn gà con 1 ngày tuổi
– Khối lượng sơ sinh lớn (35 – 36g/con)
– Khỏe mạnh, tinh nhanh, hoạt bát, thân hình cân đối.
– Mắt tròn sáng mở to
– Chân thẳng đứng vững, ngón chân không vẹo
– Lông khô, bông tơi xốp, sạch, mọc đều
– Đuôi cánh áp sát vào thân
– Bụng thon và mềm
– Rốn khô và kín
– Đầu to cân đối, cổ dài và chắc


– Mỏ to chắc chắn, không vẹo, 2 mỏ khép kín.
V. Cho gà ăn, uống

1. Cho gà con ăn, uống
– Cho gà ăn, uống giai đoạn úm từ 0 – 3 tuần tuổi:
+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà con chủng loại 1 – 21 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp
viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg
thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu
thức ăn phải có chất lượng tốt. Rải mỏng, đều thức ăn lên khay ăn hoặc mẹt có độ
dầy 1cm, sau đó từ 2 – 3 giờ dùng bay sắt cạo sạch thức ăn lẫn phân có trong khay
đem sàng để gạt bỏ phân ra ngoài, tận thu thức ăn cũ và tiếp thêm lượt mỏng thức
ăn mới để cho gà ăn. Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn
cho gà trong một ngày đêm từ 8-10 lần. Khi gà được 3 tuần tuổi trở đi thay thế
khay ăn bằng máng ăn cỡ trung bình P30.
+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, 2 tuần đầu
dùng máng cỡ 1,5-2,0 lít, các tuần sau dùng máng cỡ 4,0 lít. Đế máng uống kê
thật phẳng bằng gạch mỏng cao hơn độn lót chuồng từ 1cm đến 3cm tùy theo độ
lớn của gà để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt xen kẽ
với khay ăn. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định, hàng ngày thay
nước uống cho gà khoảng 4 lần(sáng, chiều, tối, và giữa đêm).
– Cho gà ăn, uống giai đoạn từ 4 – 9 tuần tuổi:
+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà dò chủng loại 21 – 42 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp
viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg
thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu
thức ăn phải có chất lượng tốt.
Chuyển đổi thức ăn dần cho gà ăn theo cách phối hợp sau:
1. Ngày thứ nhất 75% thức ăn cũ và 25% thức ăn mới
2. Ngày thứ hai 50% thức ăn cũ và 50% thức ăn mới
3. Ngày thứ ba 25% thức ăn cũ và 75% thức ăn mới
4. Ngày thứ tư cho ăn 100% thức ăn mới
Cho gà ăn bằng máng trung P30, sau đó chuyển dần cho gà ăn bằng máng đại P50,
đổ thức ăn vào máng có chiều cao bằng 1/2 của thân máng, định kỳ 2 giờ lắc
máng cho thức ăn rơi xuống. Máng được treo bằng dây sao cho miệng máng

cao ngang lưng gà. Mật độ máng ăn cho gà theo yêu cầu: 30 con – 40


con/máng. Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn cho gà
trong một ngày đêm từ 2 lần (sáng, tối) hoặc 4 lần (sáng, chiều, tối, đêm).
+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, dùng
máng cỡ 4,0 lít hoặc 8 lít. Để máng uống kê thật phẳng bằng gạch cao hơn độn
lót chuồng từ 4 cm đến 5 cm để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống.
Máng uống đặt với số lượng 100 con cho 1 máng. Máng uống được rửa sạch hàng
ngày theo quy định của thú y, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần
(sáng, chiều, tối, và giữa đêm).
2. Cho gà thịt ăn, uống
Lượng nước uống đầy đủ cho gà hàng ngày. Không bao giờ để gà khát nước,
máng hết nước. Nếu đàn gà nuôi mà không được uống nước trong 1 ngày thì 2
ngày tiếp theo gà sẽ không tăng trưởng được về khối lượng và sẽ chậm lớn trong
1,5 tháng sau đó. Lượng nước uống hàng ngày của gà có thể khác nhau tùy theo
mùa, nhưng trung bình lượng nước mà đàn gà tiêu thụ hàng ngày gấp đôi lượng
thức ăn. Do vậy, căn cứ vào tuổi của gà, lượng thức ăn ăn vào và nhiệt độ môi
trường để tính lượng nước cho gà uống, đặc biệt khi pha thuốc tăng sức đề kháng,
phòng bệnh, chữa bệnh cho đàn gà.
Thức ăn được cho ăn theo nhu cầu của gà. Cần chia làm nhiều đợt để theo dõi
lượng thức ăn tiêu thụ, tránh để thức ăn dư thừa.
+ Theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn
– Theo dõi và ghi chép đầy đủ mức tiêu thụ thức ăn hàng ngày của gà theo giai
đoạn.
+ Xác định nhu cầu dinh dưỡng
– Dựa trên giống gà nuôi, các lứa tuổi khác nhau để xác định nhu cầu dinh dưỡng
cho gà theo các giai đoạn cho đúng tiêu chuẩn.
– Ngoài ra chúng ta cần căn cứ vào mùa vụ để xác định nhu cầu protein, năng
lượng trao đổi, vitamin và khoáng cho từng loại gà khác nhau.

– Thực tế sản xuất người ta chia thức ăn cho gà thịt được chia làm 3 giai đoạn như
sau:
+ Khẩu phần thức ăn khởi động cho gà 1 – 21 ngày tuổi
+ Khẩu phần thức ăn tăng trưởng cho gà 22 – 35 (hoặc 42) ngày tuổi
+ Khẩu phần thức ăn vỗ béo sau 36 ngày tuổi đến xuất chuồng.
VI. Chăm sóc gà
1. Theo dõi tình trạng sức khoẻ đàn gà


– Đối với gà nuôi thịt: Đầu tuần thứ 5 chỉ thả gà 2 giờ/ ngày cho gà tập làm quen.
sau đó đuổi gà vào chuồng, nhũng buổi sau tăng dần thời gian thả từ 30 phút
đến 1 giờ, như vậy sau khoảng 10 ngày là thả gà tự do. Trước khi mở cửa, gà đã
được cho ăn, uống khá đầy đủ, đặc biệt, nước uống có pha kháng sinh,
vitamin.
– Hàng ngày quan sát đàn gà, phát hiện những biểu hiện không bình thường để có
biện pháp xử lý kịp thời.
2. Vệ sinh chuồng trại, dụng cụ nuôi gà
– Giai đoạn úm hàng ngày kiểm tra và dọn rìa xung quanh máng uống độn chuồng
bị ướt, xới đảo độn lót chuồng từ 7 – 10 ngày/lần và bổ sung thêm lượt mỏng độn
lót. Không thay độn lót chuồng thường xuyên.
– Để đảm bảo cho đàn gà khỏe mạnh, chuồng nuôi, vườn chăn thả phải thường
xuyên vệ sinh sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng hoặc vôi bột 15 ngày/
lần. Phòng bệnh cho gà theo đúng lịch.
– Định kỳ xới đảo, bổ sung chất độn chuồng để đảm bảo độ dày cần thiết và làm
cho chất độn chuồng luôn khô, tơi xốp
– Thường xuyên kiểm tra chất độn chuồng nếu bị ướt phải hốt ra ngoài và bổ sung
chất độn chuồng mới.
– Máng ăn hàng ngày phải vệ sinh bằng cách dùng khăn lau sạch trước khi đổ thức
ăn, tiêu độc máng ăn 1 lần/tuần.
– Máng uống hàng ngày phải cọ rửa và sát trùng.

– Phun thuốc sát trùng toàn bộ chuồng nuôi 1 lần/tuần trong trường hợp khu
vực không có dịch bệnh và 3 ngày/lần khi khu vực xung quanh có dịch bệnh.
– Hàng ngày phải thay thuốc sát trùng trong khay để trước cửa ra vào
chuồng nuôi.
– Thường xuyên dãy cỏ xung quanh chuồng nuôi, hàng tuần phải phun
thuốc sát trùng tiêu độc
1.Chuẩn bị điều kiện nuôi:
Trước khi đem gà về nuôi cần chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện vật chất kỹ thuật như:
– Chuồng nuôi, rèm che, cót quây, chụp sưởi ấm, máng ăn, máng uống. Tất cả phải
được khử trùng trước khi sử dụng từ 5-7 ngày.
– Chuẩn bị đầy đủ thức ăn, thuốc thú y cần thiết cho đàn gà.
– Chuồng nuôi đảm bảo thoáng mát mùa hè, kín ấm vào mùa đông.


– Nền chuồng thiết kế đúng kỹ thuật, cao ráo, thoát nước.
– Chất độn chuồng: Trấu, dăm bào sạch, dày 5cm -10 cm được phun sát trùng khi
sử dụng.
– Đảm bảo lưu thông không khí trong chuồng nuôi.
a. Chuồng trại:
Chọn khu đất cao ráo, thoáng mát để cất chuồng gà. Nên cất chuồng theo hướng
Đông hoặc Đông Nam để hứng được nắng sáng và tránh được nắng chiều.
Nếu nuôi nhốt hoàn toàn, chú ý mật độ nuôi thích hợp (8 con/m2 nếu nuôi gà thịt
trên sàn, 10 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên nền).
Nếu nuôi gà thả vườn,chuồng là nơi để tránh mưa nắng và ngủ đêm, mật độ vườn
thả gà đủ là ít nhất 1 con/m2.
Mặt trước cửa chuồng hướng về phía đông nam. Sàn chuồng làm bằng lưới hoặc
tre thưa cách mặt đất 0,5 m để thông thoáng, khô ráo, dễ dọn vệ sinh.
Rào chắn xung quanh vườn bằng lưới B40, lưới nilon, tre gỗ… tùy điều kiện nuôi
của từng hộ. Ban ngày khô ráo thả gà ra sân, vườn chơi, buổi tối cho gà về chuồng.
b. Lồng úm gà con:

– Kích thước 2m x 1 m cao chân 0,5 m đủ nuôi cho 100 con gà.
– Sưởi ấm cho gà bằng đèn (hai bóng 75 W dùng cho 100 con gà).
c. Máng ăn:
– Khi gà còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) rải cám tấm trên giấy lót trong lồng úm cho gà
ăn.
– Khi gà 4-14 ngày tuổi cho gà ăn bằng máng ăn cho gà con.
– Trên 15 ngày cho gà ăn máng treo.
d. Máng uống:
Đặt hoặc treo xen kẻ các máng uống với máng ăn trong vườn. Thay nước sạch cho
gà 2-3 lần/ngày.
e. Bể tắm cát, máng cát sỏi cho gà:
Gà rất thích tắm cát.
Đối gà nuôi chăn thả phải xây bể chứa cát, tro bếp và diêm sinh cho gà tắm. Kích
thước bể dài 2 m, rộng 1 m, cao 0,3 m cho 40 gà.
Đặt một số máng cát, sỏi hoặc đá nhỏ xung quanh nơi chăn thả để gà ăn, giúp gà
tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
f. Dàn đậu cho gà:


Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ẩm cho đôi
chân, tránh nhiễm bệnh. Do đó nên tạo một số dàn đậu cho gà ngủ trong chuồng.
Dàn đậu làm bằng tre, gỗ (không nên làm bằng cây tròn vì trơn gà khó đậu). Dàn
cách nền chuồng khoảng 0,5 m, cách nhau 0,3-0,4 m để gà khỏi đụng vào nhau, mổ
nhau và ỉa phân lên nhau.
Làm ổ đẻ cho gà để nơi tối. Một ổ đẻ cho 5-10 con gà mái.
Vườn chăn thả: 1 m2/1 gà.
2. Chọn giống:
– Nuôi thịt: Chọn giống gà Tàu vàng, gà Đông Tảo, gà Nòi, gà Tam Hoàng, gà
Lương Phượng…..
– Nuôi gà lấy trứng thương phẩm: Chọn những giống gà đẻ nhiều như gà Tàu

Vàng, gà Tam Hoàng, gà BT1, gà Ri….
Chọn giống gà con:
– Chọn gà con càng đồng đều về trọng lượng càng tốt.
– Chọn những con nhanh, mắt sáng,lông bông, bụng gọn, chân mập.
– Tránh chọn những con gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ
huyệt bết lông, cánh xệ, có vòng thâm đen quanh rốn.
Chọn gà đẻ tốt:
– Chọn con có trọng lượng không quá thấp, không quá mập, lúc 20 tuần tuổi đạt
1,6-1,7 kg thì rất tốt.
– Đầu nhỏ, mỏ ngắn đều, mồng tích to, đỏ tươi.
– Mắt sáng,lông mượt xếp sát vào thân, bụng phát triển mềm mại.
– Hậu môn rộng màu hồng tươi và ẩm ướt.
– Khoảng cách giữa xương chậu và xương ức rộng độ 3-4 ngón tay, giữa hai xương
chậu rộng gần 2-3 ngón tay xếp lại.
3. Chăm sóc nuôi dưỡng:
Nên vận chuyển gà con vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh những ngày mưa
bão hay áp thấp nhiệt đới. Đưa gà vào chuồng úm, cho gà uống nước pha
Electrotyle hoặc Vitamine C, chỉ cho gà ăn tấm nấu hoặc tấm, bắp nhuyễn ngâm
sau khi gà nở ít nhất là 12 giờ, tiếp tục cho ăn uống như thế đến 2 ngày.Sang ngày
thứ 3 thì pha với lượng tăng dần thức ăn công nghiệp hoặc tự trộn phụ phế phẩm.


Trộn thuốc cầu trùng vào trong thức ăn cho gà từ ngày thứ 7 trở đi, dùng
Rigecoccin 1 gr/10 kg thức ăn (hoặc dùng Sulfamid trộn tỷ lệ 5%).Thay giấy lót
đáy chuồng và dọn phân mỗi ngày sạch sẽ.
Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ, quan sát tình trạng ăn uống đi đứng của gà, nếu
thấy con nào buồn bã, ủ rủ cần cách ly ngay để theo dõi.
Dùng bóng đèn tròn 75W úm cho 1m2 chuồng có che chắn để giữ nhiệt, tùy theo
thời tiết mà tăng giảm lượng nhiệt bằng cách nâng hoặc hạ độ cao của bóng đèn.
Quan sát thấy nếu gà nằm tụ quanh bóng đèn là gà bị lạnh, tản xa bóng đèn là

nóng, nằm tụ ở góc chuồng là bị gió lùa và gà đi lại ăn uống tự do là nhiệt độ thích
hợp.Thắp sáng suốt đêm cho gà trong giai đoạn úm để phòng chuột, mèo và để gà
ăn nhiều thức ăn hơn.
Thường xuyên quan sát biểu hiện của đàn gà để kịp xử lý những bất thường xảy ra.
Khi thời tiết thay đổi nên cho gà uống nước pha Electrolyte hoặc Vitamine C.
Do tập tính của gà thường uống nước cùng lúc với ăn, nên đặt máng ăn và máng
uống cạnh nhau để gà được uống nước đầy đủ mà không uống nước dơ bẩn trong
vườn.
Nếu là gà nuôi thịt thì không cần cắt mỏ. Đối với gà đẻ để giảm hiện tượng cắn mổ
nhau thì nên cắt mỏ (chỉ cắt phần sừng của mỏ) vào tuần 6-7.
Chú ý: Không nuôi nhiều cở gà trong 1 chuồng, trước khi nuôi đợt mới cần phải
sát trùng toàn bộ chuồng trại, dụng cụ.
4.Thức ăn cho gà:
Gà là một trong số con vật nhạy cảm, nên tuyệt đối không cho gà ăn thức ăn bị ôi
mốc, nhiễm nấm, thối rửa.
Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc tận dụng các phụ phế phẩm công nông
nghiệp, sao cho đảm bảo các thành phần: Năng lượng, đạm, khoáng và vitamine.
Khống chế lượng thức ăn và đảm bảo chất lượng thức ăn đối với gà hậu bị để gà
không bị mập mỡ làm giảm sản lượng trứng.
Đối với gà thả vườn thì vấn đề khoáng và vitamine không quan trọng bằng gà nuôi
nhốt, vì chúng sẽ tự tìm kiếm theo nhu cầu của cơ thể.
Sau giai đoạn úm có thể cho gà ăn thêm rau xanh. Nên nuôi thêm trùn đất và giòi
là nguồn cung cấp đạm dồi dào cho gà.
– Ngày đầu tiên chỉ cho gà uống nước, ăn tấm hoặc bắp nhuyễn. Thức ăn mỗi lần
rải một ít để thức ăn luôn thơm ngon kích thích tính thèm ăn của gà.


– Những ngày kế tiếp tập dần cho gà ăn sang thức ăn công nghiệp. Cho gà ăn nhiều
bữa trong ngày, ăn tự do.
Nếu sử dụng máng treo để cho gà phải thường xuyên theo dõi điều chỉnh độ cao

của máng để gà ăn một cách thoải mái và tránh rơi vãi thức ăn.
– Nước uống phải sạch và đầy đủ cho gà uống, gà sống lâu hơn nếu thiếu thức ăn
hơn thiếu nước.
5. Vệ sinh phòng bệnh:
Vệ sinh phòng bệnh là vấn đề là công tác chủ yếu, đảm bảo “Ăn sạch, ở sạch, uống
sạch”. Nên chuồng và vườn thả phải luôn khô ráo, sạch sẽ, không để ao tù nước
đọng trong khu vườn thả.
Áp dụng nghiêm ngặt lịch phòng vaccine tuỳ theo từng địa phương. Ngoài ra, dùng
kháng sinh phòng một số bệnh do vi trùng, đặc biệt đối với gà thả nền thì cần phải
phòng bệnh cầu trùng khi cho xuống nền và thả vườn.
a. Những nguyên nhân gây bệnh
– Gia súc non, gia súc bị suy yếu, giống mẫn cảm với bệnh.
– Môi trường sống:
+ Thức ăn không cân bằng dinh dưỡng dễ làm con vật mắc bệnh.
+ Nước uống phải sạch.
+ Không khí, nhiệt độ ….
b. Sức đề kháng của cơ thể gia súc:
– Mỗi con vật đều có một hàng rào cơ học để tự bảo vệ cơ thể.
– Sức đề kháng do con người tạo bằng cách tiêm các loại vaccin phòng bệnh (sức
đề kháng chủ động).
c. Các biện pháp vệ sinh phòng bệnh:
Vệ sinh phòng bệnh:
– Thức ăn tốt.
– Nước sạch.
– Con giống có khả năng chống đỡ với bệnh tật cao.
– Chuồng nuôi sạch.
– Quanh chuồng nuôi phải phát quang.
– Thực hiện tốt qui trình thú y về vệ sinh phòng bệnh.
Phòng bằng Vaccine:
Lưu ý khi dùng vaccine phòng bệnh:



– Chỉ dùng khi đàn gia cầm khỏe.
– Lắc kỹ vaccine trước và trong khi dùng.
– Vaccine mở ra chỉ sử dụng trong ngày, dư phải hủy bỏ.
Dùng vitamin để tăng bồi dưỡng cho gia cầm.
Phòng bằng thuốc:
– Bệnh ở đường tiêu hóa: Oxyteracilin, chloramphenicol…
– Bệnh đường hô hấp: Tylosin, Tiamulin,…
Không dùng một loại kháng sinh liên tiếp trong các liệu trình. Mỗi liệu trình phòng
bệnh khoảng 3-4 ngày là đủ
Chăn nuôi gà an theo hướng toàn sinh học (ATSH) nhằm đảm bảo an toàn dịch
bệnh và đảm bảo vệ sinh môi trường do đó công tác tiêu độc vệ sinh sát trùng phải
được thực hiện thường xuyên. Trước khi nuôi phải xông xịt sát trùng chuồng trại
theo quy định. Trong suốt quá trình nuôi mỗi tuần xịt toàn bộ chuồng trại và khu
vực xung quanh (trừ máng ăn, máng uống) 1 lần. Xịt từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 10
bằng dung dịch Biocide 2% với 0,5 lít/m2 chuồng trại lúc trời nắng.
1. Chuẩn bị điều kiện nuôi
- Chuồng nuôi, rèm che, cót quây, chụp sưởi ấm, máng ăn, máng uống. Tất cả phải
được khử trùng trước khi sử dụng từ 5-7 ngày.
- Chuồng nuôi phải đảm bảo thoáng mát mùa hè, kín ấm vào mùa đông.
- Chất độn chuồng: Trấu, dăm bào sạch, dày 5cm -10cm được phun sát trùng trước
khi sử dụng.
a. Chuồng trại
- Nếu nuôi nhốt hoàn toàn, chú ý mật độ nuôi thích hợp (8 con/m2 nếu nuôi gà thịt
trên sàn; 10 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên nền).
- Mặt trước cửa chuồng hướng về phía Đông Nam. Sàn chuồng làm bằng lưới hoặc
tre thưa cách mặt đất 0,5m để tạo độ thông thoáng, khô ráo, dễ dọn vệ sinh.
b. Lồng úm gà con
- Sưởi ấm cho gà bằng đèn (hai bóng 75W dùng cho 100 con gà).

- Khi gà còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) rải thức ăn trên giấy lót trong lồng úm cho gà ăn.
- Trên 15 ngày cho gà ăn máng treo.
Đặt hoặc treo xen kẽ các máng uống với máng ăn trong chuồng hoặc vườn. Thay
nước sạch cho gà 2-3 lần/ngày.
- Gà rất thích tắm cát.


- Đặt một số máng cát, sỏi hoặc đá nhỏ xung quanh nơi chăn thả để gà ăn, giúp gà
tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
- Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ẩm cho đôi
chân, tránh nhiễm bệnh. Do đó nên tạo một số dàn đậu cho gà ngủ trong chuồng.
Làm ổ đẻ cho gà để nơi tối. Một ổ đẻ cho 5-10 con gà mái.
2. Chọn giống
- Nuôi gà lấy trứng thương phẩm: Chọn những giống gà đẻ nhiều như gà Tàu
Vàng, gà Tam Hoàng, gà BT1, gà Ri....
- Chọn gà con càng đồng đều về trọng lượng càng tốt.
- Tránh chọn những con gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ
huyệt bết lông, cánh xệ, có vòng thâm đen quanh rốn.
- Chọn con có trọng lượng không quá thấp, không quá mập, lúc 20 tuần tuổi đạt
1,6-1,7 kg thì rất tốt.
- Mắt sáng, lông mượt xếp sát vào thân, bụng phát triển mềm mại.
- Khoảng cách giữa xương chậu và xương ức rộng độ 3-4 ngón tay, giữa hai xương
chậu rộng gần 2-3 ngón tay xếp lại.
- Nên vận chuyển gà con vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh những ngày mưa
bão hay áp thấp nhiệt đới. Đưa gà vào chuồng úm, cho gà uống nước pha
Electrotyle hoặc VitamineC, chỉ cho gà ăn tấm nấu hoặc tấm, bắp nhuyễn ngâm sau
khi gà nở ít nhất là 12 giờ, tiếp tục cho ăn uống như thế đến 2 ngày. Sang ngày thứ
3 thì pha với lượng tăng dần thức ăn công nghiệp hoặc tự trộn phụ phế phẩm.
- Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ, quan sát tình trạng ăn uống đi đứng của gà,
nếu thấy con nào buồn bã, ủ rũ cần cách ly ngay để theo dõi.

- Quan sát thấy nếu gà nằm tụ quanh bóng đèn là gà bị lạnh, tản xa bóng đèn là
nóng, nằm tụ ở góc chuồng là bị gió lùa và gà đi lại ăn uống tự do là nhiệt độ thích
hợp.Thắp sáng suốt đêm cho gà trong giai đoạn úm để phòng chuột, mèo và để gà
ăn nhiều thức ăn hơn.
- Do tập tính của gà thường uống nước cùng lúc với ăn, nên đặt máng ăn và máng
uống cạnh nhau để gà được uống nước đầy đủ mà không uống nước dơ bẩn trong
vườn.
- Ánh sáng: Dùng ánh sáng tự nhiên ban ngày, ban đêm thắp đèn cho gà ăn tự do,
dùng máng ăn tự động hình trụ 50 con/máng đổ đầy thức ăn cho 1 ngày đêm, sáng
sớm trước khi cho ăn nên kiểm tra và loại bỏ thức ăn thừa hoặc phân trấu dính vào
máng ăn. Không thả rèm (chỉ thả khi trời mưa bão lạnh). Cứ 2 tuần 1 lần cân 10%
tổng số gà để tính trọng lượng bình quân.


- Phân gà được hốt dọn thường xuyên (nếu nuôi lồng) hoặc cuối đợt (nếu nuôi trên
nền trấu) và phải được đem ủ kỹ với vôi bột 3 tháng sau mới đem dùng.
- Phải đưa gà đến các cơ sở giết mổ tập trung và phải có dấu của thú y mới được
bán.
4. Thức ăn cho gà
- Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc tận dụng các phụ phế phẩm công nông
nghiệp, sao cho đảm bảo các thành phần: Năng lượng, đạm, khoáng và Vitamine.
Khống chế lượng thức ăn và đảm bảo chất lượng thức ăn đối với gà hậu bị để gà
không bị mập mỡ làm giảm sản lượng trứng.
Sau giai đoạn úm có thể cho gà ăn thêm rau xanh. Nên nuôi thêm trùn đất và giòi
là nguồn cung cấp đạm dồi dào cho gà.
- Những ngày kế tiếp tập dần cho gà ăn sang thức ăn công nghiệp. Cho gà ăn nhiều
bữa trong ngày, ăn tự do.
- Nước uống phải sạch và đầy đủ cho gà uống, gà sống lâu hơn nếu thiếu thức ăn
hơn thiếu nước.


- Vệ sinh phòng bệnh là công tác chủ yếu, đảm bảo "Ăn sạch, ở sạch, uống sạch".
Nền chuồng và vườn thả phải luôn khô ráo, sạch sẽ, không để ao tù nước đọng
trong khu vườn thả.
a. Những nguyên nhân gây bệnh
- Môi trường sống:
+ Nước uống phải sạch.
b. Sức đề kháng của cơ thể gia cầm
- Sức đề kháng do con người tạo bằng cách tiêm các loại vaccin phòng bệnh (sức
đề kháng chủ động).
+ Vệ sinh phòng bệnh
- Nước sạch.
- Chuồng nuôi sạch.
- Thực hiện tốt qui trình thú y về vệ sinh phòng bệnh.
Lịch chủng ngừa
+ Lưu ý khi dùng vaccine phòng bệnh
- Lắc kỹ vaccine trước và trong khi dùng.


Dùng vitamin để tăng bồi dưỡng cho gia cầm.
- Bệnh ở đường tiêu hóa: Oxyteracilin, chloramphenicol...
Không dùng một loại kháng sinh liên tiếp trong các liệu trình. Mỗi liệu trình phòng
bệnh khoảng 3-4 ngày là đủ
6.1. BỆNH CẦU TRÙNG
Bệnh cầu trùng thường làm tăng tỷ lệ tử vong cho gà nhỏ, gà phát triển chậm, yếu,
dễ bị bội nhiễm các bệnh khác.
Triệu chứng: Gà ủ rũ, xù lông, chậm chạp, phân đỏ hoặc sáp nhiều khi có máu
tươi. Gà đẻ vỏ trứng mỏng, tỷ lệ đẻ giảm.
Phòng bệnh: Vệ sinh phòng bệnh chặt chẽ, đặc biệt không để nền chuồng, chất
đọng làm chuồng ẩm ướt.
- Sử dụng một trong các loại thuốc sau (dùng trong 3 ngày): Anticoc 1gr/1 lít nước;

Baycoc 1ml/ 1 lít nước.
6.2. BỆNH THƯƠNG HÀN (Salmonellosis)
Triệu chứng: Gà ủ rũ, phân trắng loãng, hôi thối. Gà đẻ trứng giảm, trứng méo mó,
mào tái nhợt nhạt hoặc teo.
+ Gà con: Gan sưng, có điểm hoại tử trắng, niêm mạc ruột viêm loét lan tràn.
Phòng bệnh: Bằng các biện pháp vệ sinh tổng hợp. Có thể dùng kháng sinh để
phòng bệnh: Oxytetracyclin: 50-80mg/gà/ngày, dùng trong 5
ngày. Chloramphenical: 1gr/5-10 lít nước, dùng trong 2-3 ngày.
6.3. BỆNH DỊCH TẢ (Newcastle disease)
Triệu chứng: Thường biểu hiện ở 2 thể: Cấp tính và mãn tính.
- Khó thở, nhịp thở tăng, hắt hơi (con vật há mồm, vươn cổ thở).
- Một số con chảy dịch nhờn ở mắt, mũi. Tích, mào tím xanh.
+ Thể mãn tính: Những gà bị bệnh kéo dài sẽ chuyển sang thể mãn tính. Triệu
chứng chủ yếu ở đường hô hấp, thở khò khè, kém ăn, giảm đẻ.... Gà trở thành vật
mang trùng. Tỷ lệ chết 10%.
Phòng bệnh: Chủ yếu là bằng vaccine.
6.4. BỆNH GUMBORO
Triệu chứng: Phân lúc đầu loãng, trắng, nhớt nhầy, sau loãng nâu.
- Gà thịt thường phát bệnh sớm hơn (ở giai đoạn 20-40 ngày).
- Ngày thứ 2: Thận sưng nhạt màu, ruột sưng có nhiều dịch nhầy.
- Ngày thứ 5,6,7 túi Fabricius teo nhỏ, cơ đùi, cơ ngực tím bầm.
- Phòng bệnh bằng vệ sinh: Định kỳ tiêu độc sát trùng chuồng trại thường xuyên
mỗi tháng và sau mỗi đợt nuôi


Trước khi nuôi gà con cần phải nắm bắt được các thông tin về nguồn gốc đàn gà,
uy tín của trại giống và nắm vững đặc tính năng suất của đàn gà sắp nuôi; đồng
thời phải chuẩn bị chuồng trại đạt tiêu chuẩn.

nuôi gà con



Tuy nhiên không phải hộ chăn nuôi nào cũng nắm rõ được các yêu cầu và kiến
thức của việc này. Thông qua thông tin tư vấn dưới đây của chuyên gia Công ty cổ
phần GreenFeed Việt Nam, hy vọng các hộ chăn nuôi có thêm kinh nghiệm để có
đàn gà mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Úm gà con là một trong những khâu rất quan trọng và cần thiết trong quá trình
chăn nuôi gà, nó quyết định đến năng suất, chất lượng đàn gà sau này. Nếu đểgà
con mới nở trong những tuần đầu thiếu nhiệt, gà sẽ yếu dần, tỷ lệ chết cao.
Xem Video cách nuôi gà con nhé!
Chuẩn bị tấm quây hoặc lồng úm gà con.
– Rửa sạch nền chuồng, sát trùng bằng formol 2% hoặc Crezin, Hanlamid. Dùng
cót cao 45cm làm tấm quây với đường kính vòng quây khoảng 2 – 4m tuỳ theo số
lượng gà định úm: Nền chuồng có lớp độn chuồng bằng trấu dày 10-15cm. Trong
chuồng có máng ăn, máng uống nước và đèn sưởi.
Mật độ chuồng nuôi: Sau khi gà con nở được 18 – 24 giờ (đủ thời gian để gà
con khô lông), chọn những gà con đạt tiêu chuẩn như: Khỏe mạnh, nhanh nhẹn,
lông bông tơi xốp, không bị dị tật.

nuôi gà con mới nở
Mật độ chuồng nuôi thích hợp theo tuần tuổi như sau:
Tuần tuổi

Mật độ trung bình (con/m2)


Mật độ tối thiểu

Mật độ tối đa


1

30 – 35

30 – 45

2

20 – 25

25 – 30

3

15 – 20

20 – 25

4

12 – 15

15 – 20

Tuỳ theo mùa vụ và hiện trạng đàn gà mà điều chỉnh nhiệt sưởi cho thích hợp, gà
từ 22 – 28 ngày tuổi nhiệt độ điều chỉnh theo độ mọc lông. Nếu gà tụm lại xung
quanh nguồn nhiệt, kêu chiếp chiếp không ăn là thiếu nhiệt. Gà tản xa nguồn nhiệt,
há miệng thở là thừa nhiệt. Gà đi lại nhanh nhẹn ăn uống bình thường là nhiệt thích
hợp. Nếu gà tụm lại một góc thì phải quan sát có gió lùa hay không. (nên sử dụng
bóng đèn hồng ngoại ngoài việc sưởi ấm còn có tác dụng phòng bệnh cho gà).

Nhiệt độ sưởi thích hợp cho gà.
Quây úm

Ngày tuổi

Nhiệt độ
nguồn sưởi
(0C)

Nhiệt độ trong Chuồng sưởi ấm
quây (0C)
nhiệt độ chuồng (0C)

1–3

38

28 – 29

31 – 33

4–7

35

28

31 – 32

8 – 14


32

28

29 – 31

15 – 21

29

28

28 – 29

22 – 28

29

25 – 28

23 – 28

Thời gian chiếu sáng và cường độ ánh sáng rất quan trọng đối với gà con. Nếu sử
dụng được nguồn chiếu sáng sẽ có tác dụng làm tăng đòi hỏi về thức ăn, kích thích
cơ thể phát triển mà không làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Người ta thường
dùng bóng đèn treo ở dọc chuồng cách nền chuồng 2,5m với cường độ chiếu sáng
(w/m2 chuồng) như sau:
Thời gian chiếu sáng và cường độ ánh sáng chiếu cho gà:



Thời gian chiếu sáng hàng Cường độ chiếu sáng
Ngày tuổi ngày (giờ)
(W/m2)
1–2

22

5

3–4

20

5

5–7

17

5

8 – 10

14

3

11 – 13


11

3

14 – 28

8

2

Chăm sóc gà con:
Khi gà mới nhập về (1 ngày tuổi) bổ sung nước uống, đường Gluco, Permasol 500,
Vitamin C như sau:
50g đường Gluco, 1g Permasol, 1g VitaminC hòa với 1 lít nước cho gà uống để
tăng sức đề kháng, nếu sức đề kháng kém khả năng chống chịu bệnh tật kém, sau 2
giờ thu máng uống, rửa sạch
Sau 2 – 3 giờ đổ thức ăn cho gà con chú ý nên chọn loại cám được chế biến với
khả năng tiêu hóa thức ăn của gà con lúc này, không nên đổ thức ăn dày quá bởi
vì gà con vừa ăn vừa bới.
7 ngày tuổi nhỏ chủng đậu và nhỏ Lasota cho gà.
14 ngày tuổi chộn kháng sinh Neomycin 1g/1kg thức ăn.
21 ngày tuổi hết sức chú ý các yếu tố như: Nhiệt độ, môi trường, thức ăn ảnh
hưởng đến sự phát triển của đàn gà, chất lượng đàn gà, mọi vận dụng như máng ăn,
máng uống phải giữ gìn vệ sinh, rửa sạch khi cho thức ăn mới, lượng thức ăn vừa
đủ, tránh để thức ăn lâu ôi thiu kém chất lượng.
24 ngày tuổi nhỏ Lasota lần 2 để đàn gà phát triển mạnh.
Chú ý: 1 ngày cho ăn từ 3 – 4 lần.
Thức ăn đảo đều.
Độ dày thức ăn vào máng 0,5 – 1 cm.



×