Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Kinh nghiệm dạy tự nhiên xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.99 KB, 47 trang )

Kinh nghiệm dạy TNXH lớp 3 theo mô hình VNEN
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
A- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I. Cơ sở lí luận:
Đất nước ta đang trên đà phát triển và đổi mới từng ngày trên mọi
lĩnh vực: Kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật... Để hội nhập với xu thế
phát triển của thời đại, Đảng ta đã vạch ra phương hướng chiến lược :
Giáo dục& đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tếxã hội (Văn kiện hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam khoá VIII tháng 12 năm 1998). Thực hiện chủ trương
đúng đắn đó, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã và đang phát triển đổi mới đồng
bộ giáo dục và đào tạo trong đó có đổi mới chương trình dạy học các
cấp nói chung, chương trình tiểu học nói riêng.
Dự án VNEN là dự án có nội dung về sư phạm nhằm xây dựng và
nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với
mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. Trường tiểu học
được chọn để triển khai mô hình “Trường học mới”. Đây là mô hình khá
mới mẻ, thay đổi hoàn toàn phương pháp giảng dạy truyền thống “Cô
giảng trò nghe” mà vẫn giữ nguyên được nội dung của sách giáo khoa
và chuẩn kiến thức do Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định.
Việc áp dụng mô hình VNEN vào trường Tiểu học hiện nay sẽ
đạt hiệu quả cao hơn và mô hình này đang được các cấp, các ngành rất
quan tâm. Mô hình trường học mới VNEN không những thay đổi
phương pháp dạy mà thay đổi cả phương pháp học: học sinh tự học, tự
quản lí, tự đánh giá. Mô hình VNEN là mô hình dạy học lấy hoạt động
học của học sinh làm trung tâm. Giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Mô hình này
còn có sự tham gia tích cực của cộng đồng trong quá trình giáo dục.
Giáo viên tham gia dạy mô hình này đã thực sự thay đổi tư duy về dạy
học, phát huy sáng tạo trong dạy học, vận dụng các hình thức dạy linh
hoạt trong các tiết học, áp dụng các mô hình mới như dạy học theo góc,


theo dự án nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học
sinh. Nhưng khai phá mảnh đất ấy thế nào để mọi hạt nhân sáng tạo có
thể nảy mầm, thành cây bén rễ tốt tươi trên đó thì cần có con người, với


mong muốn là làm sao cho trẻ có được môi trường học tập và phát triển
nhân cách tốt nhất. Để hiện thực hóa mong muốn đó, rất cần nỗ lực cả
trong tư duy và hành động của mọi người.
II. Cơ sở thực tiễn:
Chương trình tiểu học mới nhằm kế thừa và phát triển khắc phục
những tồn tại của chương trình cũ, chương trình mới đẩy mạnh đổi mới
nội dung và phương pháp dạy học kèm theo dự thảo nay là bộ thay
sách giáo khoa mới được ra đời trong đó có môn Tự nhiên và Xã hội.
Môn tự nhiên và xã hội có một vị trí rất quan trọng, nó là một môn học
gần gũi với các em học sinh. Tự nhiên xã hội là một môn học mà nội
dung kiến thức trong toàn bộ chương trình được phát triển theo nguyên
tắc từ gần đến xa dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân
đến gia đình, trường học; từ cuộc sống xung quanh đến thiên nhiên
rộng lớn; từ những cây cối con vật thường gặp đến Mặt Trời, Trái Đất và
Mặt Trăng.
Nội dung chương trình Tự nhiên và xã hội 3 được lựa chọn rất thiết
thực, gần gũi với học sinh, giúp các em dễ dàng thích ứng với cuộc
sống xung quanh. Kiến thức trong mỗi chủ đề đều được tích hợp nội
dung giáo dục sức khỏe một cách nhuần nhuyễn; đi từ sức khỏe cá
nhân trong chủ đề Con người và sức khỏe đến sức khỏe cộng đồng
trong chủ đề Xã hội và sức khỏe môi trường trong chủ đề Tự nhiên.
Với quan điểm “Lấy học sinh làm trung tâm”, “Trò chủ động - Thầy
chủ đạo”; Đặc biệt là dạy theo chương trình mô hình trường học mới đã
đáp ứng được quan điểm trên.
Trong vòng một đến hai năm trở lại đây, việc dạy thí điểm mô hình

VNEN tại nhiều địa phương trong cả nước, mang lại hiệu quả tích cực,
nhiều địa phương đã tự nguyện xin áp dụng mô hình này.
- Về giáo viên:
Đến nay, gần một năm huyện nhà triển khai mô hình VNEN vào giảng
dạy nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất xung quanh vấn đề
nội dung và phương pháp dạy môn Tự nhiên và xã hội 3, bởi học sinh
mới làm quen với hình thức học tập theo mô hình VNEN, nên còn lúng
túng, nhút nhát, chưa tự tin, chưa biết cách học và chưa tương tác được
nhiều với các bạn nên hình thức tổ chức hiệu quả còn chậm, chưa áp
dụng được triệt để phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của mô


hình trường học mới. Vấn đề đặt ra là: Tìm ra phương pháp dạy hợp lý
để học sinh hiểu và phát huy hiệu quả tích cực, nâng cao kết quả học
tập; tạo sự tự tin trong giao tiếp, đặc biệt là thay đổi cách dạy, cách học
truyền thống cho cả giáo viên và học sinh phù hợp với xu thế phát triển
của giáo dục hiện đại, đó là một việc cần thiết đối với người giáo viên.
- Về học sinh:
Ngay từ học kỳ I của năm học 2013-2014, đa số các trường chưa
có sự chuẩn bị chu đáo khi tổ chức triển khai mô hình VNEN, nên đã có
những ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của giáo viên, phụ huynh và đặc
biệt là học sinh. Nhiều em chưa có năng lực để thực hiện nhiệm vụ
trong học tập, trong cuộc sống cũng như năng lực tự học của học sinh
khi học theo mô hình mới này. Vì vậy, hiệu quả học tập của học sinh
theo mô hình VNEN không cao.
* Kết luận chung:
Xuất phát từ hoàn cảnh khách quan và chủ quan nói trên, trong
quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi cho rằng tiết Tự nhiên và xã
hội được dạy theo mô hình mới là tiết dạy còn mới về phương pháp, rất
cần người giáo viên đầu tư thời gian, sức lực, trí tuệ để tiết dạy có hiệu

quả. Khi thực hiện mô hình này vào dạy và học môn Tự nhiên xã hội 3,
đối với giáo viên và học sinh khối lớp 2 + 3 của chúng tôi cũng còn rất
nhiều điều băn khoăn, trăn trở. Vì vậy việc nghiên cứu nhằm nâng cao
hiệu quả dạy và học môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình mới hiện
đang là một vấn đề cấp bách.
Chính vì lý do trên mà tôi đã quyết tâm tìm tòi, học hỏi và viết ra
những kinh nghiệm của mình với mong muốn được đóng góp thêm một
vài biện pháp giúp nâng cao hiệu quả dạy học. Điều đó được thể hiện
qua đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy học môn Tự nhiên xã hội lớp 3 theo
mô hình VNEN”.
B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Từ những cơ sở nói trên, khi tôi đứng lớp dạy các em học sinh
(khối lớp 3) đã ấp ủ đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy học môn Tự nhiên
và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN” ngay từ đầu năm học. Cho đến nay
tôi viết nên bằng lời những ấp ủ đó. Tôi cũng chỉ mong là những nghiên
cứu này nhằm nâng cao chuyên môn của người giáo viên và là một món
quà của các thầy cô giáo dành cho học sinh thân yêu.
C. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:


Đề tài nhằm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến việc tổ chức dạy
môn Tự nhiên xã hội và cách học tập của học sinh theo mô hình mới.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học theo mô hình mới với môn Tự nhiên
và xã hội lớp 3 để tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp.
- Tìm hiểu nguyên nhân khiến giáo viên và học sinh gặp nhiều khó
khăn trong quá trình dạy và học.
- Giúp học sinh nhận thấy vai trò của việc tự học, tự khám phá tri
thức nhằm nâng cao động cơ học tập để các em tự giác rèn luyện, có
như vậy mới đạt hiệu quả cao.

- Đề xuất một số biện pháp có hiệu quả giảng dạy ở môn Tự nhiên và
xã hội lớp 3.
- Vận dụng vào giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
môn Tự nhiên và xã hội lớp 3.
Đề tài này biểu hiện kết quả tự học, tự rèn luyện nâng cao tay nghề
của bản thân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng
nghiệp để tôi được đổi mới, nâng cao hiệu quả dạy học.
D. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu.
- Nội dung dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình vnen.
- Phương pháp dạy và học theo mô hình mới với môn Tự nhiên và xã
hội lớp 3.
2. Phạm vi nghiên cứu.
Do khuôn khổ của đề tài (Một số kinh nghiệm dạy học môn Tự
nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN) nên tôi nghiên cứu nội dung
và phương pháp dạy học môn Tự nhiên và xã hội (sách thử nghiệm) ở
lớp 3. Từ đó đề xuất một số biện pháp để dạy học Tự nhiên và xã hội
lớp 3 theo mô hình mới hiệu quả hơn.
Hai lớp 3 trong khối của trường Tiểu học Nhật Quang.
E. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:


Để giải quyết các nhiệm vụ vừa nêu ở trên, tôi đã sử dụng đồng
bộ các phương pháp:
1.

Phương pháp nghiên cứu lý luận.

- Tham khảo tài liệu, sách báo có liên quan đến việc
dạy học môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình VNEN của học sinh lớp 3.

- Tham khảo phương pháp, nội dung, hình thức dạy học môn Tự
nhiên và xã hội (sách thử nghiệm) lớp 3 theo mô hình VNEN.
2. Phương pháp quan sát và đàm thoại.
- Quan sát cách tự tổ chức, tự điều hành các hoạt động học tập
của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội.
- Trực tiếp phỏng vấn, trò chuyện, tham gia các hoạt động ngoài
giờ lên lớp để tìm hiểu những khó khăn, nguyện vọng của học sinh trong
quá trình học tập, từ đó đưa ra biện pháp giải quyết phù hợp.
- Tìm hiểu nhận thức của học sinh về vai trò môn Tự nhiên và xã
hội theo mô hình VNEN.
3. Phương pháp điều tra:
Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu:
- Kết quả học tập môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình VNEN của
học sinh.
- Những khó khăn, nguyện vọng khi dạy và học môn Tự nhiên và xã
hội lớp 3 theo mô hình VNEN.
- Đánh giá của học sinh về phương pháp học tập mới.
- Những quy định đặt ra cho học sinh và mức độ đạt được của học
sinh khi thực hiện các quy định đó.
4. Phương pháp luyện tập – Thực hành:
Trong mỗi tiết học, sau khi học sinh tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức
của bài mới, tôi cho học sinh tham gia vào hoạt động ứng dụng. Điều
này giúp các em học tập tích cực, chủ động, tự tin đồng thời mở rộng,
nâng cao kĩ năng cho những học sinh khá, giỏi.
5.

Phương pháp thử nghiệm.


- Quan sát qua dự giờ, thăm lớp của các bạn đồng nghiệp.

- Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh gặp nhiều khó khăn trong
quá trình học tập, từ đó không chỉ tìm cách sửa chữa mà quan trọng
hơn là đề xuất những biện pháp giúp thầy và trò trong quá trình dạy –
học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN đạt hiệu quả cao
hơn.
- Thực nghiệm trên học sinh để kiểm tra tính khả thi của vấn đề
và biện pháp đề ra để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Tự nhiên và xã
hội cho học sinh lớp 3 theo mô hình VNEN.
6.

Phương pháp thống kê.

Sau khi dạy học tôi tiến hành khảo sát, thống kê chất lượng để đối
chứng.
* Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp.
* Kế hoạch và thời gian nghiên cứu:
Từ ngày 15 tháng 9 năm 2013 đến tháng 3 năm 2014.
PHẦN II
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN
CỨU.
I. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu:
1. Vị trí và tầm quan trọng của môn học:
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
được tất cả các trường trong cả nước quan tâm. Các phương pháp dạy
học mới dựa trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp
dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu
quả của giáo dục đào tạo.
Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục
Tiểu học thì: phương pháp giáo dục Tiểu học phải phát huy tính tích

cực, tự giác, chủ động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ


năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú cho học sinh.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho biết: “VNEN đảm
bảo cho học sinh được rèn luyện một cách toàn diện, không chỉ học kiến
thức mà cả kỹ năng sống, năng lực tự quản bản thân, tự quản tập thể
của mình”.
Trong mô hình VNEN, điểm nổi bật của mô hình chủ yếu ở cách tổ
chức lớp học, quản lý lớp học là do hội đồng tự quản học sinh và các
nhóm trưởng trong lớp thực hiện. Đây là biện pháp giúp học sinh tự học,
tự quản, tự làm chủ quá trình học tập. Giáo viên gần như thoát ly khỏi
bảng đen, phấn trắng, chủ động tổ chức các hoạt động cho học sinh
theo nhóm.
Để chuyển tải được nội dung của từng tiết, từng bài học đến với
mỗi học sinh cũng là việc giúp học sinh tiếp cận tốt những nội dung môn
Tự nhiên và xã hội dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân
đến gia đình, trường học; từ cuộc sống xung quanh đến thiên nhiên
rộng lớn. Tạo cơ hội cho tất cả cả các đối tượng học sinh (giỏi, khá,
trung bình, yếu) trong lớp đều tích cực tham gia vào việc xây dựng bài.
Những quan điểm trên cho thấy việc dạy Tự nhiên và xã hội theo mô
hình mới là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong các nhà trường tiểu
học.
Những hình ảnh trong sách giáo khoa đóng vai trò kép, vừa làm
nhiệm vụ cung cấp thông tin, vừa làm nhiệm vụ cung cấp hoạt động học
tập trong đó bao gồm cả những kí hiệu chỉ dẫn các hoạt động học tập
cho học sinh và cách tổ chức dạy học cho giáo viên qua các lôgô. Lôgô
1 em bé ý chỉ hoạt động cá nhân; Lôgô 2 em bé ý chỉ hoạt động nhóm

đôi; Lôgô 3 em bé ý chỉ hoạt động nhóm lớn; Lôgô cô giáo và các em
nhỏ ý chỉ hoạt động chung cả lớp; Lôgô 1người lớn và 1em bé ý chỉ
hoạt động với cộng đồng.
2. Người giáo viên phải hiểu đổi mới phương pháp dạy học theo mô
hình VNEN là như thế nào?
Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy
học lấy học sinh làm trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các
hoạt động sư phạm trong nhà trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ
phù hợp với phương pháp của VNEN mà còn tạo ra môi trường sư
phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các thành viên trong trường và
với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và học


sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của các
em.
Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình
VNEN, đó là tổ chức dạy học thông qua trải nghiệm, gồm 5 bước như
sau:
1. Tạo hứng thú cho học sinh:
- Yêu cầu kích thích sự tò mò, chờ đợi, khơi dạy hứng thú cho học
sinh về chủ đề sẽ học, học sinh cảm thấy vấn đề giáo viên nêu gần gũi
quen thuộc.
- Cách làm: giáo viên đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, đặt một tình
huống hoặc tổ chức trò chơi...
2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm:
- Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có của học sinh để chuẩn
bị bài học mới.
- Tổ chức các hình thức trải nghiệm thú vị, gần gũi với học sinh, nếu
là bài toán có lời văn thì giả thiết phải đơn giản, dễ hiểu.
3. Phân tích khám phá – rút ra kiến thức mới.

- Dùng các câu hỏi gợi mở, phân tích, đánh giá giúp học sinh thực
hiện qua các hình thức thảo luận cặp đôi, nhóm 4- 6 em, cá nhân hay cả
lớp…
4. Thực hành - củng cố bài học:
- Giáo viên quan sát học sinh làm, phát hiện học sinh khó khăn ở
bước nào giúp đỡ nhấn mạnh lại kiến thức hoặc cách thực hiện ở bước
đó. Tiếp tục giao các bài với mức độ khó dần phù hợp với khả năng học
sinh.
5. Ứng dụng:
- Biết vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức của nội dung bài
học vào thực tế cuộc sống hằng ngày.
Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải tự
thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện
kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức.
Chẳng hạn: Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh.


Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy
hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học. Thì giáo viên phải nghiên cứu
thật kỹ tài liệu để lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu
hỏi, câu đố vui, kể chuyện, một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử
dụng các hình thức khác…..
Ví dụ: Bài 10: Hoạt động của chúng em ở trường ( tài liệu TN&XH lớp 3trang
60)
Trước khi vào tiết học, giáo viên tổ chức học sinh chơi trò chơi
“Kết bạn”. Các em sẽ biết lớp mình có 31 bạn, nếu “kết 6” thì lớp mình
sẽ thành lập được 5 nhóm còn dư 1 bạn (bạn bị dư sẽ bị phạt) …Thông
qua trò chơi, học sinh sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia
rất gần gũi với bản thân, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò,
khơi dậy hứng thú trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải

nghiệm kiến thức mới.
II. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng dạy và học môn Tự nhiên và Xã hội theo mô hình VNEN
của Trường Tiểu học Nhật Quang.
Qua quá trình giảng dạy ở trường tiểu học Nhật Quang, qua dự
giờ thăm lớp trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cùng với việc tìm hiểu
nghiên cứu sách giáo khoa, báo trí tôi thấy một số giờ dạy và học môn
Tự nhiên xã hội giáo viên và học sinh còn lúng túng và bất cập ở một số
điểm sau:
- Thời gian đầu, để thay đổi cách học và cách dạy truyền thống,
chúng tôi gặp không ít khó khăn, do giáo viên chưa có kinh nghiệm, học
sinh chưa quen với phương pháp học mới… Bên cạnh đó, trường chưa
có phòng chức năng phục vụ cho những hoạt động ngoài giờ trên lớp.
Việc thuyết phục phụ huynh cũng gặp nhiều khó khăn, vì họ còn hoài
nghi về hiệu quả của mô hình VNEN và chưa thật sự tin tưởng vào khả
năng tự học của học sinh”. Không riêng gì Trường Tiểu học Nhật Quang,
mà trong học kỳ I của năm học 2013-2014, đa số các trường chưa có sự
chuẩn bị chu đáo khi tổ chức triển khai mô hình VNEN, nên đã có những
ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của giáo viên, phụ huynh và đặc biệt là
học sinh. Kinh phí triển khai chậm, việc ứng dụng công nghệ thông tin,
làm đồ dùng dạy học phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế. Vì vậy, hiệu
quả của mô hình VNEN không cao. Nhưng vượt qua những khó khăn
ban đầu, mô hình VNEN ngày càng khẳng định được ưu điểm. Từ đó,
giúp học sinh hứng thú trong học tập, phụ huynh tin tưởng vào dạy học
bằng mô hình VNEN. Trong bài học có những hoạt động ứng dụng yêu


cầu có sự giúp đỡ của người thân, nên phụ huynh có thể kiểm tra được
kết quả học tập của học sinh.
- Thầy và trò chưa thật sự hiểu: điểm nổi bật của mô hình này là

đổi mới về các hoạt động sư phạm, một trong những hoạt động đó là đổi
mới về cách thức tổ chức lớp học. Theo mô hình của trường học mới,
quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “ban” trong lớp, do
học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm. “Hội đồng
tự quản học sinh” là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền
làm chủ quá trình học tập, giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền
và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh
đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động.
- Điều đặc biệt hơn cả ở mô hình này đó là ngay ở trong lớp học đã
hình thành những hoạt động gần gũi với học sinh như: Góc thiên nhiên,
Góc chia sẻ, Điều em muốn nói… Thông qua những góc hoạt động này,
giáo viên có thể dễ dàng nắm bắt được tâm lý của các em để có sự can
thiệp, giúp đỡ kịp thời.


- Trong quá trình dạy và học, từ việc việc trang trí lớp học để chúng
trở thành nơi có môi trường thân thiện nhất đối với trẻ, vừa đảm bảo
yếu tố thẩm mỹ nhưng phải hướng tới mục đích phục vụ các nhu cầu
học tập và hoạt động mang tính xã hội của mỗi học sinh. Ngoài ra việc
sắp xếp bàn ghế học sinh theo nhóm từ 4 đến 6 học sinh cũng tạo ra
những thay đổi về tâm thế học tập và quan hệ tương tác giữa các học
sinh. Do đó mục đích quan trong của người giáo viên là phải rèn luyện
mỗi học sinh là một thầy, cô giáo cho chính bản thân mình...
- Xuyên suốt quá trình giảng dạy, giáo viên cần hiểu: Khi học xong
môn học này học sinh sẽ có một kiến thức cơ bản về con người và sức
khoẻ, những hiện tượng cơ đơn giản trong tự nhiên và xã hội bước đầu


biết tự chăm sóc bản thân và cộng đồng, có ý thức giữ gìn vệ sinh, yêu
thiên nhiên, gia đình dòng họ. Học tốt môn tự nhiên và xã hội sẽ giúp

các em học tốt các môn học khác. Như vậy, muốn học sinh học tốt môn
Tự nhiên và Xã hội thì trước tiên giáo viên phải dạy tốt, người giáo viên
ngoài kiến thức tự nhiên và xã hội phải luôn tìm hiểu, nghiên cứu cập
nhật chương trình mới để trang bị cho mình vốn kiến thức dạy học mới
nhằm đạt được mục tiêu chương trình mới đề ra.
- Ở lớp học VNEN, ngoài giờ học môn Tự nhiên và xã hội, giáo viên
phải thường xuyên bồi dưỡng năng lực quản lý cho các em trong hội
đồng tự quản bằng cách: dặn dò các em về nhà xem trước các bài tập
của tiết học hôm sau. Nếu không hiểu có thể hỏi bố mẹ hoặc trước khi
học trực tiếp hỏi giáo viên, giáo viên hướng dẫn trước cho các em hiểu.
Khi các em hiểu các em mới điều hành nhóm tốt và tự tin hơn. Bên cạnh
đó giáo viên nhắc nhỏ hội đồng tự quản tăng cường kiểm tra việc làm
bài ứng dụng ở nhà vào đầu tiết học.
- Trong các hoạt động học tập đặc biệt là hoạt động thảo luận theo
nhóm lớn, nhóm “đôi bạn cùng học”, nhiều nhóm chưa mạnh dạn thay
đổi nhóm trưởng. Ngoài ra, những học sinh đã hoàn thành công việc rồi
có thể cùng cô giúp những bạn chưa hoàn thành trong nhóm học tập.
Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên tăng cường bồi dưỡng năng lực
quản lý cho các em nhóm trưởng.
- Tuy nhiên, trong mỗi khối lớp 2 và 3 của trường tôi chỉ có hai lớp
mà một lớp được áp dụng mô hình VNEN, còn lớp còn lại thì vẫn còn
dạy theo phương pháp cũ. Vì vậy cả giáo viên và học sinh chưa có sự
đồng nhất về cách dạy và học. Hơn nữa, về nhận thức của học sinh
cũng có sự chênh lệch.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy và học Tự nhiên và
xã hội 3 theo mô hình VNEN:
2.

1. Về
phía

nhà
trường:
- Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo và triển khai đầy đủ, kịp thời
các văn bản của Bộ, Sở, Phòng về đổi mới phương pháp dạy học, quản
lý chặt chẽ, chỉ đạo chuyên môn sát sao.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều
kiện động viên khuyến khích giáo viên trong công tác chuyên môn.
- Nhà trường làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
2.2. Về phía giáo viên:


Thuận lợi :
- Có đầy đủ sách giáo khoa.
- Trong sách đã thể hiện rõ:
+ Các hình thức dạy học qua các lôgô cụ thể.
+ Kênh hình và kênh chữ đẹp và rõ ràng.
+ Mỗi bài học được xác định mục tiêu cụ thể.
- Thời gian dạy không nhất thiết phải đúng như qui định mà giáo viên
có thể linh động tùy theo tình hình lớp và bài học.
- Giáo viên được học tập chuyên sâu dạy theo mô hình VNEN,
được tham gia dự các chuyên đề VNEN của cụm trường.
b. Khó khăn:
Năm học 2013-2014 là năm đầu tiên áp dụng mô hình VNEN vào
giảng dạy môn Tự nhiên xã hội ở một số trường trong huyện. Qua năm
đầu tiên triển khai dạy học theo mô hình kiểu mới này, bản thân tôi nói
riêng và các bạn đồng nghiệp của tôi nói chung thường gặp phải những
hạn chế như:
- Việc khó khăn nhất khi triển khai mô hình là nhận thức của giáo
viên đang từ thói quen truyền thụ kiến thức một chiều chuyển sang tổ
chức các hoạt động lấy học sinh làm trung tâm.

- Một số giáo viên ban đầu còn lúng túng trong việc thay đổi phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học. Công tác đánh giá, xếp loại, nhận
xét từng học sinh cho từng bài học mất nhiều thời gian, đối tượng học
sinh trong lớp thường không đồng đều, do đó trong việc hoạt động
nhóm của học sinh khi đánh giá của nhóm bạn còn nhiều hạn chế cần
giáo viên hỗ trợ nhiều.
- Phòng học thiết kế theo tiêu chuẩn cũ, chật hẹp chưa đáp ứng được
yêu cầu của phòng học kiểu mới nên khó khăn trong việc sắp xếp hoạt
động nhóm và trang trí góc học tập môn tự nhiên và xã hội như thế nào
cho phong phú và thu hút được học sinh.
- Công tác phối kết hợp với nhà trường trong việc xây dựng các góc học
tập còn khó khăn, chủ yếu vẫn là thầy, cô giáo và nhà trường phải tự
làm.


- Ở địa bàn nông thôn, phụ huynh học sinh ít có điều kiện giúp học sinh
thực hiện hoạt động ứng dụng ( bố mẹ đi làm ăn xa, ở với ông bà già )
nên hiệu quả bài dạy chưa cao.
- Bên cạnh đó, tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho môn học này còn thiếu;
giáo viên chưa chú trọng chuẩn bị tốt tranh ảnh, đồ dùng cho một số tiết
dạy khiến tiết học kém hấp dẫn, không gây được sự hứng thú cho học
sinh.
- Hiện tại chưa có sách hướng dẫn nên giáo viên cũng khó khăn
trong việc xác định một số hình ảnh, hoặc một số đáp án đúng.
Ví dụ: Bài “Lá cây có đặc điểm gì?”
Ở bài tập 1: Chúng em tìm hiểu về lá cây.
Quan sát các lá cây trong hình 1, giáo viên khó xác định đó là lá gì
đối với lá thứ 3 trong hình 1 trang 20.
- Do đặc thù dạy theo mô hình trường học mới “dạy theo nhóm”,
khi phân chia nhóm giáo viên phải chia đều các đối tượng học sinh

chậm tiếp thu chậm nhớ vào đều các nhóm. Vì thế trong một tiết dạy
giáo viên phải đi lại thường xuyên và giảng giải nhiều cho từng cá nhân
học sinh nên rất vất vả trong cả tiết dạy.
- Số học sinh có đủ năng lực để làm nhóm trưởng, làm nhóm phó
trong hội đồng tự quản của một lớp học thường không có nhiều.
2. 3. Về phía học sinh:
a. Thuận lợi :
- Học sinh có đủ sách giáo khoa, hình ảnh trong sách rất đẹp, hấp
dẫn, học sinh thích học hỏi, tìm tòi, thích tìm hiểu về thế giới tự nhiên, xã
hội, thế giới con người xung quanh, các em thường đặt ra các câu hỏi :
tại sao lại thế? Đó là ai? như thế nào? Vì sao? Từ những ham muốn,
thích thú học Tự nhiên vã xã hội các em say mê, tìm tòi để trả lời cho
được các câu hỏi đó.
- Học sinh có sách đầy đủ. Trong sách hướng dẫn cụ thể dễ hiểu.
Ở nhà bố mẹ có thể nhìn sách hướng dẫn thêm cho các em được.
b. Khó khăn:
- Thời gian đầu kì I, học sinh mới làm quen với hình thức học tập
theo mô hình VNEN, nên còn lúng túng, nhút nhát, chưa tự tin, chưa
biết cách học và chưa tương tác được nhiều với các bạn nên hình thức


tổ chức hiệu quả còn chậm, chưa áp dụng được triệt để phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học của mô hình trường học mới.
- Một số học sinh trong nhóm còn chưa thật sự tập trung vào việc
thảo luận nhóm, vẫn còn ngồi chơi hoặc làm việc riêng.
- Đối với học sinh được phân công làm nhóm trưởng nhiều em
năng lực còn hạn chế, điều hành các hoạt động nhóm chưa năng động,
sáng tạo còn thụ động nên nhiều lúc không biết bạn mình làm như vậy,
trả lời như vậy là đúng hay sai.
- Đại đa số phụ huynh học sinh chưa nắm được phương pháp

hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, do vậy phần hoạt động ứng dụng về
nhà của học sinh chưa được phụ huynh hỗ trợ, vì thế nhiều em đến lớp
vẫn chưa hoàn thành hoạt động ứng dụng. Việc giúp đỡ trong phần ứng
dụng vẫn phải phụ thuộc vào giáo viên hướng dẫn.
*Tóm lại:
Thực hiện mô hình VNEN vào dạy và học môn Tự nhiên xã hội 3
đảm bảo cho học sinh được rèn luyện một cách toàn diện, không chỉ
học kiến thức mà cả kỹ năng sống, năng lực tự quản bản thân, tự quản
tập thể của mình.
Đối với học sinh, mô hình trường học mới đặt ra yêu cầu thành
lập hội đồng tự quản của các lớp học, bước đầu các em đã biết làm
quen nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, VNEN chú trọng phát triển năng lực
tự học cho học sinh, các em sẽ có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ
ý kiến riêng khi làm việc theo nhóm và có nhiều cơ hội phát huy năng
lực hợp tác khi học nhóm; được tranh luận, tự đánh giá bản thân và
đánh giá các bạn. Học sinh học theo nhóm nên không có hiện tượng
không tập trung như khi nghe giáo viên giảng bài, việc học sinh tự điều
khiển hoạt động trong nhóm: học sinh có thói quen làm việc theo 10
bước học tập: biết đọc mục tiêu, đọc yêu cầu và tự trả lời câu hỏi, tự
làm bài tập và tự đánh giá tiến độ học của mình trên phiếu, từ đó đã
giúp học sinh có ý thức thể chủ động hơn, giảm bớt sự phụ thuộc vào
thầy, cô giáo. Nhiều em học sinh đã thể hiện được khả năng của mình
khi điều khiển và có thể hướng dẫn các bạn khác học, thay cho việc tổ
chức hướng dẫn của giáo viên trước đây. Học sinh tự tin hơn, linh hoạt,
sáng tạo hơn trong học tập tư duy độc lập và phát hiện kiến thức mới.
B - THỰC TRẠNG DẠY HỌC:


I. Thực trạng dạy và học môn Tự nhiên và Xã hội theo mô hình VNEN
của giáo viên và học sinh khối lớp 3 Trường Tiểu học Nhật Quang.

Trong thực tế giảng dạy theo mô hình trường học mới ở tiết Tự
nhiên và xã hội lớp 3 nói riêng; dạy Tự nhiên và xã hội lớp 2, 3 nói
chung còn gặp nhiều vấn đề khó khăn. Chính vì vậy mà bản thân tôi khi
được phân công giảng dạy Tự nhiên và xã hội 3 trong thời gian này và
tôi đã tìm hiểu thực trạng dạy và học môn Tự nhiên và xã hội ở trường
Tiểu học Nhật Quang hiện nay, tôi đã trực tiếp ra đề khảo sát chất lượng
học sinh khi học về chủ đề mà các em đã học.
* Đối tượng điều tra:
Là những học sinh của hai lớp 3A và 3B năm học 2013 - 2014
của trường Tiểu học Nhật Quang.
* Nội dung kiểm tra: Sau khi học sinh học xong nội dung các bài học ở
phần xã hội, tôi tiến hành khảo sát chất lượng với nội dung liên quan
đến chủ đề đã học.
Đề bài:
Câu 1: Trả lời câu hỏi:
a) Trường chúng ta thường tổ chức những hoạt động nào?
b) Em đã làm những công việc cụ thể nào khi đó?
c) Hoạt động nào làm em nhớ nhất?
d) Chúng em cần làm gì khi tham gia để các hoạt động đạt kết quả tốt?
Câu 2: Kể tên một số hoạt động nông nghiệp ở tỉnh của em?
Câu 3: Đánh dấu X vào ô trống trước ý thể hiện đặc điểm của đô thị và
đánh dấu * vào ô trống trước ý thể hiện đặc điểm của làng quê:

Người

dân

chủ

yếu


sống

bằng

nghề

nông.


Siêu

Người

thị.

dân

Nhà

thường

một

việc

tầng

Nhiều


ô

Nhà

làm







quan.

chủ

tô,

tập



yếu.

xe

trung

máy.


san

sát.

Đồng

ruộng.

Xung

Đường

quanh

phố



nhà

nhiều

thường

người






xe

cộ

vườn.

đi

lại.

*Kết quả khảo sát chất lượng như sau:

Lớp

Sĩ số

Hoàn thành tôt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

SL

%

SL


%

%

3A

31

14

45,2

17

54,8

0

0

3B

29

10

34,5

19


65,5

0

0


Qua kết quả kiểm tra tôi nhận thấy chất lượng hai lớp tương đối
đồng đều vì khi làm về các câu hỏi trong đề bài cô cho có liên quan đến
những bài đã học, học sinh lớp VNEN gặp phải những vấn đề sau:
Các em học sinh có năng lực, hoàn cảnh khác nhau nên có thể được
chấp nhận tiến độ hoàn thành bài học khác nhau. học sinh có hoàn
cảnh, năng lực khác nhau có thể hoàn thành bài học trước hoặc sau.
Cũng bởi học sinh ở vùng nông thôn lại ít giao tiếp, trong khi giáo viên
cũng ít có thời gian kèm từng học sinh yếu. Học sinh hoàn thành trước
thì có thể chuyển sang các bài học mới hoặc giáo viên đặt các yêu cầu
cao hơn để các em phát huy năng lực cá nhân.
Khả năng tự học của học sinh chưa cao vì điều kiện để các em
chưa tự tìm hiểu kiến thức trong sách và qua bài học, tài liệu.
Tuy nhiên, vẫn còn một số đối tượng học sinh vì chưa lĩnh hội
được kiến thức của bài học một cách đầy đủ, nên kết quả bài làm còn
hạn chế.
Bên cạnh đó, cũng nhìn thấy sự tiến bộ rõ rệt đối với học sinh được học
theo mô hình mới đó là các em mạnh dạn và tự tin hơn trong học tập,
học sinh học tập hăng hái, tích cực, kiến thức của bài học sẽ được học
sinh nhớ lâu và khắc sâu hơn.
Nhìn chung học sinh học tập chưa tích cực, hứng thú chủ động trong
việc lĩnh hội tri thức, chưa hứng thú với môn Tự nhiên và Xã hội cũng
bởi vì nhiều nguyên nhân.
II. Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trên là:

+ Từ phía giáo viên:
Trong những năm vừa qua, hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh
hưởng dạy theo chương trình cũ. Từ khi triển khai mô hình dạy học mới
cho đến nay, một trường vẫn còn rất mơ hồ về mô hình VNEN nên hầu
hết chỉ mới lên một tiết mẫu để học tập, rút kinh nghiệm. Thầy cô ít
nhiều cũng lo lắng khi chuyển sang dạy phương pháp này, một phần vì
chưa có kinh nghiệm, phần khác vì sách vở, đồ dùng chưa có nên giáo
viên phải tự làm đồ dùng học tập cho học sinh.
Trong thực tế một buổi dạy, khi chuyển sang tiết học Tự nhiên và xã
hội, sự thay đổi lớn của mô hình này là sắp xếp bàn ghế theo nhóm (4-6


em/nhóm). Nội dung làm việc của từng nhóm không giống nhau, giáo
viên không hướng dẫn chung mà làm việc với từng học sinh hoặc từng
nhóm một. Việc đánh giá học sinh cũng đổi mới theo tiêu chuẩn VNEN,
đó là bằng nhận xét, đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc
động viên, khuyến khích học sinh.
Mặc dù phương pháp dạy học mới có nhiều ưu điểm, nhưng để
triển khai đại trà vẫn còn nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến việc số
lượng học sinh trung bình trong một lớp học hiện nay quá đông và trình
độ học sinh không đồng đều. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về điều kiện
nhân lực, cơ sở vật chất giữa các vùng miền khác nhau cũng là rào cản
cho việc áp dụng phổ biến phương pháp mới.
Việc dạy học theo hướng dẫn trong sách quá rập khuôn. Giáo viên
rập khuôn từ việc ghi bảng, trình bày đến tổ chức các hoạt động trong
lớp, học sinh thì có thao tác giống nhau. Như thế là không ổn. Việc thực
hiện như thế rất hình thức, khuôn mẫu. Phương pháp này tuy tránh quá
tải nhưng không phát huy khả năng sáng tạo của giáo viên. Giáo viên và
học sinh chỉ chăm chăm dựa vào sách mà thiếu tính chủ động sáng
tạo”.

+ Từ phía học sinh:
- Phụ huynh học sinh hầu hết đời sống kinh tế còn khó khăn nên chưa
có điều kiện để giúp đỡ con em về phương pháp học tập. Việc chuẩn bị
bài của học sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không nắm được yêu
cầu, nội dung bài học nên dẫn đến việc các em chưa yêu thích tiết học.
- Học sinh lớp 2 còn nhỏ tuổi nên chưa thực sự tự tin khi nói trước lớp.
Khi được phân làm nhóm trưởng nhiều em còn lúng túng. Đặc biệt, các
em trong hội đồng tự quản chưa mạnh dạn khi đứng lên thay giáo viên
điều hành tiết học.
+ Từ phía nhà trường:
Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường còn nhiều hạn
chế, tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho tiết học còn ít, chưa đảm bảo được
yêu cầu giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
* Tiểu kết:
Như chúng ta đã biết, dạy học theo mô hình trường học mới
(VNEN): Mọi hoạt động học tập của học sinh là tự học sinh phải làm việc
theo nhóm lớn hoặc nhóm đôi hoặc hoạt động cá nhân để chiếm lĩnh
các kiến thức trong mỗi tiết học. Giáo viên chỉ đến từng nhóm để hướng


dẫn cho các em khi các em cần “ cứu trợ ”và theo dõi hướng dẫn cho
từng cá nhân. Nếu chỉ dạy như vậy bản thân giáo viên sẽ không thể biết
được hết các học sinh trong lớp đã lĩnh hội được kiến thức như thế nào
và cũng không biết hết các em có xác định đúng kiến thức hay không.
Đây chính là điều giáo viên băn khoăn nhất khi dạy môn Tự nhiên và xã
hội theo mô hình VNEN. Mỗi người luôn tự đặt ra câu hỏi: Như vậy ta có
nên dạy y như tinh thần của Bộ ban hành hay nên thay đổi. Đây cũng là
vấn đề gây tranh cãi giữa các trường cùng dạy VNEN trong huyện.

C- ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC:

- Từ những thực trạng trên, để nâng cao hiệu quả khi dạy môn Tự
nhiên và xã hội 3 theo mô hình VNEN tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh
nghiệm mà trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra nhằm khắc phục
những tồn tại như sau:
Một là: Nắm chắc cấu trúc của tài liệu môn Tự nhiên và xã hội:
a, Cấu trúc của chương trình:
Như chúng ta đã biết, sách không chỉ nêu lên các kiến thức có sẵn
mà trở thành tài liệu định hướng và hỗ trợ cho việc tự học, tự phát hiện,
tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo năng lực của người học.
Tài liệu hướng dẫn học Tự nhiên và xã hội là một thành phần cơ
bản của chương trình VNEN. Tài liệu có những đặc điểm chính sau:
- Bảo đảm chuẩn kiến thức-kĩ năng của chương trình môn Tự nhiên
và xã hội hiện hành. Không thay đổi về cấu trúc, nội dung của mỗi bài
học song có thay đổi trong việc sắp xếp nội dung của mỗi bài học theo
hướng tích hợp cao hơn nên mỗi bài thường được dạy từ 2 hoặc 3 tiết
còn bài ôn tập có thời lượng 1 tiết.
- Tài liệu có tính tương tác cao:
* Đối với giáo viên: Tài liệu tạo thuận lợi trong quá trình tổ chức hoạt
động dạy học trên lớp vì tài liệu bao gồm cả phương pháp và hình thức
tổ
chức
dạy
học.
* Đối với học sinh: Tài liệu có tính tương tác cao thuận lợi cho việc học
cá nhân và nhóm. Tài liệu bao gồm một chuỗi các hoạt động được thiết
kế chú ý đến quy trình để đưa ra các chỉ dẫn từng bước nhằm giúp học
sinh tự học phù hợp với đặc điểm và trình độ của từng đối tượng.


*Đối với phụ huynh học sinh: Tài liệu có chú trọng đến các hoạt động

học tập được thực hiện ở nhà của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho
cha mẹ học sinh và cộng đồng tham gia vào quá trình học tập của các
em thông qua việc hướng dẫn, giúp đỡ học sinh học tập, bổ sung các
kiến thức, kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu học tập của học sinh.
- Tài liệu có “tính mở” giáo viên được chủ động thay đổi, nâng cao
trình độ học sinh trên chuẩn phù hợp với điều kiện vùng miền.
b, Cấu trúc của một bài Tự nhiên và xã hội (Sách thử nghiệm)như sau:
-

Tên

Mục
- Các hoạt động học tập:

tiêu

bài

bài.
học.

A. Hoạt động cơ bản: Học sinh trải nghiệm, tìm tòi, khám phá, phát hiện
kiến thức mới.
B.

Hoạt
-

động
Thực


- Đóng vai, trò chơi.

hành
Làm

thực
thí
bài

hành:
nghiệm.
tập.

C. Hoạt động ứng dụng: Học sinh được chia sẻ với xã hội, với cộng
đồng.
Hai là: Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên:
Tuy giáo viên không soạn bài nhưng phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu
để đổi mới phương pháp dạy học và tại sao chúng ta lại phải nghiên cứu
kỹ
tài
liệu

vì:
+ Bản chất của tài liệu là một bản thiết kế “3 trong 1” dùng cho học
sinh và dùng cho cả giáo viên trong trường Tiểu học thực hiện theo mô
hình trường học mới VNEN. Với học sinh, đây là tài liệu hướng dẫn các
em tự học để đạt mục tiêu của từng bài, tiến tới đạt mục tiêu của năm
học. Với giáo viên, đây là một bản thiết kế để giáo viên dựa vào đó biết
cách tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh, biết cách kiểm tra,

biết cách đánh giá kết quả học tập của học sinh, biết tự kiểm soát việc
dạy học của chính mình.
+ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài để lường trước những tình
huống phát sinh nhằm giúp các em tìm tòi, khám phá bài học.


+ Thông qua tài liệu, căn cứ vào trình độ học sinh của lớp mình, căn
cứ vào điều kiện đồ dùng dạy học, lớp học và độ khó của từng yêu cầu
bài tập. Giáo viên chủ động thay thế, bổ sung hoặc điều chỉnh số lượng
bài tập, thay đổi câu hỏi sao cho ngắn gọn, đơn giản hơn. Muốn làm
được điều đó, giáo viên phải nắm được trình độ cụ thể của học sinh,
hiểu được các yêu cầu, chỉ dẫn hoạt động của tài liệu để kịp thời có
những thay đổi điều chỉnh phù hợp.
+ Bản thân giáo viên phải tăng cường học hỏi kinh nghiệm ở đồng
nghiệp. Khi xem bài chuẩn bị dạy, thấy có những kiến thức hoặc tranh
ảnh nào chưa chắc chắn đúng cần trao đổi ngay với đồng nghiệp, gặp
điều gì còn lúng túng thì mạnh dạn trao đổi với tổ chuyên môn.
Ví dụ: Bài 20: “Lá cây có đặc điểm gì?” (Tài liệu Tự nhiên và xã hội Lớp
3) tiết 1 – trang 20
Ở bài tập 1: Chúng em tìm hiểu về lá cây.
Khi quan sát các lá cây, với lá thứ 3 trong hình 1 trang 20, giáo viên
khó xác định đó là lá gì, thì trao đổi ngay với đồng nghiệp hoặc tổ
chuyên môn.

Để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì giáo viên phải
phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo
dục của nhà trường như: trang trí lớp theo tinh thần VNEN, trong mỗi
hoạt động dạy đều có phần dành cho học sinh học tại cộng đồng, đó là
những hoạt động học sinh học hỏi ông bà, người thân trong gia đình,
những người sống cùng thôn xóm để vận dụng những kiến thức, kỹ

năng đã học ở trường vào cuộc sống của chính các em.
Ngoài ra, bản thân mỗi giáo viên phải có quyển sổ dự kiến kế
hoạch dạy học ghi lại những thành công hoặc những khó khăn vướng
mắc khi thực hiện các bước dạy học trên lớp.


- GV tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp dạy
học. Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động
chuyên đề của tổ của trường để học tập về đổi mới phương pháp dạy
học theo tinh thần VNEN.
- Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn,
vướng mắc như: biện pháp để học sinh học nhóm tốt, biện pháp để giúp
em nhóm trưởng có thể điều khiển tốt các hoạt động học tập của nhóm,
hoặc biện pháp về đổi mới phương pháp dạy học của một hoạt động
nào đó ở một bài dạy cụ thể…..trong tổ sẽ cùng nhau thảo luận để tìm
ra cách giải quyết tốt nhất.
- Thường xuyên tự học hỏi qua sách báo, thông tin đại chúng, qua
đồng nghiệp thông qua các tiết học tốt, chuyên đề, thao giảng, tự tìm
kiếm những thông tin trên mạng nhằm nâng cao tay nghề, tìm ra
phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh.
- Khi dạy học giáo viên phải biết vận dụng các hình thức dạy học
một cách linh hoạt.
* Sau mỗi lần hoạt động nhóm lớn, giáo viên cho học sinh hoạt động tập
thể, trình bày trên bảng để cả lớp nghe, nhận xét và rút ra kiến thức
đúng để khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Bài 24: “Một số động vật sống trên cạn” (Tài liệu Tự nhiên và xã
hội Lớp 3 - trang 44).
+ Câu 1- trang 44 và 45: Quan sát và trả lời
Mục tiêu: Giúp học sinh quan sát, chỉ trên hình và nêu được 3 bộ phận
chính của con chim.

- Như vậy sau khi tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm VNEN.
Giáo viên mời đại diện học sinh lên bảng trình bày: Chỉ trên hình, nêu 3
bộ phận chính của con chim. Sau đó giáo viên mời lớp nhận xét, nêu lại
ý đúng đó và giáo viên kết luận đó chính là những đặc điểm cơ bản của
loài chim.
+ Câu 2 và câu 3 cũng thực hiện tương tự.
Tuy nhiên ở câu hỏi số 3 có một ý hỏi “ Đặc điểm bên ngoài của
chim và thú có gì giống nhau?”. Đây là dạng câu hỏi nâng cao nhằm
mục đích phát huy trí lực và tư duy sáng tạo của học sinh. Giáo viên nên
tạo không khí thoải mái cho học sinh học, bằng cách có thể : giáo viên
đố học sinh.


Ví dụ: Đố em biết bên ngoài của chim và thú có gì giống nhau ?
+ Học sinh : nhiều em trả lời mỗi em một ý.
- Em thấy chim và thú giống nhau đều là động vật sống trên cạn.
- Em thấy cơ thể chim và thú đều có ba bộ phận chính…….
- Em thấy bên ngoài cơ thể chim và thú đều có lông bao phủ.
- Em còn biết chim và thú đều có xương sống.
+ Giáo viên: Vậy đố em biết chim và thú có những đặc điểm gì khác
nhau ?
+ Cho học sinh nêu trước: (nêu được hay không cũng tốt, sau đó giáo
viên đưa hình ảnh ra để học sinh so sánh nêu những điểm khác nhau.)
- Chim có lông vũ, thú có lông mao bao phủ trên cơ thể.
- Chim đẻ trứng, ấp trứng để nở thành con; Thú đẻ con và cho con bú.
- Cơ quan di chuyển của chim là hai chân và cánh còn cơ quan di
chuyển của thú là chân. (Kiến thức này có thể đặt câu hỏi: chim và thú di
chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng cách nào? Từ đó cho học sinh
hiểu cụm từ “cơ quan di chuyển”…)
Ba là: Một số giải pháp giúp học sinh làm tốt vai trò của Hội đồng tự

quản của lớp.
Trong quá trình thành lập hội đồng tự quản, giáo viên phải tạo cho
học sinh có cơ hội được tự tranh cử vào các vị trí chủ tịch và phó chủ
tịch, đây là một trong những bước phát hiện học sinh mạnh dạn, dám
nói trước đám đông. Sau khi việc đăng kí hoàn tất, các ứng cử viên nên
trình bày các đề xuất có liên quan đến những hoạt động mà các em có
thể sẽ thực hiện khi trúng cử. Những hứa hẹn này phải khả thi trong
vòng 3 tháng thử nghiệm. Việc lựa chọn chủ tịch và phó chủ tịch là vô
cùng quan trọng, đây chính là những người giúp giáo viên rất nhiều
trong việc quản tất cả các hoạt động của lớp cũng như trong tiết học.
Sau đó, hội đồng tự quản tự mời các thành viên tham gia vào các ban
do hội đồng tự quản điều hành. Nhưng muốn làm được điều này, đầu
năm học sau khi nhận danh sách lớp, giáo viên trao đổi ngay với giáo
viên chủ nhiệm năm ngoái để tìm hiểu kỹ tình hình học tập của lớp mình
như: số lượng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu, học sinh nhanh nhẹn,
mạnh dạn, nói to…Sau khi tìm hiểu xong, giáo viên phải đặt ra những


tiêu chí để lớp lựa chọn các bạn trong ban hội đồng tự quản thật chính
xác như:
+ Phải
nhanh
+ Mạnh
+ Có
+ Có năng lực học tập tốt.

nhẹn,
dạn,
năng


năng
tự

nổ.
tin.
khiếu.

- Thành lập Hội đồng tự quản học sinh: Giáo viên chủ nhiệm lớp
tập cho các thành viên biết công, biết việc của mình, biết cách điều hành
và lãnh đạo công việc.

(Ảnh chụp lớp 3A Trường Tiểu học Nhật Quang trong giờ Tự nhiên và

hội)
- Bồi dưỡng kĩ năng điều hành hoạt động nhóm cho các nhóm
trưởng:
Vì nhóm trưởng là linh hồn của hoạt động là người hỗ trợ đầu tiên trong
nhóm bởi vậy nên chọn bạn học tốt hơn các bạn khác trong nhóm.
- Giáo viên tranh thủ thời gian vào giờ ra chơi hay cuối mỗi buổi học
tập hợp các nhóm trưởng lại họp triển khai công việc. Lúc này giáo viên
đóng vai là một nhóm trưởng thực thụ còn các nhóm trưởng làm các
bạn học sinh trong nhóm để hướng dẫn học sinh kĩ năng điều hành các
hoạt động, kĩ năng đặt câu hỏi, trả lời, nhận xét tuyên dương.
- Xây dựng góc học tập môn Tự nhiên và xã hội: Để góc học Tự
nhiên và xã hội trở nên phong phú, gây được niềm say mê đối với học
sinh thì bản thân mỗi giáo viên phải là người hướng dẫn và cùng với
học sinh trực tiếp tham gia vào việc tổ chức sắp xếp góc học Tự nhiên
và xã hội cũng như các góc môn học khác.



×