Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp với sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.79 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TÙNG LÂM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VỚI
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04

HÀ NỘI - 2017


Luận án được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học : 1. GS.TS. Mạch Quang Thắng
2. TS. Lý Việt Quang

Phản biện 1:

………………………………………. .
…………………………………………

Phản biện 2:

………………………………………..
………………………………………..



Phản biện 3:

………………………………………..
………………………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi……giờ……ngày……tháng…….năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Nhìn lại tiến trình lịch sử hơn 85 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt
Nam quang vinh do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đất nước ta đã có những bước
nhảy vọt vĩ đại chưa từng có trong lịch sử. Trên nền tảng giá trị văn hoá tư tưởng truyền
thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp biến, tổng hoà và phát triển biện
chứng tinh hoa văn hoá tư tưởng phương Đông và phương Tây, đặc biệt lấy học thuyết
cách mạng của Mác - Lênin làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận, xây dựng được
một hệ thống quan điểm toàn diện và sáng tạo về lý luận giải phóng và phát triển làm kim
chỉ nam cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, đáp ứng nhu cầu
phát triển của đất nước theo xu thế tiến bộ của thời đại mới.
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Trên cơ sở đó, Người đã từng bước giải
quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như: Xác định mục tiêu,

con đường, lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế; những
vấn đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận,... Nội dung cốt lõi trong đường lối cách
mạng của Hồ Chí Minh chính là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; giải
phóng dân tộc không tách rời với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Con đường
giải phóng dân tộc đó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại - thời đại đấu tranh cho sự
thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội - một đường lối thấm
đượm tính dân tộc và nhân văn, đáp ứng được yêu cầu và khát vọng của toàn thể dân tộc
Việt Nam.
Thành tựu của 30 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, Đảng cộng sản Việt Nam với
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh đã luôn chú trọng nhận diện và xử lý vấn đề đặt ra từ mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt Nam. Mặt thành công cần phải khẳng định. Tuy nhiên,
do tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan, nên vấn
đề dân tộc, vấn đề giai cấp và mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng
diễn biến phức tạp. Nếu tuyệt đối hoá vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp cũng đều dẫn tới
sự chệch hướng cách mạng, hoặc sẽ gặp khó khăn trong quá trình phát triển.
Tình hình thế giới ngày nay có nhiều biến động phức tạp, thế giới đang hình thành
nên những liên minh quốc tế và khu vực; tốc độ toàn cầu hóa diễn ra càng nhanh thì xung
đột dân tộc, sắc tộc lại càng trở nên quyết liệt, khiến cho loài người phải bỏ ra nhiều công
sức, tiền bạc, thậm chí cả máu để giải quyết. Đảng ta khẳng định: “Cuộc đấu tranh giai cấp
và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp”. Tình hình trong nước, nhiều vấn đề cũng được đặt ra
ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong quá trình
đổi mới như: Giữa yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và thực trạng yếu kém của nền kinh tế
nước ta; Giữa mở rộng giao lưu quốc tế với vấn đề giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc và
định hướng xã hội chủ nghĩa; Giữa yêu cầu tăng cường củng cố khối đoàn kết dân tộc
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và những yếu tố phân hóa các lực lượng xã hội


2

trong điều kiện kinh tế thị trường và âm mưu các thế lực thù địch tạo ra; Những vấn đề đặt
ra đối với Đảng cầm quyền... Như vậy, cả thực tiễn thế giới và trong nước, cho thấy vấn
đề dân tộc và giai cấp vẫn đang diễn ra hết sức gay gắt và có xu hướng ngày càng tăng,
đòi hỏi phải giải quyết một cách thấu đáo vấn đề trên mới tạo động lực phát triển cho quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.Mặc dù thực tiễn hiện nay đã có nhiều đổi thay so với
trước, song có thể khẳng định rằng việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo
tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, đóng vai trò định hướng cho tư duy và hoạt
động chính trị, cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam
trong việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách bảo vệ và phát triển đất nước.
Nhiệm vụ này đang đặt ra rất cấp bách. Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có tính thời sự cấp bách. Với những lý do
nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm luận
án tiến sĩ của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp.
- Làm rõ sự cần thiết, yêu cầu, tiêu chí cụ thể của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, phân tích việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam, đánh giá những thành công và những vấn đề nảy sinh trong việc giải
quyết vấn đề trên.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp chủ yếu để giải quyết về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp nảy sinh trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
trên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình cách
mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, trong luận án tác giả chỉ đề cập đến những khía cạnh sau đây: Thứ nhất,
vấn đề dân tộc mà tác giả nghiên cứu thuộc phạm trù dân tộc - quốc gia, không thuộc
phạm trù dân tộc - tộc người. Thứ hai, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, được đặt trong điều kiện đất nước là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, phân
tích việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp chủ yếu được đề
cập dưới góc độ quan hệ lợi ích.


3
- Về thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; quá trình vận dụng của
Đảng ta trong quá trình cách mạng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 trở đi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc, giai cấp và
mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận dụng các
phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và chuyên ngành sau: Lịch sử - logic;
phân tích, tổng hợp; thống kê, định lượng, định tính, so sánh, văn bản học, phỏng vấn,
tọa đàm...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Làm rõ hơn nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; chỉ rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc hoạch
định đường lối, chính sách ở nước ta về việc giải quyết vấn đề này trong các thời kỳ
cách mạng.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, phân tích quan hệ dân tộc và giai cấp trong tiến trình cách mạng Việt
Nam, đặc biệt là trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, đánh giá những thành công và
những vấn đề nảy sinh trong việc giải quyết vấn đề trên.
- Đưa ra cơ sở lý luận, phương pháp luận và đề xuất những giải pháp chủ yếu để
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần làm rõ việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học và làm cơ sở để đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho Đảng và Nhà nước ta hoạch định
đường lối, chính sách giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở đó góp phần đi tới thống nhất về nhận thức và hoạt động trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đạt được của Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên
cứu khoa học, các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm ngành khoa học
chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 4 chương, 11 tiết.



4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI
QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP

Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đề
cập đến nhiều lĩnh vực, một trong những vấn đề mà các tác giả đề cập dù trực tiếp hoặc
gián tiếp đều khẳng định, chính việc nhận thức và giải quyết một cách sáng tạo vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, là cơ sở để Hồ Chí Minh xác lập được đường lối đúng đắn, đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong số các công trình có đề
cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa về vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Các công trình đã phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giai cấp và dân tộc, đồng thời luận giải quan hệ giai cấp và dân tộc
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, bước đầu đề xuất một số phương hướng cơ bản nhằm
giải quyết tốt hơn mối quan hệ nói trên trong quá trình phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, một số công trình đã nghiên cứu đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó các công trình vẫn có sự thống nhất về chỉ đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới giải quyết thấu đáo vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp; trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, có những
chuyển biến sâu sắc trong quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại, vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp lại nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn bao giờ hết, nhất là khi chủ nghĩa xã hội
hiện thực đang có những thành tựu to lớn và triển vọng phát triển ngày càng mạnh mẽ, các
thế lực thù địch đang tìm mọi cách phủ nhận, chống lại phong trào đấu tranh đòi quyền tự

quyết dân tộc, đòi công bằng, tiến bộ xã hội trong xã hội mới. Do vậy, giải quyết vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp vẫn rất cần được tiếp tục nghiên cứu trên cả bình diện lý luận và
thực tiễn ở phạm vi rộng lớn hơn.
1.3. NHỮNG KHÍA CẠNH ĐÃ ĐƯỢC ĐỀ CẬP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MÀ LUẬN
ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

* Những thành tựu cơ bản của các công trình được khái quát trên những nội
dung sau
Các công trình khoa học trên đây dưới các góc độ các chuyên ngành đã phân tích,
đề cập nhiều khía cạnh khác nhau liên quan trực tiếp tới những nội dung mà đề tài mà tác
giả nghiên cứu như:
Thứ nhất, các công trình đã nghiên cứu cơ bản về khái niệm dân tộc, giai cấp; thực
chất của vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp; mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


5
Nhìn chung các công trình đã thống nhất các nội hàm các khái niệm vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thấy được mối quan hệ, sự thống nhất
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công
trình đều đi đến thống nhất chính việc nhận thức và giải quyết một cách sáng tạo vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, là cơ sở để Hồ Chí Minh xác lập được đường lối đúng đắn, đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ hai, các công trình cũng thống nhất ở chỗ là mối quan hệ biện chứng giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở mục tiêu xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hay nói một cách
khác giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Và khẳng định việc
giải quyết mối quan hệ này là một sáng tạo về mặt lý luận của Hồ Chí Minh trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng chỉ đề cập mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp

trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên các mặt tách biệt, chú trọng nhiều đến mối quan hệ đó
trong việc xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Những nội dung đã
được đề cập chưa mang tính hệ thống, chưa toàn diện, còn nhiều vấn đề phải tiếp tục
nghiên cứu.
Thứ ba, sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai
cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Một số công trình đã đề cập tới một số vấn đề liên quan tới sự vận dụng của Đảng ta
trong từng thời kỳ cách mạng để hoạch định đường lối chính sách, đưa cách mạng đến
thắng lợi. Từ đó đã đi đến thống nhất là giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp là một
vấn đề tất yếu trong tiến trình cách mạng, nếu không giải quyết thấu đáo mối quan hệ đó
cách mạng sẽ gặp khó khăn trong tiến trình cách mạng. Vì vậy, trong quá trình đổi mới ở
nước ta hiện nay cần phải nhận thức và giải quyết giải quyết mối quan hệ trên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, một số công trình đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau, hay những
biểu hiện cụ thể của quan hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, cung
cấp cho chúng ta những cách tiếp cận và cách lý giải về mối quan hệ ấy. Tuy vậy, các
công trình bài viết cũng chỉ đặt ra ở chừng mực nhất định, nhiều ý kiến đã thống nhất song
còn có ý kiến chưa thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Do vậy, vấn đề này cần được
tiếp tục nghiên cứu và làm rõ trong giai đoạn hiện nay.
* Những vấn đề cơ bản đặt ra trong luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ
Qua các tài liệu tìm được chúng tôi thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, ý nghĩa thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay dưới góc độ
của chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Tức là đề cập một cách có hệ thống đến cách thức
xử lý mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây chính là cái mới cả về hướng tiếp cận, cả về nội dung nghiên cứu của đề tài mà
nghiên cứu sinh lựa chọn đăng ký. Chính vì vậy, những vấn đề chưa được phân tích sâu
sắc trong các công trình nêu trên sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.
Luận án hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đề cập đến việc nhận thức và



6
cách thức xử lý mối quan hệ đó một cách có hệ thống như khẳng định tính tất yếu của việc
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đưa ra những nguyên tắc
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, và một số vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam được xuất phát từ việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Luận án cũng chỉ rõ việc giải quyết mối quan hệ này là sáng
tạo lớn về mặt lý luận của Hồ Chí Minh, là cơ sở để Đảng ta hoạch định đường lối cách
mạng Việt Nam.
Luận án phân tích, đánh giá thực trạng việc giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, đánh giá những thành công và những vấn đề nảy sinh
trong việc giải quyết vấn đề trên.
Trên cơ sở đó, luận án đề xuất quan điểm và những giải pháp chủ yếu để giải quyết
về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp nảy sinh trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiểu kết chương 1
Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây là cơ sở để xác định nhiệm vụ nghiên
cứu và là nguồn tư liệu chính để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ
cho việc hoàn thành luận án của mình.
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
2.1. THỰC CHẤT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP

2.1.1. Vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng và phát
triển dân tộc. Hồ Chí Minh đã đứng dưới góc độ dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức để

xem xét vấn đề dân tộc. Hay có thể nói cách khác vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh xem
xét là vấn đề dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa đang bị chủ
nghĩa đế quốc xâm lược. Người chỉ ra, thực chất của vấn đề dân tộc là độc lập tự do, là
vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc
lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành
lập một nhà nước dân tộc độc lập. Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, phát triển dân tộc ngày
càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đây là một trong những nội dung
cốt lõi về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.2. Vấn đề giai cấp
Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng giai
cấp (giai cấp công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác...) khỏi tình trạng áp bức
bóc lột, đem lại cơm ăn áo mặc, tự do hạnh phúc cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Việt Nam. Trong điều kiện dân tộc bị xâm lược vấn đề giai cấp luôn được Hồ Chí Minh


7
đặt trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống nhất chặt
chẽ với lợi ích dân tộc
Đồng thời, vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng chính là nhìn nhận
xem giai cấp nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp ứng được
khát vọng độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.Trong điều kiện quốc gia - dân tộc
Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, vấn đề là giành độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân thì vấn đề được đặt ra là giai cấp nào có thể đáp ứng được yêu cầu lịch sử
đó, hay có thể nói một cách khác là vấn đề giai cấp ở đây chính là giai cấp nào có thể giải
quyết được triệt để vấn đề dân tộc thuộc địa, giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, và giải phóng con người. Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ giải quyết triệt
để vấn đề đó khi đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Vì theo Người, chỉ có giai
cấp công nhân là người duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi
cuối cùng, bằng sự liên minh với giai cấp nông dân và trí thức coi đó là nền tảng của mặt

trận đoàn kết toàn dân.
2.1.3. Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Từ việc phân tích, tổng hợp các vấn đề trên, có thể hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một hệ thống các luận
điểm cơ bản mang tính nguyên tắc để xử lý mối quan hệ đó, nhằm đi đến sự thống nhất về
lợi ích, là cơ sở để huy động mọi nguồn lực của dân tộc, từng bước giải quyết thành công
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Với nội dung có tính tổng hợp và khái quát trên, có thể rút ra một số nội dung cơ
bản sau trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp:
Một là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp xét đến cùng
là để đi đến sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để
huy động mọi nguồn lực của dân tộc cho thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là yêu cầu
khách quan.
2.2. TÍNH TẤT YẾU VÀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

2.2.1. Tính tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp
Thứ nhất, xuất phát từ sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh.
Có thể nói, sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển của dân tộc
và thời đại, và nó được biểu hiện một cách thống nhất, biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, và chính đây là một trong những nhân tố quy định tính tất yếu việc giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam.Theo Hồ Chí
Minh, con đường cách mạng vô sản, là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc gắn liền
với giải phóng giai cấp và giải phóng con người; một cuộc cách mạng vừa phải giành độc



8
lập dân tộc, vừa phải giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột. Hay có thể khẳng
định luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết triệt để cả hai vấn đề dân tộc và giai
cấp theo Hồ Chí Minh, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vấn đề dân tộc
phải được giải quyết theo lập trường của giai cấp công nhân.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam đòi hỏi giải quyết vấn đề dân tộc
gắn với vấn đề giai cấp.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, việc giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một tất yếu khách quan. Hay nói cách
khác, theo quan điểm của Người chính yếu tố thực tiễn đã quy định tính tất yếu phải giải
quyết vấn đề dân tộc gắn với vấn đề giai cấp. Nói một cách khác tính tất yếu của việc giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là do chính hiện thực xã hội Việt
Nam quy định. Hồ Chí Minh đã nhận thức được vấn đề đó, chính vì vậy, Người đã lựa
chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản là
một tất yếu khách quan.
Thứ ba, giải quyết được vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để xác lập được
đúng đắn đường lối cho cách mạng Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề dân tộc bao giờ cũng được giải quyết theo lập trường của một
giai cấp nhất định. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân tố giai cấp là nhân tố
nội tại, cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu để giải quyết vấn đề dân tộc. Đương nhiên,
nhân tố giai cấp không quyết định một chiều, có nhận thức đúng đắn vấn đề giai cấp mới
có thể giải quyết vấn đề dân tộc, ngược lại có nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc mới hiểu
sâu sắc vấn đề giai cấp và từng bước giải quyết được vấn đề xã hội - giai cấp.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở rất quan trọng để xác định
đúng đắn đường lối cách mạng Việt Nam. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Người đã khéo giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó, trên cơ sở đó mà xây dựng được
đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam như: Việc xác định con đường, mục tiêu,

lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế; những vấn đề lý luận
về Đảng, Nhà nước, Mặt trận...Đây là vấn đề lý luận lớn trong thời đại cách mạng vô sản
gây tranh cãi nhiều trong Đảng ta và trên quốc tế những năm 30 của thế kỷ XX. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua đã chứng minh những quan điểm đó là hoàn
toàn đúng đắn và sáng tạo.
2.2.2. Nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp
Một là, giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải
đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Theo Hồ Chí Minh để giải quyết triệt để mối quan hệ dân tộc và giai cấp cần phải
đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, theo con đường cách mạng vô sản, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, đây là con đường duy nhất để
giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con người; một cuộc
cách mạng vừa phải giành độc lập dân tộc, vừa phải giải phóng nhân dân lao động khỏi áp
bức, bóc lột. Hay có thể khẳng định luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết triệt để
cả hai vấn đề dân tộc và giai cấp theo Hồ Chí Minh, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ


9
nghĩa xã hội, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải được giải quyết theo lập trường của
giai cấp công nhân.
Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là vấn đề
chiến lược gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
là vấn đề lâu dài gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều này được thể hiện
một cách rõ nét trong đường lối cách mạng của Đảng, cũng như trong toàn bộ tiến trình
cách mạng của nước ta. Hồ Chí Minh sau khi tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc hoạch định chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam. Đường lối đó chính là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội”; giải phóng dân tộc không tách rời với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Và như vậy, ta thấy việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp không phải nhất thời,
mà là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng trong thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản, việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp phải phù hợp và nằm trong xu thế của thời đại.
Chính vì vậy, sau khi lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, Người đã chỉ ra mối liên hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc; chỉ ra sự liên minh tất yếu giữa nhân dân, giai cấp
vô sản ở thuộc địa với nhân dân, giai cấp vô sản ở chính quốc vì mục đích giải phóng
thuộc địa, giải phóng loài người khỏi ách áp bức của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng Hồ Chí Minh không dừng lại ở đó, bằng phong cách tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn, Người cho rằng việc giải quyết mối quan hệ
dân tộc và giai cấp còn phải sáng tạo dựa trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam. Trên cơ sở
đó, theo Hồ Chí Minh, do điều kiện kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên phân hoá giai
cấp ở châu Á, nhất là ở Đông Dương chưa rõ rệt, ở đây cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
không giống ở châu Âu. Vì vậy, ở các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì
độc lập dân tộc, thì đấu tranh dân tộc vẫn là một động lực lớn của lịch sử. Người đặt vấn
đề phải khai thác triệt để yếu tố dân tộc, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đấu
tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Bốn là, giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải
đảm bảo thống nhất, hài hòa về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài giữa giai cấp công
nhân với các giai tầng trong nội bộ dân tộc.
Một trong những yếu tố độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
giai cấp là bên cạnh việc Người xem xét thái độ chính trị của giai cấp và các tầng lớp
trong xã hội, mà trong sự kết hợp đó, Hồ Chí Minh dựa trên sự phân tích lợi ích và các
quan hệ lợi ích của các giai tầng trong xã hội. Điều đó cho ta một phương pháp phân tích
giai cấp hết sức khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trên cơ sở những điểm tương
đồng về lợi ích, Hồ Chí Minh cho rằng, trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp

phải đảm bảo được cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài giữa các giai tầng trong xã hội;
và ngược lại chỉ có đảm bảo giải quyết một cách thấu đáo lợi ích trước mắt và lợi ích lâu


10
dài giữa giai cấp công nhân với các giai tầng khác mới giải quyết được hiệu quả mối quan
hệ dân tộc và giai cấp. Trên cơ sở nhận thức đúng được đặc điểm này, Hồ Chí Minh đã có
cách thức xử lý mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trên một bình diện mới, linh
hoạt hơn, mềm dẻo hơn, tránh được tư tưởng tả khuynh như đã từng xảy ra trong lịch sử
phong trào cộng sản thế giới.
Năm là, trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp cần
phải sáng tạo, linh hoạt và khéo léo trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm bảo huy
động được mọi nguồn lực cho thắng lợi của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp cần phải sáng
tạo, linh hoạt và khéo léo trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm bảo huy động được
mọi nguồn lực cho thắng lợi của cách mạng, bao gồm nguồn lực bên trong (nội lực) và
nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần... Đây là một
nguyên tắc quan trọng trong việc xác định nguồn lực và lực lượng cho cách mạng. Thực
tiễn cách mạng nước ta cho thấy, đã có lúc Đảng ta chưa nhận thức một cách đầy đủ vấn
đề trên nên đã mắc sai lầm trong việc tập hợp lực lượng, gây tổn thất cho cách mạng.
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chính Hồ Chí Minh và Đảng ta
cũng đã giải quyết thành công những vấn đề rất phức tạp về quan hệ dân tộc và quốc tế
trong những bối cảnh đất nước và thế giới cực kỳ phức tạp. Người đã giải quyết các vấn
đề ấy một cách đúng đắn, khôn khéo và thuỷ chung, là cơ sở để từng bước đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM XUẤT PHÁT
TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ
GIAI CẤP

2.3.1. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam

Khi lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô
sản, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong việc xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Hay có thể nói một cách khác mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, chính là biểu hiện giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân.
Trên cơ sở giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ dân tộc và giai
cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước giải quyết thành công những vấn đề chiến lược
và sách lược của cách mạng trong từng giai đoạn của cách mạng. Con đường giải phóng
dân tộc đó nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại - thời đại cách mạng vô sản.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đó, đồng
thời khẳng định sự lựa chọn con đường đó là sự lựa chọn của chính lịch sử, đã đáp ứng
được yêu cầu và khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam, một đường lối cho thấy sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp thấm đượm tính dân tộc và nhân văn.
2.3.2. Xác định lực lượng và động lực của cách mạng
2.3.2.1. Lực lượng cách mạng
Từ việc giải quyết thành công những vấn đề về đường lối chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công vấn đề về lực lượng


11
cách mạng. Việc xác định lực lượng cách mạng cũng là một sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, giai cấp, tôn giáo, gái trai, giàu nghèo…, trong
đó công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng. Quan điểm biện chứng này cũng là kết quả
của sự phân tích biện chứng cơ cấu xã hội Việt Nam trong chế độ thực dân, được nhìn
dưới góc độ lợi ích.
Thứ nhất, là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước.

Thứ hai, Hồ Chí Minh xác định công nhân - nông dân - trí thức là nền tảng, hạt
nhân của cách mạng. Liên minh công - nông - trí thức là cơ sở của khối đại đoàn kết dân
tộc, khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước.
Thứ ba, trong lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước với
liên minh công nhân - nông dân - trí thức là nền tảng, Hồ Chí Minh khẳng định giai cấp
công nhân là lực lượng lãnh đạo. Đây là chiều sâu nhất trong cách tiếp cận về lực lượng
cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.
2.3.2.2. Động lực của cách mạng
Xuất phát góc độ quan hệ lợi ích, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong việc xác định lực lượng cách mạng và
như vậy có thể thấy sự thống nhất về lợi ích cũng là động lực chủ yếu của cách mạng
Việt Nam.
Bên cạnh giải quyết thành công vấn đề quan hệ lợi ích, và coi đó cũng là một động
lực cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước là một
động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đây cũng là một sáng tạo rất lớn
của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, và chính Người đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Điều này, được thể hiện trên những vấn đề cơ
bản sau đây:
Trước hết, có thể thấy chủ nghĩa yêu nước mà Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa yêu
nước chân chính và nó có sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Mặt khác, chủ nghĩa yêu nước mà được Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa yêu nước
được bổ sung những giá trị mới của thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản. Và như vậy
có thể khẳng định là Hồ Chí Minh đã phát triển và nâng tầm chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam lên một một tầm cao mới.
Nói tóm lại, việc giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ này trong vấn đề xác định
lực lượng và động lực cách mạng đã thể hiện một trình độ lý luận vượt xa các nhà cách
mạng đương thời. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh là hoàn
toàn đúng đắn, sáng tạo. Những quan điểm đúng đắn và sáng tạo của Người, đã từng bước
được Đảng ta nhận thức một cách đầy đủ và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn

cách mạng Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, tháng 5 năm 1941, tư tưởng
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã được Đảng tiếp thu đầy đủ
và phát triển thêm. Thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945, đã chứng minh quan điểm của
Hồ Chí Minh là đúng đắn và sáng tạo.


12
2.3.3. Về vấn đề quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại
Từ một người yêu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường cách
mạng vô sản, cùng với việc khẳng định đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng hiểu sâu sắc rằng cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới, nên đoàn kết dân tộc phải mở rộng thành đoàn kết quốc tế,
sức mạnh dân tộc cần phải được kết hợp với sức mạnh thời đại, trên cơ sở kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân.
Thứ nhất, trong mối quan hệ với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh khẳng định tính
quyết định của yếu tố dân tộc đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, các yếu tố quốc tế đối với cách mạng Việt Nam có tầm quan trọng
đặc biệt.
Thứ ba, đặc điểm dân tộc - điều kiện để tiếp nhận các yếu tố quốc tế.
2.3.4. Những quan điểm về Đảng, Nhà nước, Mặt trận
2.3.4.1. Về Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh là người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi mới ra
đời đã mang bản chất của giai cấp công nhân, đồng thời cũng thống nhất biện chứng với
tính dân tộc và tính nhân loại. Nó được thể hiện ở mục tiêu lý tưởng của Đảng là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; ở sự thống nhất chặt chẽ giữa
lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; trong quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Chủ
nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Với việc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách
nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, giai cấp và dân tộc. Sự ra đời của Đảng là một
trong những sáng tạo rất lớn đối của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua kể từ khi có Đảng đã chứng minh rõ điều đó. Chính
việc giải quyết thành công mối quan hệ đó, mà Đảng ta đã quy tụ được sức mạnh được
khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - chìa
khoá thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.3.4.2. Về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Nhà nước do Hồ Chí Minh sáng lập là nhà nước dân chủ nhân dân với sự tham gia
của tất cả người dân Việt Nam yêu nước. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt
Nam, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là nhà nước của dân, do dân, vì dân có sự
thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc. Một nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập
thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu, một nhà nước công nông tồn tại dưới chế độ dân
chủ, có cơ sở pháp lý vững chắc, biểu thị được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, ý
chí làm chủ đất nước của nhân dân lao động. Đây cũng là một sáng tạo lớn của Hồ Chí
Minh, cũng xuất phát từ việc giải quyết thành công mối quan hệ dân tộc và giai cấp mà ta
luôn thấy sự thống nhất đó. Hơn 70 năm qua kể từ khi ra đời, Nhà nước dân chủ nhân dân
do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã thể hiện được vai trò to lớn của mình trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn
hiện nay.


13
2.3.4.3. Về Mặt trận dân tộc thống nhất
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, theo Hồ Chí
Minh, mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thu hút khối đoàn kết của toàn dân tộc. Nó
thu hút rộng rãi mọi lực lượng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước.
Mặt trận đó muốn có sức mạnh, thực sự là cơ sở của cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và liên minh công nông làm nền tảng. Ngược lại, Đảng Cộng sản
muốn cách mạng đến thắng lợi phải tổ chức được sức mạnh toàn dân thông qua tổ chức

Mặt trận.
Tóm lại, việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp của Hồ Chí Minh đã được biểu hiện rõ nét trong những vấn đề lý luận về Đảng Cộng
sản, Nhà nước, Mặt trận... Đây cũng là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, những thắng lợi của cách mạng Việt
Nam 85 năm qua đã chứng minh những quan điểm của Người là hoàn toàn đúng đắn và
sáng tạo. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những quan điểm đó của Người cần được
kế thừa, phát huy trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, góp phần đưa cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Tiểu kết chương 2
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là vấn đề hết sức
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh sớm có nhận thức đúng đắn về vấn đề
này so với quốc tế cộng sản và một số đồng chí lãnh đạo của Đảng ta lúc bấy giờ. Có thể
khẳng định, đây là một trong những sáng tạo lớn nhất của Hồ Chí Minh, cũng có thể nói là
“sáng tạo gốc” của Người, nhờ đó mà Đảng ta đã giải quyết thành công các vấn đề chiến
lược và sách lược trong đường lối của cách mạng Việt Nam, như: Việc xác định con
đường, mục tiêu, lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế;
những vấn đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận...là một trong những nhân tố đảm bảo
thành công của cách mạng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là một trong những đóng góp
xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chương 3
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ
GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (1986 - 2016)
3.1. BỐI CẢNH MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP Ở NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI

Thứ nhất, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở
nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp. Sau khi Liên bang Xôviết và hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào đã làm thay

đổi căn bản cán cân lực lượng và bản đồ chính trị thế giới. So sánh lực lượng giữa một bên
là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc với một bên là các lực lượng độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội đã thay đổi nhanh chóng theo hướng bất lợi cho cách mạng.


14
Thứ hai, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước
ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới có nhiều phức tạp, phong trào cách
mạng thế giới có những biến đổi to lớn.
Thứ ba, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt
Nam đang đứng trước khuynh hướng mới với những thời cơ và thách thức mới.
Độc lập dân tộc gắn với chủ quyền quốc gia đang là một xu thế của thế giới. Xuất
hiện chủ nghĩa dân tộc bá quyền, cực đoan, hẹp hòi trong đời sống quốc tế. Xu thế phát
triển đa cực của thế giới cùng những mâu thuẫn của quá trình toàn cầu hóa kết hợp sự
cuồng tín tôn giáo đã nảy sinh chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Hơn nữa, chủ nghĩa sô-vanh
nước lớn, bành trướng, bá quyền cũng thừa cơ trỗi dậy đe dọa sự ổn định của quốc tế và
khu vực.
Thứ tư, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước
ta đang diễn ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực chất đây là thời kỳ đấu
tranh giữa những lực lượng xã hội có lợi ích đối lập nhau, thời kỳ giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong sự phát triển của xã hội. Do vậy, ở
những lĩnh vực nhất định tính chất mâu thuẫn có thể rất gay gắt, nhất là trong lĩnh vực
kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và khuynh hướng tự
giác xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang giải quyết.
3.2. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP Ở NƯỚC TA GIAI
ĐOẠN 1986 - 2016

3.2.1. Thống nhất về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong mục tiêu phát triển

chung của đất nước
Đảng ta xác định mục tiêu phát triển chung của đất nước là: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là mục tiêu cơ bản và xuyên suốt trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện mục tiêu này, chính là biểu hiện cơ bản của việc
giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.
Việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên
lập trường của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam thể hiện tập trung ở đường
lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được biểu hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn cách mạng, sự kết hợp ấy có những
biểu hiện đặc thù với những nội dung xác định.
Như vậy, mục tiêu trên đã giải quyết được mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, vì đã thống nhất được lợi ích dân tộc và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội.
3.2.2. Thống nhất về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội
3.2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo
được lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, đảm bảo sự thống nhất giữa hai lợi ích ấy. Phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần tạo ra một hình thức liên
kết mới giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Do đó, phát triển kinh tế nhiều thành phần


15
đã góp phần nâng sự thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp lên một trình độ mới, tạo
nên sự thống nhất căn bản hơn, vững chắc hơn giữa các lợi ích này.
Thứ hai, thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong phát triển kinh tế còn thể
hiện ở quan điểm phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã
hội.Như phân tích ở trên, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp thống nhất trong mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đòi hỏi phải thực hiện trong sự
kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, phát triển kinh tế phải gắn liền

với tiến bộ và công bằng xã hội.
3.2.2.2. Trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị
Thứ nhất, tính thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thể hiện ở
một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hệ thống
chính trị mà chúng ta đang tiến hành xây dựng là một hệ thống chính trị thống nhất giữa
lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Đây là một nguyên tắc cơ bản xây dựng hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thể hiện trong
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Về quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đây là mối quan hệ chính trị - pháp
lý giữa các chủ thể có vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ khác nhau, song đều hướng tới
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân chủ, bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp được đảm bảo khi các tổ chức trong hệ
thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Trước hết, Xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, là nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với dân tộc. Hai là, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, phải gắn liền
việc nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước. Ba là, trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của nhà nước.
3.2.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong đường lối
xây dựng văn hóa mới mà chúng ta xây dựng, được biểu hiện trên từng đặc trưng cụ
thể sau đây.
Thứ nhất, theo quan điểm của Đảng ta, nền văn hóa tiên tiến gồm có những đặc
trưng: “Yêu nước, tiến bộ, có nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhân văn; tất cả vì
con người; tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện
trong các phương tiện chuyển tải nội dung”.
Thứ hai, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã hình thành

cho dân tộc ta những giá trị truyền thống tốt đẹp. Nhờ sức mạnh những giá trị tinh thần đó,
dân tộc Việt Nam đã chiến thắng nhiều thách thức khắc nghiệt của thiên tai địch họa để
tồn tại và phát triển. Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là
thắng lợi của văn hóa truyền thống văn hóa Việt Nam được Đảng ta, nhân dân ta nâng lên
tầm cao mới trong thời đại mới. Bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa
dân tộc.


16
Mặt khác, chúng ta cũng tránh việc quá đề cao giá trị dân tộc dẫn đến chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi, cực đoan, chủ nghĩa bài ngoại… cản trở sự tiếp thu những yếu tố tiến bộ tích
cực mà nhân loại đạt được trong thời đại ngày nay.
Tóm lại, từ những phân tích trên, chúng ta thấy sự kết hợp một cách hài hòa, toàn
diện giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội…Sự kết hợp đó được thống nhất ở mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
3.2.3. Mở rộng quan hệ quốc tế trong việc huy động các nguồn lực phát triển
đất nước
Việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp không chỉ biểu hiện trong quan
hệ nội bộ quốc gia dân tộc được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà còn trong quan hệ quốc tế nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng đến thắng
lợi cuối cùng.
Thứ nhất, phát huy những điểm tương đồng, giải quyết thấu đáo những bất đồng,
mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nguồn lực cơ bản của sự nghiệp đổi mới.
Với chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở những điểm
tương đồng mà Đảng ta đã nêu ra, cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ dân tộc
và giai cấp, được thể hiện rất rõ trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Trước hết, để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì một trong

những vấn đề cốt lõi là phải tìm ra cơ sở thực hiện đại đoàn kết. Cơ sở để xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay là điểm tương đồng giữa các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội. Đảng ta cho rằng, cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra
mẫu số chung để quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc.
Mặt khác, cùng với việc phát huy tối đa các điểm tương đồng cần phải xác định và
giải quyết đúng đắn các bất đồng, các mâu thuẫn xã hội.
Trong bất kỳ một giai đoạn phát triển nào của một xã hội nhất định, các mâu thuẫn
xã hội luôn luôn nảy sinh và được giải quyết. Giải quyết các mâu thuẫn tạo động lực cho
sự phát triển xã hội. Ở nước ta bên cạnh sự thống nhất ở những lợi ích cơ bản, giữa các
giai cấp, tầng lớp xã hội vẫn có những lợi ích cục bộ mâu thuẫn với nhau, nên bên cạnh sự
thống nhất vẫn có sự đấu tranh lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thứ hai, mở rộng, xử lý một cách khéo léo linh hoạt các quan hệ đối ngoại nhằm
huy động tối đa các nguồn lực quốc tế đối với sự phát triển của đất nước.
Trước hết, để phát huy các nguồn lực bên ngoài đối với sự phát triển đất nước cần
phải mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới. Mặt khác, cùng với việc
mở rộng quan hệ quốc tế, là cần phải xử lý linh hoạt và khéo léo trong các quan hệ đối
ngoại nhằm đạt hiệu quả tối đa nhất và được những mục tiêu nhất định.
Như vậy, có thể nói, việc Đảng ta nhận thức và vận dụng linh hoạt tư tưởng giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc với quốc tế không chỉ tạo động lực to lớn
cho sự phát triển đất nước trong điều kiện mới mà còn khẳng định rõ bản lĩnh và trí tuệ
của Đảng ta với tư cách là chủ thể thực hiện sự kết hợp ấy.


17
3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA

3.3.1. Giữa yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ theo
định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và thực trạng yếu kém của

nền kinh tế nước ta
Tham gia vào trong quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam có thể tranh thủ được nguồn
vốn, mở rộng thị trường, khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao, kinh nghiệm tổ chức quản lý
từ các nước phát triển... Đây là một yếu tố quan trọng và cần thiết để tiến hành sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước khó khăn, thách thức không nhỏ. Khó khăn lớn
nhất trong hội nhập là nền kinh tế đang ở trình độ phát triển thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật
và cơ cấu của nền kinh tế lạc hậu. Trong cơ cấu nền kinh tế, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn, vẫn mang đặc trưng của một nền sản xuất nhỏ, thuần nông, năng suất lao động
thấp... cơ cấu lao động bất hợp lý, lao động chuyên môn kỹ thuật ít, tình trạng thừa thầy
thiếu thợ trong nền kinh tế có xu hướng, ngày càng trầm trọng, chưa đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những khó khăn và hạn chế yếu kém của nền kinh tế nói trên, trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế, làm cho nguy cơ thách thức đối với nước ta càng lớn. Vì vậy, hội nhập
kinh tế quốc tế nhưng phải giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ
vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu chính trị cao nhất đối với
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và là nguyên tắc bất di bất dịch cần giữ vững trong mọi
hoàn cảnh. Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng là điều kiện để các thế lực thù địch trong và
ngoài nước có thêm cơ hội thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Trong bối cảnh quốc tế và thực trạng nền kinh tế như vậy, việc
chúng ta có thể đi tắt đón đầu, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, là một thách thức trên con đường phát triển.
3.3.2. Giữa mở rộng giao lưu quốc tế với vấn đề giữ vững bản sắc văn hoá dân
tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa
Hội nhập quốc tế, đó là thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, khoa học,
quốc phòng, an ninh... Tuy nhiên, mở cửa hội nhập quốc tế trong bối cảnh hiện nay cũng
tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ của quốc gia...
Do vậy, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là
một nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình hội nhập. Trong quá trình giao lưu với bên
ngoài, chúng ta cần tránh hai xu hướng - sùng ngoại và bài ngoại. Hướng đi đúng của

chúng ta là một mặt, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, mặt khác, tiếp thu có
chọn lọc những giá trị văn hoá của các nước nhằm làm phong phú thêm kho tàng văn hoá
nước nhà.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, cho thấy nghịch lý của sự phát triển do sự tác
động của kinh tế thị trường và mở cửa là ở chỗ, tuy kinh tế tăng trưởng, nhưng văn hoá
tinh thần, các giá trị đạo đức của dân tộc lại có phần suy yếu đi. Đây là tình huống có vấn


18
đề trong phát triển. Nếu không nhận thức một cách đầy đủ và giải quyết thấu đáo hiện
trạng xu hướng này trong xã hội thông qua các kênh quản lý, giáo dục, xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần thì xã hội không thể đạt đến sự phát triển bền vững.
Để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn
cầu hóa một cách thành công, phải giữ gìn bản sắc văn hoá, dân tộc. Điều đó có nghĩa là
phải giữ gìn định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường. Chệch hướng
xã hội chủ nghĩa không chỉ là nguy cơ đối với chủ nghĩa xã hội mà cũng là nguy cơ đối
với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc.
3.3.3. Giữa yêu cầu tăng cường củng cố khối đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân và những yếu tố phân hóa các lực lượng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường và âm mưu các thế lực thù địch tạo ra
Thứ nhất, sự phân hóa giàu nghèo và biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường.
Có thể nói, trong quá trình thực hiện đổi mới, chúng ta thực hiện phát triển kinh tế
thị trường cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, xã hội Việt Nam cũng đã
diễn ra một quá trình biến đổi toàn diện vô cùng lớn lao cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả về
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn của công
cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều
vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu giai
cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa thành
thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất

bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hoá giàu
nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt.
Một thực tế ở nước ta hiện nay, sự hình thành ngày càng nhiều các nhóm lợi ích
trong xã hội của những tầng lớp mới xuất hiện đã làm cho sự phân cực giàu nghèo, phân
hóa giai cấp ngày càng lớn đã tạo cơ sở để cho những mâu thuẫn lợi ích trong xã hội rất dễ
xảy ra và khó giải quyết hài hòa.
Thứ hai, do âm mưu chống phá chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc các thế lực
thù địch.
Trong những năm qua các thế lực thù địch, lợi dụng những mặt trái của kinh tế thị
trường và những thiếu sót của chúng ta, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm làm cho Việt Nam từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, chúng ra sức phá hoại ta về mặt chính trị, tư tưởng.
Lợi dụng chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng, các thế lực thù địch,
gieo giắc hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn.
Chúng tập trung đả kích sự lãnh đạo của Đảng, làm suy yếu Đảng, chia rẽ Đảng với nhân
dân, làm cho quần chúng xa rời Đảng, đồng thời chúng tìm mọi cách chia rẽ khối đoàn kết
toàn dân…
Hơn lúc nào hết, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải
nâng cao cảnh giác, ra sức xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết chặt chẽ
các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo, dân tộc, trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam


19
nhằm phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, làm thất
bại mọi âm mưu phá hoại, chia rẽ khối đoàn kết của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
3.3.4. Những vấn đề đặt ra đối với Đảng cầm quyền
Sự gắn bó tính dân tộc với tính giai cấp, đã làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam từ
khi ra đời cho đến nay là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân
tộc Việt Nam. Sự gắn bó mật thiết như vậy là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách

mạng của Đảng và của dân tộc, song nó đòi hỏi nhân tố chủ quan, trước hết là Đảng phải
đạt đến sự ý thức thật đầy đủ trong việc củng cố tăng cường mối liên hệ.
Từ thực tiễn thành công và chưa thành công của công cuộc đổi mới thời gian qua,
có thể khẳng định, việc giữ vững và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng ta trở thành
một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Do vậy, Đảng phải thường
xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, không ngừng khắc phục những yếu kém để luôn giữ vững
bản chất giai cấp công nhân, xứng đáng là danh dự và lương tâm của dân tộc và thời đại.
Tiểu kết chương 3
Như vậy, sau 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, kể từ Đại hội VI đến
nay, Đảng ta đã cụ thể hóa và hoàn thiện đường lối xây dựng và phát triển đất nước. Thực
chất đó là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp không tách rời nhau,
việc giải quyết mối quan hệ đó không chỉ thể hiện ở mục tiêu cơ bản và lâu dài là xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; mà còn
thể hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và các vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại.
Chương 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
Thứ nhất: Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Thứ hai: Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp phải được đặt
trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức
Thứ ba: Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta
hiện nay phải tạo ra động lực cho sự phát triển xã hội
Thứ tư: Phải có quan điểm biện chứng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và giai cấp



20
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN
TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4.2.1. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu nhằm thực hiện phát triển kinh tế thị
trường gắn liền với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong lĩnh vực kinh
tế ở nước ta hiện nay là thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó sẽ không có kết quả nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng “tụt hậu”,
hoặc “chệch hướng” xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, giải quyết mối quan hệ vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên lĩnh vực
kinh tế đang đặt ra cho đất nước phải giải quyết hai vấn đề hết sức phức tạp cả về mặt lý
luận, lẫn thực tiễn đó là: Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và vai trò quản
lý, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Không khẳng định được trong thực tiễn
những vai trò này thì khó có thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền
kinh tế. Nhưng phát huy những vai trò này một cách chủ quan, duy ý chí bất chấp qui luật
kinh tế thì sẽ làm tổn hại đến các nguyên tắc của thị trường, cản trở phát triển kinh tế.
4.2.2. Tăng cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí
gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh
4.2.2.1. Tăng cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Việc tăng cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
cũng chính là kết hợp và giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp một cách nhuyễn của
Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, đoàn kết dân tộc phải lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm mục tiêu cơ bản của mọi đường lối và chính sách. Đây là mục tiêu

trước mắt và mục tiêu lâu dài. Để giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ trên cần quán triệt những
vấn đề sau đây:
Một là, đại đoàn kết vì mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền, quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất
nước giàu mạnh.
Hai là, đại đoàn kết trước hết phải được thể hiện trong các chủ trương của Đảng và
chính sách và pháp luật của Nhà nước, đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng chính đáng của
các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích
riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, trong đó lấy lợi ích dân tộc là cao nhất.
Thứ hai, đoàn kết phải trên cơ sở tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong điều kiện nay để liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cũng chính là giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện mới,
một vấn đề cốt yếu là chúng ta phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thực sự vững
mạnh, xứng đáng là lực lượng tiên phong, là người dẫn đường cho sự nghiệp cách mạng
của dân tộc.


21
4.2.2.2. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động hiệu quả
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
Để củng cố tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, một trong những vấn đề cốt yếu chính là xây
dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Thứ nhất, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh,
có hiệu lực cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thứ ba, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị ngày càng vững mạnh.

4.2.3. Không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp nguồn lực bên trong
với nguồn lực bên ngoài đưa đất nước phát triển bền vững theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh dân tộc
phải đóng vai trò nền tảng, là nhân tố quyết định. Chúng ta cần thực hiện tốt nhưng vấn đề
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở nắm vững xu thế của thời đại cần xác định đúng đắn đường lối
đối ngoại, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc.
Thứ hai, mở rộng quan hệ quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, bảo vệ
thành quả của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta không ngừng phát triển, rút ngắn khoảng
cách với các nước.
Thứ ba, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại.
Thứ tư, trong quan hệ đối ngoại kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược.
Tóm lại, giải quyết mối quan hệ giữa các vấn đề dân tộc - giai cấp - quốc tế luôn là
xương sống của các vấn đề chính trị trong nước và quốc tế. Trong bối cảnh toàn cấu hóa
tư bản chủ nghĩa như hiện nay, vấn đề mối quan hệ dân tộc, giai cấp, quốc tế đã trở nên
phức tạp hơn bao giờ hết. Việc các quốc gia - dân tộc nhận thức và giải quyết vấn đề này
như thế nào sẽ quyết định không những sự tồn tại, phát triển của họ mà còn ảnh hưởng tới
sự ổn định và phát triển chung của thế giới.
4.2.4. Giải quyết các xung đột xã hội tạo ra sự thống nhất, đồng thuận xã hội
và ngược lại
Giải quyết xung đột xã hội và xây dựng đồng thuận xã hội có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Giải quyết xung đột xã hội là cơ sở để tạo ra sự đồng thuận xã hội và ngược lại
đồng thuận xã hội cũng giải pháp cơ bản để giải quyết thấu đáo vấn đề xung đột xã hội.
Giải quyết xung đột xã hội tạo sự đồng thuận xã hội cũng chính là biểu hiện của việc giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện mới, được xây
dựng trên phạm vi quốc gia, dân tộc, bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, cả người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Thứ nhất, để giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột xã hội chính là vấn đề lợi ích.

Lợi ích - đó có thể là những lợi ích về mặt vật chất hay những lợi ích về mặt tinh thần.
Đồng thuận xã hội chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở lợi ích của tất cả các thành viên


22
trong xã hội được đảm bảo, không thể có đồng thuận xã hội khi mà lợi ích của đa số các
thành viên trong xã hội bị vi phạm hoặc không được tôn trọng, bảo vệ.
Thứ hai, để giải quyết xung đột xã hội, ngoài vấn đề lợi ích, một trong những nhân
tố quan trọng là lấy đồng thuận xã hội để giải quyết các xung đột xã hội. Như vậy, đồng
thuận xã hội với vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực để giải quyết xung đột xã hội.
Trước hết, để tạo nên đồng thuận xã hội, một trong những yếu tố quan trọng chính
là việc xác định mục tiêu chung, lý tưởng chung.
Hai là, một trong những cơ sở khác của đồng thuận xã hội là vấn đề phát huy dân
chủ và công bằng xã hội.
Ba là, tuy không đóng vai trò quyết định, nhưng truyền thống văn hoá cũng là cơ sở
góp phần tạo nên đồng thuận xã hội.
Bốn là, bên cạnh các cơ sở, điều kiện như đã trình bày ở trên, để xây dựng và củng
cố đồng thuận không thể không dựa trên nền tảng là sự nhận thức của các cá nhân, các lực
lượng trong xã hội. Ở một góc độ nhất định, sự đồng thuận chỉ đạt được trên cơ sở là sự
nhận thức chung của các thành viên trong xã hội.
4.2.5. Thực hiện tốt chính sách xã hội và an sinh xã hội nhằm giải quyết một
cách hài hòa giữa lợi ích các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong xây
dựng hoà bình, nhất là những năm đổi mới, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được biểu
hiện trước hết ở vấn đề xã hội. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, hiện thực hoá các
mục tiêu về an sinh xã hội và chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải
quyết việc làm.
Hai là, phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm xã

hội, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.
Ba là, thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững.
Bốn là, thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp
xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.
Năm là, nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao
phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản.
Sáu là, huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt chính sách xã hội và
an sinh xã hội.
Nói tóm lại, thực hiện chính sách xã hội và bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã
hội là một nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, là
một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Thực hiện tốt chính
sách xã hội và an sinh xã hội cũng là cơ sở để giải quyết thấu đáo vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Tiểu kết chương 4
Có thể nói, việc quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là một
vấn đề có tính nguyên tắc, là một nhiệm vụ chiến lược có tính lâu dài đối với sự phát triển
đất nước, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, tình hình thế giới và khu vực đang có những
diễn biến phức tạp như hiện nay.


23
KẾT LUẬN
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh. Đây cũng là một sáng tạo lớn nhất (sáng tạo gốc)
của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trung tâm của việc giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Trong đấu tranh dân tộc có đấu tranh giai cấp; đấu tranh giai cấp phải thực hiện
được nhiệm vụ giành và bảo vệ độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải tiến tới giải phóng

giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đi lên
chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát
triển nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng
tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và hết sức cấp thiết. Bởi vì, trong thực tiễn
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý
chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định
và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp
không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy
như một trong những động lực chủ yếu nhất.
Ngày nay, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta đang diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hoá đã trở thành một “xu thế khách quan”. Trong quá trình hội nhập quốc
tế, đòi hỏi Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác phải giải quyết thành
công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện mới. Nếu tuyệt
đối hoá vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp cũng đều dẫn tới sự chệch hướng cách mạng,
hoặc sẽ gặp khó khăn trong quá trình phát triển. Giải quyết thành công mối quan hệ đó là
cơ sở để cách mạng nước ta đi đúng con đường đã chọn, với mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; đồng thời là cơ sở để chúng ta có được đường lối phát triển đúng đắn,
từng bước tận dụng những thuận lợi, thời cơ, vượt qua những khó khăn, thách thức trong
quá trình phát triển. Trong phong trào cách mạng thế giới, trước kia cũng như hiện nay đã
từng diễn ra khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều, tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp hoặc
vấn đề dân tộc. Dù tình hình thế giới ngày nay có nhiều biến động phức tạp, Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã
không còn, nhưng vẫn còn đó vấn đề lớn của thời đại - “đấu tranh dân tộc và đấu tranh
giai cấp vẫn đang diễn ra gay go, phức tạp, dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú”.
Mặc dù thực tiễn hiện nay đã có nhiều đổi thay so với trước, song có thể khẳng
định rằng việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo tư

tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, đóng vai trò định hướng cho tư duy và hoạt
động chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Tư tưởng của Người để lại


×