Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

so sánh hiến pháp 1992 và 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 32 trang )

so sánh hiến pháp 1992 và 2013

1

Mục lục
Phần 1 :Những thành quả và hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn qua 20 năm thực hiện Hiến pháp
năm 1992....................................................................................................................................................... 2
I.

Những thành quả về nhận thức lý luận và thực tiễn ........................................................................ 2

II.

Những hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn ............................................................................ 4

III.

Hiến pháp năm 1992: Ý nghĩa và giá trị cơ bản ............................................................................ 8

IV.

Sự ra đời Hiến pháp năm 1992 ..................................................................................................... 9

V.

Ý nghĩa và giá trị cơ bản của Hiến pháp năm 1992 ......................................................................... 10

VI.

Hiến pháp năm 1992 là cột mốc quan trọng của lịch sử lập hiến Việt Nam ............................... 10


1.

Hiến pháp năm 1992 có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật hiện hành ........................... 11

2.

pháp năm 1992 thể hiện tính pháp lý, tính hiện thực cao .......................................................... 12

3. Hiến pháp năm 1992 là nền tảng để hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp và cải cách tư
pháp .................................................................................................................................................... 12
4. Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc mở rộng và phát triển nền ngoại giao
sáng tạo Việt Nam trong tình hình thế giới biến đổi khôn lường ....................................................... 14
Phần 2:Hiến pháp mới 2013 hiến định xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội ....................... 16
1. Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. ................................................................................................................................................... 16
Phần 3 : Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 ..................................... 22
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013 ........................................................................................ 23
2. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 ........................................... 23
2.1. Về cấu trúc của Hiến pháp ........................................................................................................... 23
2.2. Về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước..................................................... 24
2.3.Về chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ...................................... 27
Phần 4 : NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ ............................................................................................ 27
1.1.Những điểm mạnh ............................................................................................................................. 27
1.2.Những hạn chế .................................................................................................................................. 31


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

2


Phần 1 :Những thành quả và hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn qua 20 năm thực
hiện Hiến pháp năm 1992
TCCS - Những thành tựu về nhận thức lý luận và thực tiễn qua 20 năm thực hiện Hiến
pháp năm 1992, trước hết bắt nguồn từ đường lối đổi mới của Đảng. Không có đường lối
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không thừa nhận và đề cao
quyền con người, không có chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
có thể khẳng định chúng ta không có thành công trong công cuộc đổi mới hôm nay.
I.
Những thành quả về nhận thức lý luận và thực tiễn
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, theo chúng tôi, về phương diện nhận thức lý
luận và thực tiễn có những đổi mới về chất sau đây:
-

Một là, việc thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) đã tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển tư tưởng lập hiến
và lập pháp ở nước ta.

Chuyển từ một nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, với
nguồn tư tưởng lập hiến, lập pháp còn hạn chế, thậm chí nghèo nàn, nhân dân và xã hội
nói chung ít có nhu cầu sử dụng pháp luật, sang nền kinh tế thị trường, theo đó Hiến pháp
và pháp luật phát triển trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ đòi hỏi của các quan hệ kinh tế,
từ nhu cầu bảo vệ các quan hệ kinh tế nên tư tưởng lập hiến và lập pháp rất phong phú, đa
dạng; người dân và xã hội nói chung ngày càng có nhu cầu sử dụng Hiến pháp, pháp luật
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, là một bước tiến lớn, rất quan trọng trong công việc
lập hiến của nước ta. Từ đòi hỏi khách quan đó, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước
ta, Hiến pháp năm 1992 tuyên bố: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (Điều 15); “kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động
trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh” (Điều 21); “doanh nghiệp thuộc

mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật” (Điều 22); “tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ
chức không bị quốc hữu hóa” (Điều 23). Xuất phát từ đó, hàng loạt các đạo luật, bộ luật
mới về kinh tế - dân sự - lao động lần lượt ra đời (mà trước đây không thể có) như Bộ
luật Dân sự (năm 1995 và 2005); Bộ luật Lao động (năm 1995, 2003, 2006), Luật Doanh
nghiệp (năm 1999, 2003, 2006), Luật Đầu tư (năm 2005), Luật Thương mại (năm 1997,
2005) và hàng chục đạo luật, bộ luật khác. Rõ ràng, không có tư duy pháp lý mới về kinh
tế của Hiến pháp năm 1992 làm nền tảng, không thể có sự đổi mới và hoàn thiện pháp
luật về kinh tế, không thể tạo lập được một trật tự các quan hệ kinh tế mới làm chỗ dựa
vững chắc cho đổi mới các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, giữ vững sự ổn định và phát
triển xã hội; càng không thể xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về kinh tế - dân sự - lao động đồng bộ và thống nhất như hiện nay; và càng
không thể tạo nên một lực lượng vật chất góp phần xây dựng và phát triển kinh tế nước
nhà trong hơn 26 năm đổi mới vừa qua.


so sánh hiến pháp 1992 và 2013
-

3

Hai là, thừa nhận quyền con người là một bước đổi mới về tư duy lý luận chính trị
- pháp lý, chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật theo định hướng đề cao
và phát huy nhân tố con người.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã dành một điều nói về
quyền con người với nội dung khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng
thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Việc ghi nhận một điều nói về quyền con người với tư cách là một quy định chung trước

khi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản, Hiến pháp năm 1992 thể hiện một bước tiến
mới về tư duy lý luận và sự kế thừa một cách sâu sắc giá trị tiến bộ của tư duy chính trị pháp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của nhân loại, nhiều lần nhắc lại ý nghĩa của việc
tôn trọng quyền con người trong các bản tuyên ngôn, như “Tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791).
-

Ba là, đổi mới tư duy, kế thừa và phát triển những tư tưởng hợp lý của nhân loại
về nhà nước pháp quyền trong hình thành nguyên tắc tổ chức quyền lực mới:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, từng bước khắc phục
những hạn chế của tổ chức bộ máy nhà nước trước đây.

Hiến pháp năm 1992 đặt nền móng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, thuật
ngữ Nhà nước pháp quyền XHCN được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp: “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Cùng với việc khẳng định bản chất của
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp năm 1992 còn nhấn mạnh các
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, như: “Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân”; “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp” (Điều 2). Xuất phát từ lý luận về nhà nước pháp quyền và các nguyên tắc nền
tảng về tổ chức quyền lực nhà nước, bộ máy nhà nước tiếp tục được cải cách, đổi mới,
khắc phục một bước những hạn chế của mô hình trước đây. Quốc hội là một thiết chế dân
chủ đại diện, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (nhưng không có toàn quyền như
trong mô hình Xô-viết), ngày càng hoạt động thực quyền, được nhân dân đồng tình ủng
hộ. Các cơ quan hành chính nhà nước đứng đầu là Chính phủ được tiến hành cải cách

theo định hướng xây dựng bộ máy quản lý đất nước phục vụ nhân dân ngày càng có hiệu
lực, hiệu quả, trong sạch và minh bạch hơn. Các cơ quan tư pháp tích cực cải cách đã
tăng cường lòng tin của nhân dân vào cán cân công lý, vào sự độc lập và hoạt động chỉ
tuân theo pháp luật. Chính vì thế, có thể nói, Hiến pháp năm 1992 đã đặt nền móng cho
việc tiếp tục đổi mới bộ máy nhà nước ta theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong thời gian qua.


so sánh hiến pháp 1992 và 2013
II.

4

Những hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn

Bên cạnh những thành quả đạt được qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, cũng
cho thấy những hạn chế chủ yếu sau đây:
-

Thứ nhất, xã hội nói chung, các cơ quan, tổ chức và công dân nói riêng chưa nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất và vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong điều
kiện kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Điều đó đã làm cho Hiến pháp hiện hành chưa phát huy đầy đủ vai trò là phương tiện để
nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền, là phương tiện thiết lập nên quyền lực nhà
nước; chưa coi quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp, nên nhân dân chưa được đặt đúng vai trò chủ thể của quyền lập hiến, chủ thể phân
công quyền lực nhà nước. Hiến pháp chưa được quan niệm là phương tiện để giới hạn
quyền lực nhà nước, đề cao, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Do
chưa đổi mới tư duy lập hiến, lập pháp theo những quan niệm này, nội dung của Hiến

pháp và pháp luật khó có những thay đổi đáp ứng đòi hỏi xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN; trên thực tế, lợi ích của con người,
của công dân đây đó vẫn còn bị vi phạm.
-

Thứ hai, nhận thức nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”
chưa nhất quán và phù hợp với điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Các Hiến pháp nước ta đều trang trọng ghi nhận nguyên tắc: “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”. Điều đó khẳng định quyền lực nhà nước là của nhân dân. Tuy nhiên,
ở các quy định khác của Hiến pháp lại quy định nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân (HĐND) do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân (Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980 và Điều
6 Hiến pháp năm 1992). Với quy định này có nghĩa là nhân dân đã trao hết quyền lực
nhà nước vốn là của mình cho các cơ quan đại diện. Trong khi đó, Hiến pháp năm 1946
trước khi xác định Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, đã dành 2 điều để quy định về quyền của nhân dân bãi miễn các đại
biểu (Điều 20) và về quyền của nhân dân phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia. Nói cách khác, Hiến pháp năm 1946 đã xác định rõ quyền lực
nhà nước là của nhân dân, nhân dân không trao hết quyền lực nhà nước của mình cho
Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng các hình thức dân chủ
trực tiếp và thông qua các cơ quan nhà nước.
Các bản Hiến pháp về sau của nước ta lại đi theo mô hình: “Tất cả quyền lực thuộc về
các Xô-viết” (mô hình Xô-viết), theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; các cơ quan nhà
nước khác đều do các cơ quan quyền lực nhà nước lập nên và chịu trách nhiệm báo cáo
trước các cơ quan này. Mô hình này thể hiện rõ nét ở các quy định của Hiến pháp năm
1992 như sau:
-Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, HĐND (Điều 6) mặc dầu đã
bỏ khoản Quốc hội “Có thể quy định cho mình những quyền hạn và nhiệm vụ



so sánh hiến pháp 1992 và 2013

5

khác” (Điều 84 Hiến pháp năm 1980). Quốc hội không còn toàn quyền như Hiến pháp
năm 1980.
- “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” (Điều 83), “Chỉ Quốc hội mới có
quyền sửa đổi Hiến pháp”(Điều 147). Các quy định này vô hình trung lãng quên quyền
lập hiến của nhân dân thông qua phúc quyết Hiến pháp. Quy định trưng cầu dân ý trong
Hiến pháp vẫn còn (Điều 53) nhưng suy từ quy định của Điều 147 trưng cầu dân ý lại
chưa bao hàm phúc quyết Hiến pháp.
- Quyền bãi miễn (hoặc bãi nhiệm) đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, một chế định cực
kỳ quan trọng của cơ chế dân chủ trực tiếp, vốn là quyền chỉ của nhân dân (ai bầu ra đại
biểu người đó có quyền bãi nhiệm) lại chuyển cho Quốc hội và HĐND. Hiến pháp năm
1946 khẳng định dứt khoát: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”
(Điều 20).
Như vậy, Hiến pháp hiện hành ghi nhận chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, nhưng
không ghi nhận các quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân (như quyền lập hiến, quyền bãi
nhiệm đại biểu...). Hiến pháp năm 1992 đã chưa đi đến cùng, chưa nhất quán với quan
điểm chính trị về quyền lực nhân dân, trong khi Hiến pháp chính là văn bản thể hiện cao
nhất, đầy đủ nhất về mặt pháp lý quyền lực nhà nước là của nhân dân. Cũng vì do thiếu
nhất quán này mà quá trình thực hiện chủ quyền nhân dân, thực hiện dân chủ XHCN còn
nhiều bất cập. Các cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài cũng như
từ bên trong bộ máy nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chưa được
coi trọng. Các cơ chế giám sát mang ý nghĩa quyết định của nhân dân như trưng cầu ý
dân về Hiến pháp, về những vấn đề hệ trọng của đất nước... chưa được thực hiện trên
thực tế. Chế độ bầu cử vốn là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân
dân đây đó vẫn còn hình thức.

Ngày nay, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, nếu cứ tiếp tục duy trì mô hình chuyển đổi toàn bộ quyền
lực nhà nước của nhân dân cho Quốc hội với mong muốn Nhà nước có thể thay mặt nhân
dân thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước của nhân dân là không còn phù hợp; làm cho
nguyên tắc Hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” vẫn mang tính
hình thức; không thể hình thành cơ chế hiến định hữu hiệu để bảo vệ quyền tối cao của
nhân dân và kiểm soát một cách hữu hiệu sự tha hóa của quyền lực nhà nước.
-

Thứ ba, từ “tập quyền” sang “phân công, phối hợp quyền lực nhà nước” là một
bước tiến mới về chất trong tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng nhận thức không
thống nhất, nhiều sức ỳ của “tập quyền” và lợi ích cục bộ cản trở việc tổ chức
quyền lực theo nguyên tắc “phân công, phối hợp quyền lực”.

Hiến pháp hiện hành của nước ta chưa có sự phân công hợp lý nhiệm vụ, quyền hạn của
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước hết là phân công phối hợp giữa lập
pháp và hành pháp - hai thiết chế vốn có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng cũng dễ lấn
sân nhau, dẫn đến lạm dụng quyền lực nhà nước. Sự phân công và phối hợp không hợp lý


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

6

giữa lập pháp và hành pháp thể hiện trên một số quy định của Hiến pháp năm 1992 sau
đây:
+ Điều 84 quy định Quốc hội có 14 nhiệm vụ và quyền hạn, nhưng vẫn còn chứa đựng
các yếu tố của một Quốc hội toàn quyền theo mô hình tập quyền trước đây và vượt quá
khả năng thực thi. Ví dụ: “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và
đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh của đất nước, những nguyên

tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt
động của công dân” (Điều 83). Nhiệm vụ, quyền hạn này rất không xác định mà thực
chất là một Quốc hội có quyền hạn, nhiệm vụ không bị giới hạn. Điều này là không phù
hợp với vai trò của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền là giới hạn quyền lực nhà
nước, dù đó là cơ quan đại diện cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Việc phân công
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không hợp lý nói trên dẫn đến một số hậu quả không
tốt sau đây:
 Một là, sự không giới hạn quyền lực nhà nước đó dẫn đến trên thực tế Quốc
hội “lực bất tòng tâm”, chưa thực hiện tốt chức năng lập pháp. Quốc hội thông
qua nhiều đạo luật với chất lượng không cao và phải ủy quyền cho Chính phủ và
các bộ cụ thể hóa.
Hai là, do sự ủy quyền lập pháp cho Chính phủ và các bộ, lại thiếu cơ chế kiểm soát hữu
hiệu sự ủy quyền này nên trên thực tế, sự lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía hành
pháp là không tránh khỏi. Mặc dù Hiến pháp quy định Quốc hội giám sát tối cao việc
tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch
nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ... trái Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội” (Điều 84) nhưng trên thực tế Quốc hội không có khả
năng thực hiện (chưa hủy bỏ hoặc đình chỉ được một văn bản nào). Vì thế, trong hoạt
động của mình, Chính phủ rất “rộng tay” trong việc chủ động thực hiện các thẩm quyền
mà Hiến pháp quy định là cơ quan “chấp hành của Quốc hội”. Đó là chưa kể về sau Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lại giao cho Chính phủ ban hành những văn bản
quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước mà chưa có luật và pháp lệnh
quy định (Điều 56). Đây là những văn bản quy phạm pháp luật được gọi là “nghị
định không đầu” (phía trên các nghị định này không có luật và pháp lệnh điều chỉnh), lại
tạo thêm điều kiện để Chính phủ ban hành các “nghị định không đầu”. Điều đáng nói là,
có những “nghị định không đầu” này trái với nội dung và tinh thần của Hiến pháp và luật
của Quốc hội và có biểu hiện lạm dụng quyền lực gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng lại
chưa có cơ chế giám sát hữu hiệu để sớm phát hiện và xử lý kịp thời những văn bản quy
phạm này.
+ Điều 109 Hiến pháp hiện hành quy định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc

hội, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Điều quy định này về phương diện pháp lý đã đặt Chính phủ vào vị trí của một cơ
quan thụ động với vai trò là chấp hành và thi hành. Vị trí này phù hợp với mô hình Xôviết, mà không thích hợp với mô hình nhà nước pháp quyền. Bởi khái niệm “hành
chính” theo khoa học pháp lý không bao hàm hành pháp, tức là một thiết chế có tính độc


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

7

lập trong tổ chức quyền lực nhà nước. Có thừa nhận Chính phủ là một thiết chế thực hiện
quyền hành pháp mới tạo cho Chính phủ có tính độc lập tương đối so với lập pháp, mới
phát huy vai trò chủ động của Chính phủ trong việc đề xuất, soạn thảo, thẩm định các
chính sách quốc gia dưới dạng các dự án luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua và
tiếp đó là tổ chức thực hiện luật trong thực tiễn. Đây là nhiệm vụ, quyền hạn hàng đầu
của hành pháp (Chính phủ) trong nhà nước pháp quyền.
Hiện nay, trên 90% số dự án luật là do Chính phủ soạn thảo đưa trình Quốc hội xem xét,
thông qua. Nhưng ở vị trí chấp hành của Quốc hội, được Quốc hội giao cho nhiệm vụ
giúp Quốc hội soạn thảo dự án luật chứ không phải xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của
bản thân hành pháp. Chính vì chưa xem Chính phủ là cơ quan thực hành quyền hành
pháp mà nhấn mạnh tính chấp hành Quốc hội, vô hình trung đã làm cho Chính phủ dựa
dẫm, ỷ lại vào Quốc hội, không coi trọng đúng mức nhiệm vụ soạn thảo dự án luật dẫn
đến chất lượng luật không cao.
-

Đối với quyền tư pháp: Ngoài Hiến pháp năm 1946 quy định chỉ duy nhất tòa án là
cơ quan tư pháp, còn các Hiến pháp sau này, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi bổ sung một số điều năm 2001), mặc dù tại Điều 2 đã thừa nhận quyền tư
pháp, nhưng cơ quan nào thực hiện quyền này, Hiến pháp lại chưa xác định. Do
đó, việc phân công quyền lực nhà nước rơi vào chưa rõ ràng giữa lập pháp, hành

pháp và tư pháp, đồng thời không bảo đảm được tính độc lập của tư pháp. Trong
mối quan hệ với lập pháp, theo mô hình Xô-viết thì tính trội hơn thuộc về quyền
lập pháp nên chỉ Quốc hội có quyền giám sát đối với tòa án; mà ngược lại tòa án
không có quyền xem xét lại luật của Quốc hội. Trong mối quan hệ với quyền hành
pháp, tòa án chỉ có quyền xem xét và phán quyết đối với các quyết định hành
chính và hành vi hành chính mà chưa có quyền tài phán đối với văn bản pháp quy.
Đồng thời, Tòa án tối cao cũng chưa được coi có quyền giải thích pháp luật, mặc
dù giải thích luật thông qua hoạt động xét xử là một phương thức rất hiệu quả để
bảo đảm cho hệ thống pháp luật nhất quán, đồng bộ, sớm bịt kín các lỗ hổng.

Sự độc lập của quyền tư pháp bao gồm: Một là, độc lập trong mối quan hệ với các quyền
lập pháp và hành pháp. Hai là, độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (hay bồi
thẩm đoàn) khi xét xử không một cơ quan hay cá nhân nào có quyền can thiệp. Ba là, độc
lập của mỗi cấp xét xử theo thẩm quyền. Việc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước
giữa quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành pháp cần phải bảo đảm nguyên tắc
độc lập của tư pháp. Tuy nhiên, xét trên cả ba nội dung về tư pháp độc lập nói trên, thì tổ
chức và hoạt động của tòa án nước ta chưa bảo đảm được tính độc lập. Điều đó đòi hỏi
phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày
02-6-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
-

Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước được nhận thức chưa đầy đủ, cơ chế thực
thi hiệu lực và hiệu quả còn thấp.

Hiến pháp hiện hành của nước ta đã hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
bằng phương thức giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước
(Điều 83); bằng kiểm tra, thanh tra trong bộ máy hành pháp (Điều 112); bằng giám sát,


so sánh hiến pháp 1992 và 2013


8

kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới (Điều 91, 114, 124); bằng giám
đốc thẩm, tái thẩm trong hoạt động xét xử của tòa án (Điều 134) và bằng xét xử các quyết
định hành chính và hành vi hành chính của các cấp tòa án, bằng kiểm sát của viện kiểm
sát đối với hoạt động tư pháp.
Tuy nhiên, chỉ có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói trên thì chưa đầy đủ và cũng
chưa phát huy được hiệu lực và hiệu quả như mong muốn. Tình trạng lạm dụng quyền
lực nhà nước dẫn đến tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy nhà nước làm cho lòng dân
không yên có nguyên nhân kiểm soát quyền lực chưa có hiệu quả. Sở dĩ như vậy, là do
nhận thức không đầy đủ về mục đích, vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo tư
duy của mô hình tập quyền, kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm bảo vệ quyền lực nhà
nước, bảo vệ sự thống nhất của ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và bảo đảm sự
thống nhất trong mỗi quyền. Ngược lại, trong nhà nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực
nhà nước là xuất phát từ nhân dân, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Theo đó,
kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết là những phương thức, những quy trình, quy định
mà dựa vào đó, xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế
quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và
đạt được hiệu quả cao nhất (nhà nước tự kiểm soát được mình). Vì thế, kiểm soát quyền
lực trong nhà nước pháp quyền chỉ có thể đạt được khi có một cơ chế và điều kiện đầy
đủ, cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó phải bao gồm kiểm soát cả từ
bên ngoài lẫn từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước và đều hướng tới việc bảo đảm
cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, thực thi có hiệu lực và hiệu quả.
Điều kiện để cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hoạt động có hiệu quả là phải hình
thành một môi trường dân chủ, công khai, minh bạch. Tất cả những khiếm khuyết nói
trên cần được khắc phục trong lần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 này./
III.

Hiến pháp năm 1992: Ý nghĩa và giá trị cơ bản


TCCSĐT- Hiến pháp năm 1992 đã để lại nhiều vấn đề có ý nghĩa và giá trị tốt đẹp. Đặc
biệt, Hiến pháp là cơ sở khoa học để đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống
chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện và đổi mới hệ thống các cơ quan
tư pháp và hoạt động tư pháp.
Vào hồi 11 giờ 45 phút ngày 15-4-1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa VIII, Kỳ họp thứ 11 đã biểu quyết nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992.
Hiến pháp gồm Lời nói đầu, 12 chương, 147 điều. Theo Nghị quyết của Quốc hội, Hiến
pháp có hiệu lực thi hành ngay từ ngày Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch
nước) ban hành lệnh công bố - ngày 18-4-1992. Sau 9 năm thực hiện, Quốc hội khóa X,
Kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết số 51/2001/QH10, ngày 25-12-2001, sửa đổi, bổ sung lần
thứ nhất trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (năm 1991) và văn kiện các đại hội của Đảng (khóa VI, 1986-1991; khóa VII, 19911996). Việc sửa đổi, bổ sung gồm Lời nói đầu, 23 điều và bỏ khoản 8 của Điều 91, với số
chương, số điều vẫn như trước. Sau 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ nhất, ngày 6-8-2011, đã ra Nghị
quyết số 06/2002/QH13 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần thứ hai trên cơ sở


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

9

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) và văn kiện Đại hội XI của Đảng.
IV.

Sự ra đời Hiến pháp năm 1992

Từ năm 1946 đến nay, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến
pháp đầu tiên, ra đời trong bối cảnh một nước Việt Nam vừa giành được độc lập. Hiến

pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn kết toàn dân, không phân
biệt giống nòi, trai, gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền lợi dân chủ; thực hiện
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Các hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992
được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở những biến đổi về sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội
trên mỗi bước đường của các giai đoạn cách mạng, nhưng vẫn kế thừa những giá trị đã
được thử thách theo thời gian, kết tinh bền vững.
Hiến pháp năm 1992 ra đời trên cơ sở sửa đổi căn bản, toàn diện Hiến pháp năm 1980.
Sau 11 năm phát huy hiệu lực, không ít các quy định của Hiến pháp năm 1980 không còn
phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước đang biến chuyển nhanh chóng. Trước
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), nền kinh nước ta là nền kinh tế kế hoạch hóa, chỉ
có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ sau Đai hội VI của
Đảng trở đi, nền kinh nước ta chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô (sự quản lý cuả Nhà nước).
Cũng từ đây, thuật ngữ "chuyên chính vô sản" được thay thế bằng "hệ thống chính trị",
được xác định hoàn thiện hơn, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ
chức thành viên và các tổ chức chính trị - xã hội; tự do, dân chủ được phát huy rộng rãi;
về xã hội, đời sống nhân dân đã có bước cải thiện, các quyền lợi, trước hết là quyền lợi
kinh tế, được bảo đảm hơn, và một số phong trào đã đạt kết quả khả quan như xóa đói,
giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa... Thực tiễn đó đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới phù
hợp hơn để thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho toàn dân ở một trình độ cao hơn. Đại hội VI của Đảng là bước ngoặt vĩ
đại, mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta. Tại Đại hội VI, Đảng ta đã đưa ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới công tác tổ chức - cán bộ,
đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác của Đảng..., đặc biệt là đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy kinh tế; với chủ trương phải nắm vững các quy luật khách quan,
hành động theo quy luật và tính quy luật, và phải lấy dân làm gốc. Về phương châm, phải
"nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật". Đại hội VI của Đảng đã
đánh giá, phân tích sâu sắc những thành tựu và những hạn chế, khuyết điểm của thời kỳ
thực thi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài. Đại hội khẳng định, nước ta
đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, cần tiếp

tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội, coi sự tác động qua
lại giữa hai loại chính sách này là nhân tố cơ bản để bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân. Đây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội và mối
tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm vóc; nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa được mở rộng, tư duy độc lập được phát huy, sự sáng tạo của các tầng lớp nhân dân


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

10

được đề cao; mục tiêu xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh" được xác lập.
Trên nền tảng đó, Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 5, ngày 30-6-1989, đã ra Nghị quyết
thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để hiến định đường lối đổi mới trong giai
đoạn cách mạng mới. Ban dự thảo Hiến pháp gồm 28 thành viên, do Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước làm Chủ tịch. Cuối năm 1991, dự thảo lần thứ ba được hoàn thành và được đưa
ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân và sự
chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), dự thảo Hiến
pháp lần thứ tư đã được hoàn thiện và được trình tại Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 11
xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi, với tinh thần trách nhiệm cao, dự thảo tiếp tục
được hoàn chỉnh với chất lượng tốt nhất trong bối cảnh lúc bấy giờ. Hiến pháp năm 1992
đã được thông qua với 12 chế định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ
chính trị; Chế độ kinh tế; Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; Bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Quốc hội; Chủ tịch
nước; Chính phủ; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Tòa án nhân dân và Viện kiểm
sát nhân dân; Quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, thủ đô và ngày quốc khánh; Hiệu lực của Hiến
pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
Quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992, có thể nói, là một cuộc sinh hoạt chính trị dài

ngày của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thật sự dân chủ trong thảo luận. Các ý kiến thảo
luận, đóng góp được chắt lọc một cách đầy đủ, nghiêm túc về tất cả các vấn đề, từ những
quan điểm chung cho đến các vấn đề cụ thể; từ chế định về chế độ chính trị cho đến tất cả
các chế định tiếp theo thuộc nội dung Hiến pháp. Đây là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới,
là sản phẩm trí tuệ của toàn xã hội, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đông đảo các tầng
lớp nhân dân.
V.

Ý nghĩa và giá trị cơ bản của Hiến pháp năm 1992

Theo tiến trình sửa đổi, bổ sung đã định, tới Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII (tháng 102013), đất nước ta sẽ có bản Hiến pháp mới. Như vậy, Hiến pháp năm 1992 có thời gian
hiệu lực dài nhất (22 năm) so với các bản hiến pháp trước. Cho tới nay, Hiến pháp năm
1992 đã để lại nhiều vấn đề có ý nghĩa và giá trị tốt đẹp, như: các nguyên tắc của Hiến
pháp; Hiến pháp thể hiện cách mạng phát triển không ngừng; tính hiện thực của Hiến
pháp; Hiến pháp là cơ sở khoa học để đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống
chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện và đổi mới hệ thống các cơ quan
tư pháp và hoạt động tư pháp... Dưới đây là một số vấn đề đáng quan tâm nhất.
VI.

Hiến pháp năm 1992 là cột mốc quan trọng của lịch sử lập hiến Việt Nam

Nếu Hiến pháp năm 1946 là hiến pháp đầu tiên của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân,
của một xã hội tự do, dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á; Hiến pháp năm 1959
ghi nhận bước thứ hai của lịch sử lập hiến Việt Nam, là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa
đầu tiên ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Hiến pháp năm 1980 là hiến
pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, thì Hiến pháp năm
1992 là cột mốc thứ tư của lịch sử lập hiến Việt Nam - hiến pháp của công cuộc đổi mới


so sánh hiến pháp 1992 và 2013


11

toàn diện và sâu sắc cả xã hội, bắt đầu từ đổi mới nền kinh tế và từng bước đổi mới vững
chắc về chính trị. Hiến pháp năm 1992 kế thừa những tinh hoa, giá trị bền vững của ba
bản hiến pháp trước đó, tuy nhiên, đây là bản hiến pháp đầu tiên vận dụng đầy đủ, nhuần
nhuyễn, sáng tạo nhất (kể từ khi lập hiến đến nay) các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (lần đầu tiên văn kiện Đại hội VII của Đảng đã ghi
rõ tư tưởng Hồ Chí Minh) về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của nước ta. Hiến pháp năm 1992 là mốc son của việc xây dựng và phát triển ngày
càng vững chắc nền tảng kinh tế - xã hội của nước ta từ thập niên cuối cùng của thế kỷ
XX cho đến hiện tại. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến
và lập pháp của nhân dân Việt Nam. Đó là bản hiến pháp thể hiện tính độc lập, tự chủ
trong tiến trình của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể
hiện sâu sắc bản sắc dân tộc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn tính quốc tế và tính thời
đại trên cơ sở phát huy những tinh hoa trí tuệ của nền văn hóa pháp lý Việt Nam và sự
tiếp thu tinh hoa văn hóa pháp lý của nhân loại.
1. Hiến pháp năm 1992 có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật hiện hành
Đây là đặc điểm chính trị - pháp lý đầu tiên của hiến pháp nói chung, Hiến pháp năm
1992 nói riêng. Điều 146 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định:
"Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp".
Đặc điểm chính trị - pháp lý nói trên còn thể hiện ở những nội dung quan trọng sau: Hiến
pháp là văn bản có tính chất cơ bản, nền tảng nhất; có tính chất khái quát cao nhất; có
tính chất phổ quát nhất; có tính chất xác định và khẳng định mạnh mẽ nhất; có tính chất
ổn định cao và lâu dài nhất; được thừa nhận tuyệt đối nhất so với tất cả các loại văn bản
pháp luật khác; quy định có tính chất cô đọng nhất, hoàn chỉnh nhất và đồng bộ nhất.
Hiến pháp năm 1992 vừa kế thừa, vừa phát triển các quan điểm của Đảng trong giai đoạn
cách mạng mới. Nếu Hiến pháp năm 1946 mới chỉ dựa trên 3 nguyên tắc như đã trình

bày, thì Hiến pháp năm 1992 đã được hiến định đầy đủ các nguyên tắc, các quan điểm
của Đảng trong đường lối đổi mới, đó là: chủ quyền quốc gia, độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; đại đoàn kết toàn dân tộc; tất cả quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc
về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội; xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô (có sự quản lý của Nhà nước), và sau
này là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ, tôn trọng và
bảo đảm quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân, Nhà nước đóng vai trò quan
trọng trong xã hội; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; phải điều hành, quản lý
Nhà nước và xã hội theo Hiến pháp, pháp luật, xã hội phải có kỷ cương; tập trung dân
chủ, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; bộ máy hành chính và quyền lực được tổ chức


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

12

theo lãnh thổ, vừa bảo đảm tập trung, thống nhất, vừa bảo đảm tính chủ động, sáng tạo
cho địa phương và cơ sở.
2. pháp năm 1992 thể hiện tính pháp lý, tính hiện thực cao
Nếu các hiến pháp trước đó có nhược điểm là còn thiếu vắng những sự điều chỉnh cần
thiết, hoặc vừa lạc hậu trong điều chỉnh, vừa có những điều chỉnh "thiếu tính khả thi", thì
Hiến pháp năm 1992 - một văn bản chính trị - pháp lý đã khắc phục được căn bản các
nhược điểm đó. Trước hết, đã khẳng định một cách rõ ràng, mạch lạc vai trò và giá trị của
luật pháp trong đời sống xã hội. Điều 12 khẳng định rất rõ ràng:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và

chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và
của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Với tinh thần thượng tôn pháp luật, trên cơ sở những giá trị đích thực và khả năng to lớn
của hiến pháp, Hiến pháp năm 1992 đã tạo nền móng cho việc xây dựng và đổi mới công
tác pháp luật theo hướng có hệ thống, đồng bộ và cách thức điều chỉnh hợp lý, tương
thích với từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành
đến nay đã trải qua bốn khóa Quốc hội (từ khóa IX đến hết khóa XII), Quốc hội đã thông
qua được 227 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành được 135 pháp lệnh.
Các luật, bộ luật và pháp lệnh đó đã kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng,
góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phục vụ có hiệu
quả cho việc điều hành, quản lý đất nước, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới thắng
lợi.
3. Hiến pháp năm 1992 là nền tảng để hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp và
cải cách tư pháp
Rất đáng tự hào về hoạt động tư pháp của nước ta là, ngay từ Hiến pháp năm 1946, Nhà
nước ta đã có hệ thống các cơ quan tư pháp. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định:
“Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có:
a) Tòa án tối cao.
b) Các tòa án phúc thẩm.
c) Các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp".
Các hiến pháp năm 1959 và 1980 tiếp tục quy định hệ thống các cơ quan tư pháp, nhưng
hoàn thiện hơn một bước, bao gồm tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Các cơ
quan này có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân
lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Trong các tòa án, có Tòa án nhân dân tối cao, các


so sánh hiến pháp 1992 và 2013


13

tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự. Tương tự như vậy, có Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân địa phương và các viện kiểm sát quân sự.
Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở để các cơ quan tư pháp tiếp tục phát triển và hoàn
thiện. Theo quy định của Điều 127:
"Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa
án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập tòa án đặc biệt...".
Trên nền móng đó, đến năm 2002, bộ máy các cơ quan tư pháp đã được hoàn thiện ở một
trình độ cao. Tòa án nhân dân tối cao bao gồm: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa hành chính và các tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Trong trường hợp cần
thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo
đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương bao gồm: Ủy ban thẩm phán; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế,
Tòa lao động, Tòa hành chính. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao. Dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có các tòa án của quận, huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự Trung ương; tòa
án quân sự quân khu và tương đương; tòa án quân sự khu vực. Tương ứng, hệ thống viện
kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh; các viện kiểm sát quân sự (Viện kiểm sát quân sự Trung ương, viện
kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, viện kiểm sát quân sự khu vực).
Nếu trước năm 1992, hệ thống pháp luật phục vụ cho hoạt động tư pháp còn tương đối eo
hẹp, thì từ tháng 5-1992 đến nay, hệ thống pháp luật này đã khá đầy đủ, phong phú và
tiếp tục được hoàn thiện, bao gồm các đạo luật: Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ
chức viện kiểm sát nhân dân (tháng 10-1992); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ

luật Hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 121992); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Bộ luật Dân
sự (tháng 10-1995); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (tháng 51997); Bộ luật Hình sự (tháng 12-1997); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng hình sự (tháng 6-2000); Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ chức viện kiểm
sát nhân dân (tháng 4-2002); Bộ luật Tố tụng hình sự (tháng 11-2003); Bộ luật Tố tụng
dân sự (tháng 6-2004); Bộ luật Dân sự (tháng 6-2005), và nhiều luật khác có liên quan
như Luật Hôn nhân và gia đinh; Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự (tháng 8-2004); Pháp
lệnh Giám định tư pháp (tháng 1-2005)... Với hệ thống tổ chức bộ máy và hệ thống pháp
luật đó, hoạt động tư pháp đang phấn đấu và ngày càng đạt được mục tiêu hàng đầu là
"Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa", như Nghị quyết số 49-


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

14

NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đã chỉ
rõ.
4. Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc mở rộng và phát triển
nền ngoại giao sáng tạo Việt Nam trong tình hình thế giới biến đổi khôn lường
Điều 14 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước
trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với
các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội".
So với các hiến pháp trước, đây là cách tiếp cận có tính hệ thống, tổng thể, bao quát đối
với tất cả các nước trên thế giới, thay vì cách tiếp cận bộ phận trên cơ sở hệ tư tưởng xưa

kia. Cách tiếp cận này phản ánh xu thế hội nhập khu vực cũng như hòa nhập quốc tế.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ sau Hiến pháp năm 1992 ngày càng
được hoàn thiện và đem lại hiệu quả thiết thực. Nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với
các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội nhưng vẫn giữ vững và
phát huy mạnh mẽ bản sắc riêng có của đất nước, của dân tộc Việt Nam. Chúng ta coi
mục tiêu đối ngoại là góp phần củng cố môi trường quốc tế để phát triển kinh tế; lấy việc
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất
của đất nước. Trong chỉ đạo chính sách đối ngoại, Đảng, Nhà nước ta kiên định nguyên
tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội theo đúng tinh thần Hiến pháp, đồng thời
phải sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược. Nếu tại Đại hội VII, Đảng ta đã nêu ra
quan điểm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển; đến Đại hội IX được bổ sung: Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước cộng đồng quốc tế; thì đến Đại hội XI, Đảng ta
khẳng định tiếp: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì
lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh"(1).
Kết quả khả quan là, công tác đối ngoại nhanh chóng được mở rộng và ngày càng đi vào
chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước; phát triển quan hệ tốt đẹp với các
nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng; tham gia có
hiệu quả vào nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng
cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm
nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước
Đông Nam Á (AIPA). Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 173 nước trên thế
giới, trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới, ký hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; tăng cường và phát


15


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

triển quan hệ với nhiều đối tác khác; thu hút đầu tư nước ngoài với số lượng khá, tranh
thủ vốn hỗ trợ phát trển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác ngày càng
lớn. Có thể nói, ngoại giao kinh tế có bước phát triển khá tốt đẹp...
Trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng,
nêu cao ý chí tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, tuân thủ thi hành Hiến pháp năm
1992 và đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong một phần tư thế kỷ của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm
1992 đã và đang làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình./.
tt

Họ tên

Từ

Đến

Thời gian tại
nhiệm

2 tháng
9, 1945

2 tháng 9, 1969


24 năm, 0 ngày

31 tháng
5, 1946

21 tháng 9, 1946

0 năm, 113
ngày

3 tháng
9, 1969

22 tháng 9, 1969

0 năm, 19 ngày

22 tháng
9, 1969

30 tháng 3, 1980

10 năm, 190
ngày

- Nguyễn Hữu Thọ

30 tháng
3, 1980


4 tháng 7, 1981

1 năm, 96 ngày

3 Trường Chinh

4 tháng
7, 1981

18 tháng 6, 1987

5 năm, 349
ngày

4 Võ Chí Công

18 tháng

22 tháng 9, 1992

5 năm, 96 ngày

1 Hồ Chí Minh

-

2

Huỳnh Thúc
Kháng


Tôn Đức
Thắng [3]


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

16

6, 1987

5 Lê Đức Anh

23 tháng
9, 1992

23 tháng 9, 1997

5 năm, 0 ngày

6 Trần Đức Lương

24 tháng
9, 1997

26 tháng 6, 2006

8 năm, 275
ngày


Nguyễn Minh
Triết

27 tháng
6, 2006

25 tháng 7, 2011

5 năm, 28 ngày

8 Trương Tấn Sang

25 tháng
7, 2011

02 tháng 4, 2016

4 năm, 252
ngày

9 Trần Đại Quang

02 tháng
4, 2016

đương nhiệm

0 năm, 347
ngày


7

Phần 2:Hiến pháp mới 2013 hiến định xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội

1. Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

17

Hiến pháp mới năm 2013 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày
28/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/1/2014. Hiến pháp mới với nhiều nội dung mới,
chứa đựng hàm lượng khoa học sâu sắc, tính chân thực, chính xác, rõ ràng. Bản Hiến
pháp mới đã toát lên sức sống mới, tinh thần mới, rất sinh động, sáng tạo; phản ánh đúng
đắn tình hình thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua muôn ngàn chông gai, thử
thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nội dung
mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm theo dõi, của nhiều người cả ở trong
nước và bạn bè quốc tế, thậm chí cả các thế lực thù địch vì nó liên quan trực tiếp đến sinh
mệnh, sự sống còn của quốc gia, dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là việc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một số điều
khoản khác trong bản Hiến pháp mới có quan hệ mật thiết với các nội dung xây dựng nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 2 (Chương I) Hiến pháp mới ghi rõ: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều 3 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền

làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Hiến
pháp là Văn kiện chính trị pháp lý cơ bản nhất, thiêng liêng nhất và quan trọng nhất, đồng
thời khẳng định quyền làm chủ của Nhân dân và Nhân dân là chủ thể trong xây dựng và
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ðể thực hiện được mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới như
Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đề ra, nhiệm vụ hết sức quan trọng, trực tiếp
hiện nay là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về
nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua các cơ quan nhà nước do mình trực tiếp bầu ra; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện
địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là Nhà nước mà ở đó các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thống
nhất và có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền đó; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do một


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

18

đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu bằng nhà
nước. Ðảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà
nước và thông qua Nhà nước. Vì vậy, chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong sạch, vững mạnh,
quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng- an

ninh, đối nội và đối ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của
Ðảng và Nhân dân ta.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước ta phải thực hành
dân chủ. Ng-ười khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ,
Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân[1]. Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân,
mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu
hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ.
Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ văn
minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu
phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày
của dân tộc, của đất nước.
Trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được
đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực, tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn
thiện hơn, phương thức hoạt động của Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ
yếu bằng luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực
của Nhà nước, giảm bớt các mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu của công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác xây dựng pháp luật được tăng cường. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội, dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước, các công trình trọng điểm
quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Hoạt động giám sát tình hình và kết quả thực
hiện các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm
quốc gia, những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước được đẩy mạnh, chất lượng
được nâng lên. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ từng bước được sắp xếp, điều
chỉnh theo hướng tinh gọn; các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực được thành lập với



so sánh hiến pháp 1992 và 2013

19

những chức năng, nhiệm vụ được điều chỉnh, đổi mới, tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà
nước, quản lý vĩ mô, giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng, tách khỏi quản lý hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Cải cách hành chính được chú trọng, nhất là
ở những lĩnh vực có quan hệ tới đời sống của nhân dân và hoạt động của doanh nghiệp,
bước đầu đạt được một số kết quả. Cải cách tư pháp được đẩy mạnh.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đánh giá
chung của Chính phủ còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và quản lý đất
nước. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách
chưa đồng bộ, thống nhất. Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt
còn yếu. Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng, nhiệm
vụ của một số cơ quan chưa rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra, còn nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công
dân. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Cải cách tư
pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số
trường hợp chưa chính xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những hạn chế,
yếu kém trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã gây ra những
khó khăn, cản trở, làm hạn chế sự phát triển và thành tựu của đất nước, trong một số lĩnh
vực còn tạo nên bức xúc xã hội. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nước ta trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả
hơn nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) Đảng ta xác định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do Nhân dân dân, vì Nhân dân” là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong 8 phương hướng cơ bản mà Ðảng và
nhân dân ta cần phải quán triệt, thực hiện tốt để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Cương
lĩnh đề ra. Ðồng thời, Cương lĩnh còn xác định rõ bản chất và các nguyên tắc cơ bản về tổ
chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như “Tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ tri thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Nhà nước phục vụ
nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Quyền lực


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

20

nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo
đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Ðây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Nghị quyết Ðại hội XI đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời gian thực hiện nhiệm kỳ Ðại hội XI. Yêu
cầu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là phải bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; Nhà
nước phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người
dân. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành để thật sự
bảo đảm đúng nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong

việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðồng thời, việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý
kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội.
Các cơ quan Nhà nước từ Trung ương cho đến các cấp, các ngành ở địa phương nhận rõ
trách nhiệm của mình trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp mới 2013. Theo
đó, kịp thời rà soát, điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thông qua
việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời, rà soát các văn
bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với
tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới năm 2013.
- Trước hết, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Ðổi mới tổ chức
và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là Cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc
hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; nhất là cải tiến,
nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng
của đất nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền
hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ; thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa
phương, đồng thời nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra,


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

21

giám sát của Trung ương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính
gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,

xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh. Hoàn chỉnh chính sách, pháp luật về
hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động
của hệ thống tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp... Tiếp tục
đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Chính quyền địa phương, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức
hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; nghiên cứu tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo.
- Thứ hai, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đáp ứng được những
đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt
Nam hơn 84 năm khẳng định và được xác định tại Điều 4 Hiến pháp mới nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội là điều kiện để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bảo đảm cho hệ thống chính
trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi
theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để nhân dân thực sự phát huy được quyền
làm chủ thì vấn đề cốt tử hiện nay phải ra sức xây dựng, củng cố hệ thống chính trị một
cách đồng bộ; đặc biệt là đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội, đồng thời xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả cao.
- Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ,
công chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công
chức ở từng vị trí công tác. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của tổ chức Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức,
phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là "người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân", toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là nhân tố
"cốt lõi" bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Theo đó, cùng với việc nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng,
phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức Nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã

hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính Nhà nước, về tổ chức lao
động khoa học và tâm lý quản lý… Thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức theo các
ngạch, bậc; tổ chức tốt việc đào tạo và thi tuyển, sát hạch, sàng lọc, bổ nhiệm theo chức
danh.


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

22

- tư, tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm bằng các giải
pháp đồng bộ: hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là trong các lĩnh
vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; thực hiện công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính
trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân
sách nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài
sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài sản do
tham nhũng mà có. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của nhân dân, của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
Ðể thực hiện được mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới như Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đề ra, nhiệm vụ hết sức
quan trọng, trực tiếp hiện nay của Ðảng và nhân dân ta là xây dựng, hoàn thiện tổ chức
chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương. Thực hiện Chỉ thị 03CT/TW của Bộ
Chính trị về "tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn Ðảng, toàn dân, toàn
quân ta hiện nay.
Ngày nay, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, trước âm mưu chống phá, chia rẽ của kẻ

thù giữa Đảng với dân, với Nhà nước, hòng làm biến chất Nhà nước, tiến tới thủ tiêu và
xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta, đây thực sự là một nguy cơ và thách thức
mới. Đúng như V.I. Lênin đã dạy: “Giành chính quyền đã khó, song giữ chính quyền
càng khó hơn”. Nhưng với niềm tin cách mạng vào Đảng quang vinh và Nhân dân vĩ đại,
dù phải vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn chúng ta nhất định thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta mãi mãi là Nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân./.

Phần 3 : Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

23

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và
để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng trong việc
thực hiện công cuộc đổi mới.
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối
cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các
văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu,
định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm
xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Triển khai thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng, tại Kỳ họp thứ I, Quốc hội Khóa XIII
diễn ra vào tháng 8/2011 đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban

soạn thảo Hiến pháp. Qua tổng kết việc thi hành Hiến pháp và lấy ý kiến sâu rộng trong
nhân dân, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được trình Quốc hội xem xét, thảo
luận tại 3 Kỳ họp của Quốc hội (Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6), 3 lần trình Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XI (Hội nghị Trung ương V, VII, VIII) và
rất nhiều lần xin ý kiến của Bộ chính trị và các cơ quan, tổ chức, các nhà chính trị, các
nhà khoa học có uy tín. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, sau nhiều ngày thảo luận, thống
nhất ý kiến, trong không khí trang nghiêm và thể hiện sự đồng thuận cao, với đa số tuyệt
đối 486/498, chiếm 97,59% Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ VI đã thông qua Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là sự kiện chính trị - pháp
lý đặc biệt quan trọng đánh dấu một cột mốc mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
2. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992
2.1. Về cấu trúc của Hiến pháp
Cấu trúc của Hiến pháp 2013 gọn nhẹ hơn Hiến pháp năm 1992. Nếu Hiến pháp năm
1992 có 12 chương, 147 điều thì Hiến pháp 2013 đã rút gọn được một chương và 27
điều, chỉ còn 11 chương và 120 điều. Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 khái quát về lịch
sử Việt Nam và mục tiêu của bản Hiến pháp mới được quy định ngắn gọn và khúc chiết
hơn so với Hiến pháp năm 1992. Vị trí các chương trong Hiến pháp cũng hợp lý hơn so
với Hiến pháp năm 1992. Chương V trong Hiến pháp năm 1992 được gọi là “Quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” thì nay được chuyển vào vị trí Chương II và được đổi tên
thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc quy định quyền
con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương II thể hiện sự coi trọng quyền
con người, quyền công dân của nhà nước ta trong giai đoạn phát triển và đổi mới toàn
diện của đất nước. Chương “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân” được chuyển từ vị
trí Chương X về Chương VIII trước chương “ Chính quyền địa phương”. Sự điều chỉnh
này trong cấu trúc Hiến pháp là hợp lý theo tư duy lô gíc chính quyền Trung ương quy
định trước, chính quyền địa phương quy định sau.


so sánh hiến pháp 1992 và 2013


24

Ngoài việc ghép Chương XI vào Chương I, Chương II và Chương III (của Hiến pháp
năm 1992) vào Chương III, Hiến pháp mới cũng sáng tạo thêm một chương mới đó là
Chương X:“Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước”. So với các Hiến pháp
trước đây, đây là một chương hoàn toàn mới. Chương mới này là kết quả của việc tiếp
nhận tư duy lập hiến mới về các thiết chế hiến định độc lập trong Hiến pháp nước ngoài.
2.2. Về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
Chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước Hiến pháp của năm 2013 thể
hiện những điểm mới sau đây:
- Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã xác định:“ Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
năm 2013 bên cạnh quy định về phân công, phối hợp đã bổ sung thêm việc kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sự bổ sung này là cần thiết để khắc phục những yếu kém trong kiểm
soát quyền lực nhà nước của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001).
- Về các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”. So với
Hiến pháp năm 1992, quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rõ ràng
của tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định các hình thức dân
chủ đại diện, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện trong Hiến pháp.
- Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc tiếp tục xác định vai trò
lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm khoản 2
quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình”. Đồng thời bên cạnh việc quy định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn

khổ Hiến pháp và pháp luật” như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 đã quy định bổ
sung “các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật”. Các quy định mới trên đây là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Những quy định
này xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Các quy định này là cơ
sở pháp lý để nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các Đảng viên hoạt động theo
đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Trong chương Chế độ chính trị còn có quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, đó là “vai trò phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Vai trò phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bổ sung quan trọng trong Hiến pháp năm 2013.
Chế độ chính trị nhất nguyên của các nước xã hội chủ nghĩa có ưu thế là sự thống nhất
chính trị cao, sự ổn định của đường lối và quyết sách chính trị, tuy nhiên cũng có hạn chế


so sánh hiến pháp 1992 và 2013

25

là thiếu sự phân tích phản biện đúng mức nên đôi khi các quyết sách chưa được nhìn
nhận, xem xét trên nhiều bình diện khác nhau một cách khách quan và đầy đủ. Việc bổ
sung quy định trên đây về vai trò của Mặt trận là hoàn toàn phù hợp với điều kiện hội
nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay ở Việt Nam.
- Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiếp nhận những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân
chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước khi xác lập vị trí, tính chất của Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân một cách rõ ràng. Hiến pháp
năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp
(Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân
thực hiện quyền tư pháp (Điều 102);Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107).
- Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cùng với việc xác định tòa án là
cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của
Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Về cách thức thực hiện quyền tư pháp Hiến pháp năm 2013 đã có những quy
định mới so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001). Nếu Hiến pháp năm 1992 tại
Điều 132 quy định: “quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình” thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định thêm cả
quyền bào chữa của bị can: “quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự được bảo đảm” (Khoản 7 Điều 103). Ngoài những nguyên tắc tố tụng
đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, như nguyên tắc tòa án xét xử công khai trừ
trường hợp do luật định, nguyên tắc khi xét xử sơ thẩm có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử
tập thể và quyết định theo đa số, Hiến pháp năm 2013 còn xác định thêm các nguyên tắc:
“nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103) và “chế độ xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều 103). Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án,
Hiến pháp năm 2013 không quy định Chánh án tòa án địa phương chịu trách nhiệm báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp năm 1992. Thực hiện
chủ trương tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013, Luật tổ chức tòa án năm 2014 đã thành lập thêm Tòa án nhân dân cấp cao
trong hệ thống tòa án nhân dân, có chức năng xét xử phúc thẩm các bản án của Tòa án
nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ,
chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng nghị, kháng cáo và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và tòa án nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm
vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Do việc thành
lập thêm Tòa án nhân dân cấp cao nên Tòa án nhân dân tối cao sẽ không còn thẩm quyền
xét xử phúc thẩm các bản án của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng không còn thẩm quyền

xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm các bản án của tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Các thẩm quyền nói trên theo Luật tổ chức tòa án năm 2014 được
chuyển cho Tòa án nhân dân cấp cao. Để tăng cường việc bảo vệ các quyền con người và


×