Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

“Một số biện pháp giúp học sinh yếu lấy lại căn bản môn Ngữ văn bằng phương pháp dạy học tích cực”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.3 KB, 23 trang )

ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU LẤY LẠI CĂN BẢN MÔN
NGỮ VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài:
M.Goóc- Ki nói: ''Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng
cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở con người khát vọng hướng tới
chân lý". Văn học "Chắp đôi cánh" để các em đến với mọi thời đại văn minh,
với mọi nền văn hoá, xây dựng trong các em niềm tin vào cuộc sống, con người,
trang bị cho các em vốn sống, hướng các em tới đỉnh cao của Chân - Thiện Mỹ.
Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ cũng bề
bộn và vô cùng phong phú. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng cuộc sống đã
được nhà văn chọn lọc phản ánh.Vì vậy môn ngữ văn trong nhà trường có một
vị trí rất quan trọng: là vũ khí thanh tao đắc lực có tác dụng sâu sắc đến tâm hồn
tình cảm của con người, nuôi dưỡng con người trong sáng, phong phú và sâu sắc
hơn.
Làm thế nào để giúp học sinh yếu lấy lại căn bản môn ngữ văn? Đây là
một công việc khó khăn đối với giáo viên dạy văn ở trường THCS vì đây là bộ
môn có sự kết hợp rất nhiều nhiệm vụ khác nhau trong việc giáo dục tâm tư, tình
cảm cũng như làm sống lại hình ảnh đẹp của văn học qua từng nội dung bài học.
Thực tế cho thấy, những đồng chí giáo viên được phân công phụ trách giảng dạy
thực sự hết sức lo lắng, trăn trở bởi họ đã bỏ ra nhiều công sức, lăn lộn với học
sinh mà hiệu quả chưa cao. Là một giáo viên đã nhiều năm tham gia công tác
giảng dạy môn Ngữ văn tôi đã nắm bắt được tình hình này, tôi nhận thấy cần
quan tâm tới công tác bồi dưỡng học sinh lấy lại căn bản. Vì vậy, tôi đã chọn đề
tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu lấy lại căn bản môn Ngữ văn bằng
phương pháp dạy học tích cực” để nghiên cứu, để có những suy nghĩ sâu sắc
hơn về năng lực cảm thụ của học sinh.
Mặc dù đây không phải là đề tài mới nhưng với những người có tâm
huyết với nghề thường ít khi bằng lòng với những gì mình làm được và cảm
thấy xót xa trước chất lượng học tập không tốt của học sinh. Vì thế, tôi mạnh


dạn trình bày và rất mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp để quá trình
giảng dạy đạt được kết quả tốt nhất.
1.2. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài
1.2.1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường; Tổ chuyên môn luôn
trao đổi, đóng góp ý kiến, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ nhiều mặt cho công tác
giảng dạy đạt kết quả cao. Thường xuyên dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm các
tiết dạy.
Đa số học sinh có ý thức học tập tốt.
1


Trang thiết bị, đồ dùng dạy học trong nhà trường khá đầy đủ, có máy tính,
máy chiếu hiện đại phục vụ cho giảng dạy.
1.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì trong quá trình giảng dạy tôi còn
gặp một số khó khăn:
Vẫn còn một số ít học sinh chưa chăm ngoan, một số phụ huynh học sinh
ít quan tâm đến con cái, chưa đầu tư đúng mức cho việc học tập của con em
mình.
Kiến thức về tin học của giáo viên còn hạn chế, số lượng sách tham khảo
cho giáo viên và học sinh vẫn chưa đáp ứng đủ.
1.2.3. Số liệu thống kê:
Trước khi thực hiện đề tài này, tôi tham khảo và căn cứ kết quả học tập
cũng như thống kê điểm chất lượng đầu năm của hai lớp dạy: 9A, 9B. Với số
lượng thống kê như sau:
Lớp

Sĩ số


Giỏi 8.0 trở lên

Khá 6.5 - 7.9

Tr. bình 5.0 – 6.4

Dưới trung bình

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
28
0
11
39.3
14
50.0
3
10.7
9B
23
0
8
34.8

12
52.2
3
13.0
Với kết quả điều tra cơ bản trên, ta thấy trên 10% học sinh có kết quả yếu
trong quá trình học tập. Đây cũng là tiếng chuông báo động cho chúng ta cần
phải tìm ra giải pháp kịp thời để giúp học sinh nói chung và học sinh trung bình,
yếu nói riêng cải thiện chất lượng, phát huy tính năng động, sáng tạo trong quá
trình tiếp thu kiến thức.
Khó khăn: Với môn Ngữ văn yêu cầu đặt ra cho các em là phải đọc tác
phẩm và chuẩn bị phần đọc hiểu văn bản ở nhà song nhiều em còn chưa có ý
thức đọc và chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Do đó, việc tiếp thu kiến thức mới
trên lớp của các em còn nhiều hạn chế, chưa tự tin để xây dựng bài trên lớp.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận:
Trong thời kỳ bùng nổ thông tin và phát triển của khoa học kỹ thuật dạy
học theo phương pháp tích cực đáp ứng được nhiệm vụ dạy học: Đó không chỉ
dạy học sinh tri thức mà còn dạy cách làm ra tri thức; không chỉ dạy học sinh
tiếp nhận ghi nhớ thông tin mà còn dạy học sinh chủ động lựa chọn thông tin, xử
lý thông tin hiệu quả.
Trước khi đi vào nội dung cụ thể, chúng ta hãy cùng xem xét nhưng cơ sở
lý thuyết quan trọng là nền tảng để tôi xây dựng đề tài:
* Phương pháp dạy học:
Là cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học.
Cách thức hành động bao giờ cũng được diễn ra trong những hình thức cụ thể.
Cách thức và hình thức không tách nhau một cách độc lập: Phương pháp dạy
học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong
những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học.
2



Đổi mới chương trình, sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy và học chúng ta
mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo lớp
người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều
nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế trí thức.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập
chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông được thực hiện theo
các định hướng sau:
1- Bám sát mục tiêu giáo dục;
2- Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể;
3- Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh;
4- Phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường;
5- Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy - học;
6- Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các
phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực
của các phương pháp dạy học truyền thống;
- Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc
biệt lưu ý những ứng dụng của công nghệ thông tin.
* Phương pháp dạy học tích cực:
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường là thay
đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học
tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thầnh hợp tác, kỹ năng vận dụng
kiến thức và những tình huống khác nhau trong học tập va trong thực tiễn; tạo
niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “Học” là quá trình kiến tạo;
học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thông tin...,
học sinh tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận
thức cho học sinh, dạy học sinh cách tìm ra chân lý. Chú trong hình thành các

năng lực (tự học, sáng tạo, hợp tác...) dạy phương pháp và kỹ thuật lao động
khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại
và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân học sinh và cho
sự phát triển của xã hội.
Phương pháp dạy học tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
đọng, trái với không hoạt động, thụ động. Phương pháp dạy học tích cực hướng
tới việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là hướng vào phát
huy tích cực, chủ động của người học chứ không chỉ hướng vào việ phát huy
tính tích cực của người dạy.
* Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực:
1- Dạy học tăng cường phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo
thông qua tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của học sinh.
Dạy học thay vì lấy “Dạy” làm trung tâm sang lấy “Học” làm trung tâm.
Trong phương pháp tổ chức, người học - đối tượng của hoạt động “Dạy” đồng
3


thời là chủ thể của hoạt động “Học” - được cuốn hút vào các hoạt động học tập
do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình
chưa rõ, chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu những trí thức đã được giáo
viên sắp đặt.
2- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học
của học sinh.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào
đầu óc trẻ khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ
phương pháp học ngay từ cấp Tiểu học và càng lên cấp học cao hơn càng phải
được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì

sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
3- Dạy học phân hoá kết hợp với học tập hợp tác.
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường
chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý
kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng
mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm
sống của thầy giáo. Hoạt động hợp tác thường được thực hiện trong nhóm nhỏ 4
đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải
quyết những vấn đề gây cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa cá
nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Hoạt động nhóm làm cho từng thành viên
bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình; được tập thể uốn nắn, điều chỉnh;
phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tập thể, tinh thần tương trợ, hợp
tác; ý thức cộng đồng, tạo không khí, niềm vui; hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ
không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc
lộ, tăng tính tự tin.
Từ dạy và học thu động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học
sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là
chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên phải
đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thực
hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, dẫn dắt,
trọng tài trong các hoạt động tìm tòi, hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh.
4- Kết hợp đánh giá của thầy với đánh giá của bạn, với tự đánh giá.
5- Tăng cường khả năng, kĩ năng vận dụng vào thực tế, phù hợp với điều
kiện thực tế về cơ sở vật chất, về đội ngũ giáo viên, khả năng của học sinh, tối

4


ưu các điều kiện hiện có. Sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học khi
có điều kiện.
6- Đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh, đạt hiệu quả
cao; tăng tính tích cực, chủ động, sáng tạo; tăng khả năng tự học; tăng tính tự
tin; tăng khả năng hợp tác trong học tập và làm việc; tăng cơ hội được đánh giá;
chất lượng, hiệu quả dạy học cao.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoạt động
hoá nhận thức của người học - nghĩa là tập trung phát huy tính tích cực của
người học chứ không phải tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy,
đành rằng dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so
với dạy học theo phương pháp thụ động.
Trong thời kỳ khoa học công nghệ phát triển thì việc đổi mới phương
pháp dạy học ngày càng trở nên cấp thiết. Theo kịp sự phát triển của thời đại
góp phần chuyển biến mạnh mẽ trong việc tiếp thu của học sinh tích cực hơn,
chủ động hơn.
2.2. Biện pháp tổ chức thực hiện đề tài:
Trong phương pháp tích cực học sinh là đối tượng của hoạt động dạy, vừa
là chủ thể của hoạt động học. Qua các tổ chức chỉ đạo của giáo viên, học sinh
được cuốn vào các hoạt động học tập và tự mình khám phá ra những điều mình
chưa rõ. Khi được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, học sinh phải
tự quan sát, độc lập suy nghĩ, sáng tạo giải quyết những vấn đề đặt ra theo cách
suy nghĩ của mình chứ không rập theo những khuôn mẫu đã có. Như vậy là giáo
viên chủ yếu hướng dẫn hoạt động và giúp học sinh đi theo định hướng đúng.
Môn học nào cũng có khái niệm và logic của nó: Dạy văn không phải là
chỉ truyền đạt kiến thức mà còn giáo dục tâm hồn. Nhiệm vụ của người giáo
viên dạy văn là phải làm cho học sinh hiểu được cái hay cái đẹp cuả văn học,
kích thích sự hứng thú học tập học văn cho học sinh. Ngay từ thưở còn nằm

trong nôi qua lời ru của bà, của mẹ, lớn lên nghe hát, nghe ngâm thơ. .. Qua các
nghệ thuật ấy các em đã tiếp xúc với văn chương. Vì thế đến trường thông qua
học tác phẩm văn chương những cảm xúc thẩm mỹ của các em phải được uốn
nắn, sửa chữa và bồi dưỡng, nâng lên thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ đúng
đắn.
Nhiệm vụ của các em học sinh vừa phải phát triển nhận thức thông qua
việc lĩnh hội hệ thống khái niệm khoa học văn chương, vừa phải biết thưởng
thức cái hay, cái đẹp và những giá trị thẩm mỹ khác chứa đựng trong văn
chương.
Dạy văn vừa phải biết vun đắp thị hiếu nghệ thuật lành mạnh, thái độ đối
với văn học đúng đắn vừa phải rèn luyện những kỹ năng, thói quen văn cần
thiết. Chính vì vậy, để dạy được một tiết như mong muốn. Giáo viên phải có sự
chuẩn bị kỹ càng, công phu. Phải ưu tầm những hình ảnh, tư liệu có liên quan
đến nội dung bài học. Trong đó, vai trò của người giáo viên rất lớn, phải biết
sáng tạo, lựa chọn các chi tiết, hình ảnh như thế nào để lôi cuốn học sinh. Khi
trình bày một vấn đề nào đó giáo viên gắn các hình ảnh minh hoạ thì rõ ràng tiết
5


dạy sẽ sinh động hơn. Học sinh cùng tham gia thảo luận đóng góp ý kiến vì
được tận mắt thấy, các em sẽ dễ hình thành các ý tưởng của mình. Còn đối với
tiết dạy chay, không hình ảnh, không đồ dùng... việc tiếp thu và sự sáng tạo của
học sinh còn nhiều hạn chế, nếu tiết dạy có sử dụng hình ảnh động, tranh ảnh
minh hoạ chắc chắn sẽ lôi kéo các em, giúp các em khắc sâu kiến thức bài học.
Bởi dạy học văn không chỉ nhằm đạt đến những rung động thẩm mỹ, đành rằng
đó là những nhu cầu cực kì quan trọng. Dạy học vẫn còn là một quá trình phát
triển về trí tuệ, kiến thức và kĩ năng. Nói chung dạy học văn nhằm mục đích tối
cao là giúp học sinh tự phát triển một cách toàn diện.
Thực hiện phương pháp dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các
phương pháp dạy học truyền thống. Trong hệ thống các phương pháp quen

thuộc được đào tạo trong các trường sư phạm từ mấy thập kỉ gần đây cũng có
nhiều phương pháp tích cực. Các sách lí luận dạy học đã chỉ rõ, về mặt hoạt
động nhận thức, thì phương pháp thực hành là “tích cực” hơn phương pháp trực
quan, phương pháp trực quan thì “sinh động” hơn phương pháp thuyết trình.
Theo định hướng của phương pháp dạy học tích cực vừa nêu trên, tôi đã
triển khai cụ thể như sau:
2.2.1. Dạy học vấn đáp, đàm thoại:
Mục đích của phương pháp này là nâng cao chất lượng của giờ học bằng
cách tăng cường hình thức hỏi - đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh, rèn
cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể. Muốn
thực hiện điều đó, đòi hỏi giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù
hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn, sát đối tượng, xác định được vai trò, chức
năng của từng câu hỏi, mục đích hỏi, các yếu tố kết nối các câu hỏi, thứ tự câu
hỏi. Giáo viên cũng cần dự kiến các phương án trả lời của học sinh để có thể chủ
động thay đổi hình thức, cách thức, mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi
phụ tránh đơn điệu, nhàm chán, nặng nề, bế tắc; tạo hứng thú học tập của học
sinh và tăng hấp dẫn cho giờ học. Hệ thống câu hỏi đặt ra phải phù hợp với từng
đối tượng học sinh, ở đây đặc biệt là học sinh yếu các em thường ít khi giơ tay
phát biểu ý kiến. Giáo viên có thể chủ động dành những câu hỏi ở mức độ dễ
(mức độ nhận biết như: ai? cái gì? ở đâu? ... ) các em học sinh yếu trong lớp.
Khi tìm hiểu về nguyên nhân các học sinh yếu rất ít giơ tay thì trong đó có một
phần do thói quen của giáo viên là sẽ gọi những học sinh xung phong vì những
câu hỏi đơn giản rất nhiều em giơ tay xin trả lời. Một nguyên nhân nữa là các
em cảm thấy ngại, xấu hổ, sợ rằng mình trả lời sai cô và các bạn sẽ cười chê.
Giáo viên nên dẫn dắt gợi ý và “ưu tiên” cho học sinh yếu những dạng câu hỏi
như:
Ví dụ: Trong văn bản: “Bài ca Côn Sơn” trích Côn Sơn ca của Nguyễn
Trãi trong chương trình Ngữ văn 7 - tập 1. Sau khi phân tích cho học sinh thấy
được vẻ đẹp khoáng đạt, nên thơ của thiên nhiên Côn Sơn, giáo viên cho học
sinh tìm hiểu về tình yêu thiên nhiên, lạc quan của tác giả qua một số câu hỏi

nhận biết dành cho học sinh yếu - các em chỉ cần quan sát, tìm chi tiết là đã có
thể trả lời được như:
6


? Em hãy đọc thầm lại đoạn trích một lần nữa và hãy tìm cho cô đoạn
trích có từ nào được lặp đi, lặp lại nhiều lần?
- Đó là từ “ta” - lặp lại 5 lần.
? “Ta” thuộc từ loại nào? “ta” ở đây là ai?
- “Ta” là đại từ; “ta” là thi sĩ Nguyễn Trãi.
? Trước khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ở Côn Sơn, “ta” có những hành
động gì?
- “Ta” nghe tiếng suối mà nghe như tiếng đàn, ngồi trên đá mà tưởng như
ngồi trên chiếc chiếu êm, “ta” nằm nơi bóng mát - “ta” ngâm thơ nhàn.
2.2.2. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
Trong dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri
thức mới vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh tri thức đó, phát triển tư duy
tích cực sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội:
phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. Dạy và học phát
hiện, giải quyết vấn đề không chỉ giới hạn ở phạm trù phương pháp dạy học, nó
đòi hỏi cải tạo nội dung, đổi mới cách thức tổ chức quá trình dạy học trong mối
quan hệ thống nhất với phương pháp dạy học.
Vấn đề cốt yếu của phương pháp này là thông qua quá trình gợi ý, dẫn
dắt, nêu câu hỏi, giải định, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh tranh luận, tìm
tòi, phát hiện vấn đề thông qua các tình huống có vấn đề. Cần cẩn trọng, khuyến
khích những phát hiện của học sinh, tạo cơ hội, điều kiện cho học sinh thảo luận,
tranh luận, đưa ý kiến, nhận định, đánh giá cá nhân (có thể không đúng và khác
với sự chuẩn bị của giáo viên) giúp học sinh tự giải quyết vấn đề chủ động
chiếm lĩnh kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Các phương châm hội thoại” Ngữ văn 9 - tập 1.

Sau khi giáo viên đã giải thích cho học sinh từ phương châm (tư tưởng chỉ đạo
của hành động). -> Phương châm hội thoại là tư tưởng chỉ đạo trong hoạt động
hội thoại. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích ví dụ 1 (SGK trang 8) bằng
hệ thống câu hỏi gợi ý, dẫn dắt như sau:
? Trong lớp ta, những bạn nào biết bơi?
? “Bơi” thuộc từ loại nào? Giải thích nghĩa từ “bơi”?
- Bơi là động từ chỉ hoạt động.
- Bơi là quá trình di chuyển trong nước và trên mặt nước bằng những cử
động của cơ thể.
? Vậy khi cô hỏi: Em học bởi ở đâu? Thì các em nên trả lời như thế nào?
- Tuỳ học sinh trả lời.
? Theo em, câu trả lời của bạn đã đáp ứng được điều mà cô muốn biết hay
chưa?
(Tuỳ tình huống trả lời giáo viên định hướng cách giảng) GV hướng học sinh
quan sát lại đoạn hội thoại 1.
? Câu trả lời thứ hai của Ba có đáp ứng được điều An muốn biết không?
Vì sao?
Học sinh trả lời và giáo viên chốt lại.
7


2.2.3. Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ:
Phương pháp dạy học hợp tác giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các
băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng
cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết
của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì? Bài học trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo
viên.
Vấn đề nêu ra trong phương pháp hợp tác hay ta quen gọi là thảo luận
nhóm thường là những vấn đề khó, tự mỗi cá nhân không đủ sức để phát hiện ra

tri thức mà cần có “trí tuệ tập thể”. Khi quan sát các em thảo luận, tôi nhận thấy
các em học sinh yếu thường rất ít khi đóng góp ý kiến, phần lớn là số học sinh
khá, giỏi mà thôi. Nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng nếu xét về hiệu quả thì
phương pháp trên không đạt yêu cầu mà giáo viên cần nhắc nhở các em chú ý
thảo luận, nghe ý kiến các bạn trình bày để nắm qua vấn đề. Sau khi thảo luận
xong giáo viên nhận xét và chốt ý lại, các kiến thức sẽ được khắc sâu một lần
nữa hoặc sửa cái sai cụ thể. Theo tôi, phương pháp dạy học hợp tác là phương
pháp cần rèn luyện học sinh trong một thời gian nhất định chứ một hoặc hai lần
thì chưa thể có hiệu quả ngay được. Đặc biệt là với các em học sinh đầu cấp.
Hướng tới người học, xuất phát từ người học, đặt mình vào tâm thế và
hoàn cảnh người học. Tất nhiên không máy móc, cào bằng mà hết sức linh hoạt,
lấy kết quả cần đạt với yêu cầu giảm tải và vừa sức để lựa chọn, tránh tham lam,
ôm đồm cứng nhắc.
Giúp học sinh thấy được sự liên quan mật thiết các bài học ngữ văn, qua
phương pháp tích hợp đã xác định 3 phân môn: Văn - Tiếng việt - Tập làm văn.
Tăng cường phần thực hành nhằm tạo ra kỹ năng và sự gắn bó với đời sống các
em.
Trong tiết dạy - học ngữ văn, để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức tốt giáo
viên cần phải khai thác nội dung bài học bằng những thao tác dễ hiểu, nhằm kích
thích kỹ năng cảm thụ ở học sinh ngay từ đầu. Để làm được điều đó khâu chuẩn
bị cũng không kém phần quan trọng:
* Đối với học sinh:
Đọc và tìm hiểu văn bản, nội dung bài học trước ở nhà, tìm hiểu những
hình ảnh sự vật liên quan đến văn bản trong cuộc sống hàng ngày, trả lời trước
các câu hỏi trong sách giáo khoa.
Khuyên các em siêng năng đọc sách báo để truy tìm cái hay, nét đẹp,
những phẩm chất đáng quý của người đương đại có liên quan mật thiết với một
tác phẩm văn học và với nội dung chương trình.
* Đối với giáo viên:
Hệ thống các câu hỏi phải chuẩn xác phù hợp với 3 đối tượng học sinh, từ

câu hỏi nhận biết đến câu hỏi nâng cao để giúp học sinh yếu nắm nội dung.
Dạy phải chuẩn bị đồ dùng dạy học và khi sử dụng đồ dùng dạy học phải
chính xác, khoa học, có tính hiệu quả thì mới làm sinh động, phong phú tiết dạy
và học.
8


Lưu ý: Đồ dùng dạy học nếu sử dụng qua loa đại khái, phân tích, tìm hiểu không
chính xác sẽ mang tác dụng ngược lại gây rườm rà, khó hiểu, mất thời gian...
học sinh khó hiểu bài.
Tất cả những điều nói trên phải thể hiện đầy đủ trong giáo án vì giáo án là
linh hồn không thể tách rời các hoạt động chủ đạo của người thầy.
KINH NGHIỆM QUA MỘT SỐ BÀI ĐÃ DẠY:

a. Giới thiệu bài mới:
Đây là một trong những khâu quan trọng giúp học sinh có tính hiếu kỳ,
nhất là học sinh yếu muốn bước vào khám phá nội dung kiến thức ngay với tâm
thế đầy hứng thú. Để làm được điều đó tuỳ vào nội dung từng bài học giáo viên
có thể lồng ghép bằng nhiều trò chơi khác nhau như: Đoán ô chữ, Chiếc nón kỳ
diệu, Vui để học...
Thế giới xung quanh ta muôn màu, muôn vẻ rất phong phú và đa dạng với
rất nhiều quá trình, những hình tượng, những tình cảm, những sự việc mới lạ.
Đối với lứa tuổi học sinh từ 12 đến 15 tuổi các em sẽ rất thích thú khi tự mình
vừa được tận mắt chiêm ngưỡng vừa tự mình thoải mái suy nghĩ để rút ra bài
học qua những hình ảnh đầy màu sắc, những sự việc, những con vật thật ... sẽ dễ
“thấm” vào tâm hồn các em hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, phần vào bài giáo
viên sử dụng một số tư liệu tiêu biểu về thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
Tình cảm các anh bộ đội cụ Hồ rời quê hương lên đường theo tiếng gọi của non
sông để tham gia kháng chiến. (Sử dụng máy chiếu: Chiếu hình ảnh minh hoạ

hoặc tranh ảnh minh họa).

b. Tìm hiểu nội dung bài học:
Các thao tác va câu hỏi dẫn đến khái niệm nội dung bài học, cần phải
trọng tâm, chính xác vì đây là khâu quan trọng. Nếu vội vàng lướt nhan và hệ
thống câu hỏi không chuẩn xác thì sẽ không mang lại hiệu quả cao.
Giáo viên cần nắm vững các yêu cầu về lượng kiến thức cần truyền đạt
đến học sinh. Giáo viên chỉ nên truyền đạt kiến thức trọng tâm.
Về phần giảng dạy lý thuyết (phần phân tích văn bản, phần Tiếng việt,
phần lý thuyết Tập làm văn) cần chuẩn bị trước những yêu cầu về kiến thức mà
học sinh phải nắm được, để hình thành cách ghi bài học gọn gàng. Trong quá
9


trình giảng dạy lý thuyết, giáo viên sử dụng các tranh ảnh, sơ đồ minh hoạ để
học sinh dễ tiếp thu bài học.
Bên cạnh đó, giáo viên có thể giảng dạy theo hướng tích hợp cũng là một
trong những biện pháp có hiệu quả. Vừa củng cố kiến thức đã học, vừa bổ sung
tri thức mới.
Sau đây là một trong những trường hợp cụ thể giáo viên có thể định
hướng theo cách tích hợp ngang và tích hợp đọc qua việc xây dựng hệ thống câu
hỏi, tìm hiểu nội dung bài:
Ví dụ: Ngữ văn 9, tiết 141 - 142 có bài:
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
(Lê Minh Khuê)
A. Mục tiêu cần đạt.
1. Kiến thức:
- Vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên, trong cuộc
sống chiến đấu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng vẫn lạc quan của những cô gái
thanh niên xung phong trong truyện.

- Thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, lựa chọn ngôi kể, ngôn
ngữ kể hấp dẫn.
2. Kĩ năng:
- Đọc - hiểu một tác phẩm tự sự sáng tác trong thời kì kháng chiến chống
Mĩ cứu nước.
- Phân tích tác dụng của việc sự dụng ngôi kể thứ nhất xưng “tôi’’.
- Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng nhận vật trong tác phẩm.
3. Thái độ;
Giáo dục học sinh biết suy nghĩ về cuộc sống thời chiến tranh của lớp cha
anh. Từ đó suy nghĩ về cuộc sống của bản thân trong học tập và tu dưỡng.
B. Chuẩn bị.
Giáo viên: Giáo án, Sách giáo khoa, máy chiếu, tranh ảnh.
Học sinh: Sách giáo khoa, đọc tìm hiểu bài.
C. Tiến trình bài dạy:
- Giáo viên giới thiệu về tác phẩm:
Trên những nẻo đường Trường Sơn những năm đánh Mĩ, các anh chiến sĩ
lái xe không kính (Bài thơ: Tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật; Xe ta đi
trong đêm Trường Sơn - Tân Huyền) hay còn kính (Mảnh trăng cuối rừng Nguyễn Minh Châu; Chào em cô gái Lam Hồng - Ánh Dương) đều là những
cuộc gặp gỡ chớp nhoáng nhưng vô cùng thú vị và cảm động với những cố gái
Thanh niên xung phong, những cô trinh sát mặt đường, những cô chuyên phá
bom nổ chậm, mở đường cho xe qua.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê - kể lại cuộc sống và khắc
họa chân dung tâm hồn, tính cách của ba cô gái trẻ, ba vì sao xa xôi trên cao
điểm Trường Sơn, vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam toả sáng trong một giai đoạn
lịch sử của dân tộc. Họ như một thứ ánh sáng ẩn hiện xa xôi có sức mê hoặc
lòng người. Trong đó nhân vật Phương Định được khắc hoạ như một hình ảnh
10


tiêu biểu nhất của người con gái Hà Nội giữa Trường Sơn ác liệt. Trước vẻ đẹp

của hình tượng được sáng toả trong hiện thực đời sống của chiến trường đánh
Mỹ. Đặt nhân vật của mình nơi mà bom đạn, Lê Minh Khuê đã giúp ta nhận ra
vẻ đẹp đáng khâm phục ở Phương Định đó là lòng dũng cảm, gan dạ trước thử
thách hiểm nguy.

Hoạt động 1
? Đọc chú thích sao /sgk.
? Nêu sơ lược một số nét chính về
nhà văn Lê Minh Khuê (sau đây
viết tắt: LMK)?
? HS. Dựa vào sgk trả lời.
GV giới thiệu chân dung tác giả, bổ
sung thêm về cuộc đời, một số tác
phẩm chính của nhà văn.
GV:- Lê Minh Khuê (1949), quê
Thanh Hoá, từng là thanh niên
xung phong trên những nẻo đường
Trường Sơn thời chống Mĩ. Những
truyện ngắn đầu tay của chị ra đời
vào đầu năm những năm 70 của
thế kỉ XX, khi chị đang còn rất trẻ,
viết về cuộc sống và chiến đấu của

I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả
- Lê Minh Khuê (1949) quê Thanh Hoá.
- Là cây bút nữ chuyên viết truyện ngắn
với ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo,
đặc biệt là tâm lí nhân vật phụ nữ.


11


chính bản thân và đồng đội.
- LMK là cây truyện ngắn sắc sảo,
có nhiều tìm tòi đáng quí.
-Trong thời kì chiến tranh LMK
chủ yếu viết về cuộc sống chiến
đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường
Trường sơn.
- Sau 1975 LMK viết về cuộc sống
thường nhật.TP bám sát những
chuyển biến của đời sống xã hội và
con người trên tinh thần đổi mới.
? Truyện ngắn “ Những ngôi sao xa
xôi’’ ra đời vào năm nào? Viết
trong hoàn cảnh nào?
GV bổ sung : Văn bản Những ngôi
sao xa xôi (1971) có lược bỏ một
vài đoạn (kể về những kỉ niệm,
những hồi ức của Phương Định về
thời thơ ấu ở Hà Nội và một vài chi
tiết khác trong cuộc sống và chiến
đấu trên cao điểm Trường Sơn : lại
phá bom, gặp gỡ và trò chuyện với
những người lính lái xe...)
HS trả lời theo chú thích từ ngữ
/sgk
GV hướng dẫn học sinh đọc văn
bản. Đọc phần đầu truyện ( đoạn

giới thiệu về ba nhân vật ), đoạn
hồi tưởng của nhân vật Phương
Định về thời học sinh, đoạn miêu tả
tâm trạng, hành động của các nhân
vật trong trận phá bom. Chú ý
giọng điệu, ngôn ngữ.
GV đọc mẫu một đoạn.
HS trả lời theo chú thích từ ngữ
/sgk.
? Hãy tóm tắt nội dung của truyện?
HS tóm tắt nội dung truyện?
Lớp nhận xét bạn tóm tắt.
GV kết luận bằng®Ìn chiÕu.
? Truyện kể theo ngôi thứ mấy?
Người kể chuyện trong tác phẩm là
nhân vật nào?

2. Tác phẩm.
Sáng tác năm 1971, lúc cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước đang diễn ra gay go,
ác liệt (in lần đầu trong tạp chí “Tác phẩm
mới”.

3. Đọc – tóm tắt truyện.

4. Ng«i kÓ:
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất, người kể là
nhân vật Phương Định.
12



? Việc lựa chọn ngôi kể như vậy có - Việc lựa chọn ngôi kể trên đem đến hiệu
ý nghĩa nội dung, nghệ thuật gì?
quả:
+Tạo tính chân thực của câu chuyện vì
nhân vật là “người trong cuộc’’.
+ Việc miêu tả tâm lí thuận lợi vì nhân vật
có thể giãi bày mọi trạng thái, tình cảm,
suy nghĩ của mình một cách tự nhiên
?Theo em, tác phẩm có thể chia 5. Bố cục (Trình chiếu).
làm mấy phần ?
HS. Thảo luận, trình bày.
GV kết luận (bằng bảng phụ).
Ba phần :
-Từ đầu đến... ngôi sao trên mũ
=> Phương Định kể vể công việc
và cuộc sống của bản thân và tổ ba
cô trinh sát mặt đường.
-Tiếp đến bây giờ là buổi trưa ...
Chị Thao bảo => Một lần phá
bom, Nho bị thương hai chị em lo
lắng, săn sóc.
- Còn lại: =>Sau phút hiểm nguy,
hai chị em nối nhau hát. Niềm vui II.T×m hiÓu chi tiÕt:
của ba người trước trận mưa đá 1. Hoàn cảnh sống, chiến đấu của tổ nữ
đột ngột.
thanh niên xung phong trinh sát mặt
? Truyện kể về ba cô gái thanh niên đường.
xung phong ở một tổ trinh sát phá a. Nét chung.
bom trên cao điểm. Ở họ có những ** Hoàn cảnh sống và chiến đấu.

nét chung gì đã gắn kết họ thành
một khối thồng nhất?
?Đọc truyện, em thử hình dung và
nhận xét hoàn cảnh sống và chiến
đấu của ba cô gái thanh niên xung
phong ?
? Giải thích từ cao điểm, trọng
điểm.

- Họ ở trên một cao điểm, giữa vùng trọng
điểm trên tuyến đường Trường sơn nơi tập
trung nhiều bom đạn và sự nguy hiểm, ác
liệt.
- Công việc: Chạy trên cao điểm giữa ban
ngày, đo, ước tính khối lượng đất đá bị
bom đạn cào xới, đếm bom chưa nổ, phá
? Các cô gái TNXP làm công việc bom.
=> Công việc mạo hiểm, kề cận cái chết,
gì trên vùng trọng điểm đó?
luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng
? Em nhận xét gì về công việc của cảm, bình tĩnh: “ có ở đâu...chạy về
họ? ?Hoàn cảnh sống, nhiệm vụ hang’’( T114).
khó khăn, nguy hiểm, đòi hỏi người
nữ trinh sát mặt đường phải có
13


những đức tính gì ?
GV đọc đoạn văn : Có ở đâu như
thế này không: thần kinh căng như

chão, tim đập bất chất nhịp điệu,
chân chạy mà vẫn biết khắp chung
quanh có rất nhiều bom chưa nổ.
Có thể nổ ngay bây giờ, có thể
chốc nữa... Nhưng nhất định sẽ
nổ... Rồi khi xong việc, quay lại
nhìn ảnh đoạn đường lần nữa, thở
phào, chạy về hang...
? Ở họ còn có nét chung về phẩm
chất của chiến sĩ thanh niên ở chiến
trường. Đó là phẩm chất gì?
? Tìm dẫn chứng minh họa?
HS tìm trang ( 115 -119).
? Nét chung của ba cô gái còn thể
hiện qua chi tiết nào nữa?
HS. Tìm dẫn chứng trang 119 -120.
? Bên cạnh những nét chung. Nét
riêng của ba cô gái này là gì?
? Nét riêng về sở thích của từng
người như thế nào?
?Qua lời kể, tự nhận xét và nhận
xét của Định về bản thân và với hai
đồng đội, em hãy tìm ra những nét
tính cách của họ ?

?Thông qua nét chung, nét riêng về
ba cô gái TNXP trên trọng điểm
tuyến đường Trường sơn. Lê Minh
Khuê muốn nhấn mạnh điều gì?
GV.Họ là vẻ đẹp của thế hệ trẻ VN

trong những năm tháng chống Mĩ.
“ Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai’’
GV liên hệ “ Khoảng trời hố
bom’’- Lâm Thị Mĩ Dạ.

** Phẩm chất.
- Đều là những cô gái trẻ trung, có tinh
thần trách nhiệm cao trong công việc,
quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, dũng
cảm, không sự khó khăn, gian khổ, hiểm
nguy,có tình đồng đội gắn bó.
- Đều dễ xúc cảm, nhiều mơ ước, hồn
nhiên, trong sáng..
b. Nét riêng.
** Sở thích.
- Chị Thao chăm chép bài hát dù giọng
chua và hát sai nhịp.
- Nho thích thêu thùa.
- Phương Định thích hát, ngồi bó gối mơ
màng, hay soi gương.
** Tính cách.
- Chị Thao từng trải, bình tĩnh, cương
quyết, táo bạo nhưng sợ vắt, sợ nhìn thấy
máu.
- Phương Định nhạy cảm, hồn nhiên, thích
mơ mộng.
- Nho vô tư, hồn nhiên “ mát mẻ như một
que kem trắng’’.
=>Vẻ đẹp trong sáng, tinh thần lạc quan,

dũng cảm vượt lên khó khăn gian khổ để
hoàn thành nhiệm vụ của các cô gái thanh
niên xung phong trên tuyến đường Trường
sơn.

14


* Giáo viên mở đĩa cho học sinh nghe bài hát: Cô gái mở đường - Nhạc và
lời: Xuân Giao.
* Chuyển tiết 2:
Hoạt động 2 (tiếp theo)
?Nhân vật chính Phương Định được
giới thiệu cụ thể như thế nào?
HS suy nghĩ tìm chi tiết trả lời.
?Ngay giữa chiến trường đầy bom đạn
ác liệt, chị luôn nhớ về điều gì? Những
kỉ niệm đó có ý nghĩa gì với Phương
Định? Nó giúp gì cho cô vượt qua
cuộc sống nơi nguy hiểm?
?Vào chiến trường đã ba năm, Phương
Định có quen với những thử thách và
nguy hiểm không? Ở Phương Định nét
cá tính thể hiện ró là gì?
Tìm chi tiết cụ thể làm rõ.
? Cũng giống như các cô gái mới lớn,
Phương Định thường quan tâm đến
điều gì?
? Cô giới thiệu về bản thân mình như
thế nào? Chi tiết nào cho thấy rõ điều

đó?
? Điều khác biệt của Phương Định với
các cô gái thanh niên xung phong là
gì?
HS tìm.
GV chốt nội dung.
?Đối với đồng đội của chị, chị có tình
cảm như thế nào với họ?
HS trả lời.

2. Nhân vật Phương Định.
- Là con gái Hà Nội vào chiến trường.
- Ngay giữa Trường Sơn, chị luôn nhớ
những kỉ niệm về Hà Nội → Vừa là
niềm khao khát, vừa giúp chị có đủ
nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử
thách.

- Giáp mặt với bom đạn, quen với sự
nguy hiểm nhưng vẫn giữ được nét hồn
nhiên, trong sáng và mơ ước về tương
lai:
+Hay hát và thích hát:“Tôi mê hát…
cười một mình” (114 – 115), “Tôi thích
nhiều bài …Thích nhiều” (119).Thích
ngồi bó gối mơ màng.
+ Hay nhạy cảm và chú ý đến hình
thức bản thân: “ Nói một cách khiêm
tốn, tôi là cô gái khá….’’, “ Có cái
nhìn sao mà xa xăm’’

+ Nhạy cảm nhưng không hay biểu lộ
tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo trước
đám đông, “Không hiểu sao …thế
thôi”.

+ Yêu mến đồng đội: “ Những gì đã
qua, những gì sắp tới….nếu các bạn tôi
không quay về’’ (T116), dành tình yêu
và niềm cảm phục cho tất cả những
chiến sĩ hằng đêm cô gặp trên trọng
?Trong một lần phá bom, tâm lí nhân điểm“Những người …trên mũ”.(T115).
vật được tác giả miêu tả như thế nào? - Trong một lần phá bom tâm lí nhân
HS suy nghĩ tìm chi tiết trả lời.
vật được miêu tả cụ thể, tinh tế đến
từng cảm giác, ý nghĩ dù chỉ thoáng
?Tâm trạng Phương Định khi đến gần qua trong giây lát:
quả bom được miêu tả bằng những từ + Tâm trạng khi đến gần quả bom ->
15


ngữ, hình ảnh nào? Thể hiện đức tính
gì ở cô?
HS “Vắng lặng đến phát sợ. Tôi đến
gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt
các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không
sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các
anh ấy không thích cái kiểu đi khom
khi có thể cứ đường hoàng mà bước
tới”.
?Tâm trạng Phương Định khi phá

bom, khi chờ bom nổ được miêu tả
bằng những từ ngữ, hình ảnh nào? Đó
là tâm trạng gì ?
HS “Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới
quả bom... Hoặc là mặt trời nung
nóng”.
“Tim tôi cũng đập không rõ. Dường
như vật …chui vào ruột quả bom”.
GV: Cách tả rất tỉ mỉ: hồi hộp lo lắng,
căng thẳng, đó là diễn biến tâm lí rất
thực phải là người trong cuộc mới có
thể tả được như thế.
?Trước cơn mưa đá đột ngột,cảm xúc
của Phương Định được miêu tả ra sao?

Can đảm.

+ Tâm trạng khi đào bom để đặt mìn
-> Sợ hãi thoáng qua.
+ Tâm trạng khi chờ bom nổ -> Căng
thẳng dồn nén.

- Cảm xúc trước trận mưa đá:
Vui thích cuống cuồng trước trận mưa
đá và thẫn thờ nuối tiếc khi mưa tạnh.
→ Miêu tả sinh động, chân thực, am
hiểu tâm lí nhân vật, làm hiện lên thế
giới nội tâm phong phú, thiên về cái
đẹp, trong sáng, cao thượng cũng là
hướng chủ đạo và thống nhất trong văn

?Qua những đoạn phân tích ở trên, em học thời kháng chiến.
có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật của Lê Minh Khuê?
? Cảm nghĩ của em về nhân vật III. Tổng kết.
Phương Định?
1. Nghệ thuật.
HS phát biểu ý kiến.
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất, lựa chọn
GV chốt nội dung.
nhân vật người kể chuyện đồng thời là
Hoạt động 3
nhân vật trong truyện.
?Rút ra nhận xét về những đặc sắc - Miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật.
nghệ thuật của tác phẩm?
- Có lời trần thuật, lời đối thoại tự
HS thảo luận nhóm 4 –6 em/ nhóm nhiên.
trong hai phút, đại diện trả lời.
2. Ý nghĩa văn bản.
HS nhận xét, bổ sung.
Truyện ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của ba
GV kết luận.
cô gái thanh niên xung phong trong
? Phát biểu ý nghĩa của văn bản?
hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.
? Hãy nêu cảm nhận của em về từng
nhân vật? Từ ba cô gái thanh niên
xung phong làm công tác trinh sát mặt
16



đường cho em hình dung về thế hệ trẻ
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
như thế nào?
HS suy nghĩ nêu ý kiến.
IV. Luyện tập.
Viết đoạn văn phát biếu cảm nghĩ.
Hoạt động 4
? Viết đoạn văn ngắn phát biểu cảm
nghĩ về hình ảnh người lính cách mạng
trong kháng chiến chống Mĩ qua Bài
thơ về tiểu độI xe không kính, Chiếc
lược ngà, Những ngôi sao xa xôi?
Gợi ý: Hoàn cảnh, phẩm chất chung.
Tính cách chung – riêng.
HS viết, đọc lên.
GV nhận xét.
*Thảo luận: Em có suy nghĩ gì về nhan đề của tác phẩm.
*Luyện tập: Hãy kể tên những tác phẩm văn học viết về người lính trong kháng
chiến chống Mĩ?
III. Hướng dẫn học bài:
- Nắm được tác giả, tác phẩm
- Tóm tắt được truyện (khoảng 15 dòng).
- Ngôi kể của truyện? Việc lựa chọn ngôi kể là nhân vật Phương Định có
tác dụng gì?
- Nét chung và riêng của ba cô gái thanh niên xung phong trên cao điểm
đường Trường sơn?
- Quá trình giảng dạy tôi đã lồng ghép một số tranh ảnh để bài dạy thêm
sinh động, tạo hứng thú cho học sinh.

17



18


(Hình ảnh: Những cô gái thanh niên xung phong)

(Hình ảnh: Cánh rừng bị tàn phá)

19


Ví dụ: Trong chương trình lớp 9 có những tiết Tổng kết từ vựng, giáo
viên nên cho học sinh ôn lại kiến thức, nêu khái niệm, cho ví dụ và có thể cho
các em một bài tập nhanh để kiểm tra xem các em hiểu ở mức độ nào để kịp thời
có biện pháp phù hợp.
Sau khi hệ thống cho học sinh sơ đồ phân loại từ theo đặc điểm cấu tạo
giáo viên có thể cho học sinh một dãy các từ ngữ cho học sinh phân loại...
Từ tiếng Việt
(Xét về đặc điểm cấu tạo)

Từ đơn

Từ phức

Từ ghép

Từ ghép
đẳng lập


Từ láy

Từ ghép
chính phụ

Từ láy
hoàn toàn

Từ láy
bộ phận

Từ láy âm

Từ láy vần

Một điều mà giáo viên cần lưu ý đó là tạo cho học sinh tính chủ động
trong giải bài tập, không can thiệp vào quá trình giải bài của học sinh cho dù học
sinh có làm sai. Sau khi kết thúc bài giải nên hướng dẫn học sinh tìm thấy được
chỗ sai của mình để tự sửa chữa, việc này sẽ giúp học sinh nhớ lâu và dần dần
hình thành nơi học sinh kỹ năng giải bài tập Ngữ văn. Giáo viên giúp học sinh
thấy được các kiến thức cần phải sử dụng để áp dụng vào việc luyện tập. Trong
giờ luyện tập giáo viên có thể tổ chức hình thức thi đua có thưởng giữa các
nhóm, tổ sẽ tạo được không khí sôi nổi, hào hứng và đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt giáo viên cần động viên, khích lệ sự cố gắng học tập của học
sinh. Khen thưởng, động viên kịp thời sẽ là động lực cho các em cố gắng hơn
nữa. Có thể đó chỉ là một lời ngợi khen hay cho ưu tiên học sinh lên làm bài tập
để lấy điểm.
Giáo viên theo dõi các học sinh yếu, ghi nhận được một cách tổng quát
về các kiến thức còn thiếu sót của học sinh, nắm bắt được nguyên nhân về thái
độ không hứng thú trong học tập, dựa vào đó vạch ra những kế hoạch và phương

pháp giảng dạy cụ thể hoặc trao đổi với tổ chuyên môn, kết hợp cùng nhà trường
để dạy phụ đạo cho các em một vài buổi trong tuần.
d. Kiểm tra kiến thức học sinh:
Đây là khâu rất quan trọng nhằm đánh giá một cách chính xác đối tượng
của mình trong quá trình giảng dạy và được tiến hành theo quy trình sau:
1. Kiểm tra bài cũ thường xuyên;
20


2. Kiểm tra định kỳ gồm: kiểm tra 15 phút, 1 tiết, kiểm tra học kỳ.
Đối với kiểm tra định kỳ giáo viên ra đề gồm 2 phần: trắc nghiệm khách
quan và tự luận. Đề kiểm tra cần có các mức độ phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Phải có những câu ở mức độ nhận biết, thông hiểu để học sinh yếu có thể
làm được. Dành một hoặc hai câu tổng hợp, đánh giá cho học sinh khá, giỏi. Khi
chấm bài giáo viên cần chấm kĩ, không bỏ sót điểm của học sinh đặc biệt với
học sinh yếu; giáo viên cần động viên, khích lệ các em nếu bài làm có ý chưa rõ
ràng hoặc trình bày chưa đạt. Đối với các bài viết Tập làm văn giáo viên cần ghi
rõ lỗi sai, hướng khắc phục và không quên một dòng lời phê động viên các em
như: “Cần cố gắng hơn!”, “Cần rèn luyện thêm”, “Có cố gắng, cần phát huy ở
bài sau!”...
Sau khi chấm bài giáo viên lấy kết quả đem so sánh với chỉ tiêu phấn
đấu có phù hợp hay không từ đó có kế hoạch điều chỉnh kịp thời.
2.3. Kết quả đạt được
Giải pháp trên có thể áp dụng cho nhiều bài dạy.
Học sinh tiếp thu bài nhanh hơn, kiểm tra bài cũ đa số các em thuộc bài,
nhiều em xung phong làm bài tập.
Tiết học sinh động, học sinh phát huy được tính tích cực.
Học sinh có thái độ tôn trong đối với môn học.
Qua một số bài kiểm tra tôi có thể đánh giá được sự chuyển biến tốt ở
cuối năm qua bảng số liệu sau:

Lớp

Sĩ số

Giỏi 8.0 trở lên

Khá 6.5 - 7.9

Tr. bình 5.0 – 6.4

Dưới trung bình

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
28
3
10.8
12
42.8
12
42.8
1
3.6

9B
23
1
43.0
9
39.2
11
47.8
2
8.7
Với kết quả điều tra cơ bản trên, sau thời gian áp dụng các biện pháp
trên tỉ lệ giảm xuống còn hơn 6% học sinh có kết quả yếu - kém trong quá trình
học tập. Hy vọng trong thời gian tới sẽ có những chuyển biến rõ rệt hơn nữa.
2.4. Bài học kinh nghiệm:
Muốn nâng cao hiệu quả kiến thức học sinh ở môn Ngữ văn, ta cần có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự chỉ đạo của thầy và chủ động của trò.
Đối với trò: phải có thái độ đúng đắn với môn học, tôn trọng môn học.
Đối với giáo viên: thật công tâm ghi điểm cho học sinh, quan tâm nhiều
hơn đối với học sinh yếu, giúp các em thấy được cái hay, cái đẹp, cái đặc trưng
bộ môn cũng như tác dụng của việc học để ứng xử trong cuộc sống sau này.
Với tâm thế người thầy ta không nên phê bình các em khi mắc khuyết
điểm bằng lời lẽ gắt gao mà lấy lời lẽ mềm mỏng, động viên là chính.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Từ thời ấu thơ trước khi đến trường, các em được tiếp xúc với văn
chương qua lời ru của mẹ, của bà, qua đài, qua truyện tranh, qua truyền hình, sân
khấu….. Sự xuất hiện những em có năng khiếu văn chương từ trước tuổi tới
21


trường cũng không phải là trường hợp cá biệt. Các em tới trường được đối diện

với tác phẩm văn chương, đối diện với nhà văn qua hình tượng nghệ thuật một
cách có hướng dẫn. Học sinh THCS lại ở độ tuổi giàu cảm xúc và trí tưởng
tượng, sự cảm thụ tiếp nhận nghệ thuật đang chuyển từ cảm tính đến lý tính. Tuy
nhiên không phải học sinh nào cũng sẵn có năng khiếu văn chương, một số bộ
phận lớn các em học sinh đang mất dần đi căn bản, sẽ rất khó để tiếp thu kiến
thức theo nội dung đổi mới hiện nay là khá nặng so với các em.
Chính vì thế giúp học sinh yếu lấy lại căn bản môn Ngữ văn bằng
phương pháp dạy học tích cực là một công tác trọng tâm ở các nhà trường phổ
thông. Nhiệm vụ của mỗi giáo viên là phải nâng cao được chất lượng giảng dạy,
bồi dưỡng học sinh để phát hiện và đạt được kết quả tốt người giáo viên là yếu
tố cơ bản. Giáo viên thật sự phải có năng lực, năng khiếu sư phạm, đồng thời
phải có tâm huyết với nghề nghiệp. Chất lượng học sinh không chỉ thể hiện đánh
giá năng lực, năng khiếu văn chương của học sinh mà còn thể hiện năng lực
giảng dạy của mỗi giáo viên nói riêng và chất lượng giáo dục của nhà trường nói
chung. Song qua việc nghiên cứu đề tài này cho phép tôi có một vài đề xuất như
sau:
* Đối với giáo viên:
- Không được ép buộc học sinh, phải để học sinh tự chọn môn học mà
mình yêu thích và có năng khiếu về môn đó.
- Những giáo viên được phân công giảng dạy phải có kế hoạch, chương
trình cụ thể, tránh dạy chay, thích gì dạy nấy.
- Phải thật sự nhiệt tình say mê, tận tụy với học sinh.
* Đối với nhà trường:
- Phải quan tâm nhiều hơn công tác này, động viên kịp thời những giáo
viên trực tiếp giảng dạy cả về vật chất lẫn tinh thần.
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho giáo viên: Tài
liệu, sách tham khảo...
- Phải thường xuyên kiểm tra việc giảng dạy của giáo viên.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy,
vấn đề này đã và đang được tôi tiếp tục thực hiện. Tôi mong rằng những suy

nghĩ, biện pháp và kinh nghiệm mà tôi đưa ra sẽ giúp hạn chế được phần nào tỉ
lệ học sinh yếu - kém. Đây là ý kiến chủ quan của riêng tôi nên chắc chắn đề tài
của tôi sẽ còn nhiều thiếu sót, không khỏi mắc phải những khiếm khuyết, hạn
chế nhất định. Tôi rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp và cán bộ phụ
trách chuyên môn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG THCS

, ngày 27 tháng 4 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
NGƯỜI VIẾT

22


23



×