Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài thảo luận môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.29 KB, 16 trang )

A: MỞ ĐẦU.
B: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1: Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.1.Lực lượng sản xuất
+Khái niệm.
+Kết cấu llsx.
1.2.Quan hệ sản xuất
+Khái niệm
+ ba mặt của qhsx, phân tích mối quan hệ giữa ba mặt và vai trò của từng mặt.
2: Quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất.
2.1 : Tính chất và trình độ của llsx
a) Tính chất
b) Trình độ của lực lượng sản xuất:
2.2 :Nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất.
a) Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.( chị Trang Anh)
b)

Quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại với lực lượng sản xuất.Chị Linh

Nguyễn)
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUY LUẬT ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1:

Sự tất yếu phải vận dụng quy luật vào trong công cuộc xây dựng và đổi

mới đất nước của Đảng ta.


2. Sự thay đổi của đất nước ta nhờ vận dụng quy luật vào công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa.


C:KẾT LUẬN.
----------------------------------------------------------------------------------------------------

A: MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong ba bộ phận cấu thành hệ thống quan
điểm Mác- Lênin – từ lâu đã trở thành phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu
trong các bộ môn như sử học, xã hội học...Trong tác phẩm “Góp phần phê phán
khoa kinh tế - chính trị” năm 1859, C.Mác viết rằng : “Trong sự sản xuất xã hội ra
đời sống của mình, con người ta có những quan hệ n hất định, tất yếu, không tùy
thuộc ý muốn của họ- tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất của họ…” Trong chủ
nghĩa Mác-Lênin , người ta gọi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất".
Khuynh hướng chung của xã hội là không ngừng thay đổi. Xét đến cùng,
trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển của xã hội l oài người, chế độ xã hội này
bị thay thế bởi chế độ xã hội khác là nhờ phương thức sản xuất thay đổi và sự thay
đổi phương thức sản xuất chính là do sự thay đổi của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
Học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và “Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” nói chung , cần phải hiểu đúng tinh thần, thực
chất của nó và phải tuân theo nguyên tắc : gắn kết những quan điểm cơ bản của


chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn thời đại để thấy
được sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó của Đảng Cộng sản Việt Nam vào
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước.

Tìm hiểu về quy luật này sẽ giúp ta có được những hiểu biết, cái nhìn sâu sắc
về sự phát triển của đất nước cũng như của thế giới, hiểu được quy luật vận động
của xã hội và thấy được ý nghĩa của nó đối với con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam ,từ đó góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng đất nước
ngày càng phát triển vững mạnh.
Quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó là quy luật cơ
bản nhất của toàn bộ đời sống, xã hội của lịch sử nhân loại. Mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, tuân
theo nguyên tắc khách quan và bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối
lập làm phát sinh mâu thuẫn thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
( Thuyết trình: Và để đi sâu hơn về vấn đề này cta sẽ tìm hiểu: các kniem cơ bản
( lực lg sx và quan hệ sx) và mối qhe biện chứng giữa lực lg sx và qhe sx
Sau khi đã có những hiểu biết sâu sắc về qui luật này cta sẽ cùng nhau thảo luận về
ý nghĩa của vấn đề này với con dg đi lên của xhcn ở nước ta
CHƯƠNG I: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
I: Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1. Lực lượ ng sản xuất
Bất kì quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về
người lao động ( như năng lực, kỹ năng, tri thức,…của người lao động) cùng các tư
liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ
trợ của quá trình sản xuất…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất
của các quá trình sản xuất. Như vậy, lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật


chất, tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu
sinh tồn, phát triển của con người. Chỉ khi nào có sự thống nhất giữa tư liệu sản
xuất và người lao động thì mới hình thành nên một lực lượng sản xuất.
Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản
xuất .Trong đó, người lao động là nhân tố quan trọng, chủ đạo, cơ bản nhất của xã

hội. Lê nin đã viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, người lao động”, chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình sử dụng tư liệu lao động tác động
vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Tư liệu sản xúât bao gồm
đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là bộ phận của giới
nhiên mà lao động của con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho
phù hợp với mục đích c ủa con người. Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống
những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao
động nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình. Do đó, tư liệu lao
động được coi là cánh tay thứ 2 của con người. Nó kéo dài và tăng cường sức
mạnh thế giới quan con người. Tư liệu lao động do con người sáng tạo ra, bên cạnh
phương tiện lao động, công cụ lao động là yếu tố “nhân” sức mạnh của con người
trong quá trình sản xuất, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến đổi tự
nhiên. Cùng với quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật, công cụ lao động không
ngừng được cải tiến và trình độ phát triển của công cụ lao động đã trở thành thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại
kinh tế trong lịch sử. C. Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những
tư liệu lao động nào". Ngày nay khoa học phát triển ngày càng trở thành “lực
lượng sản xuất trực tiếp” vì nó đã thâm nhập vào tất cả mọi yếu tố của sản xuất,
làm năng suất lao động tăng cao và là nguyên nhân chính của nhiều biến đổi to lớn


trong sản xuất và đời sống xã hội. Có thể nói: khoa học công nghệ hiện đại là đặc
trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2.Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người về mặt thực
hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của

quá trình sản xuất đó.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản
xuất, nó có vai trò quyết đ ịnh đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Tồn tại hai
loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất là: công hữu và tư hữu. Nếu như
trong chế độ tư bản chủ nghĩa, phong kiến và chế độ chiếm hữu nô lệ xuất hiện
hình thức tư hữu về tư liệu sản xuất, thì trong xã hội công xã nguyên thủy và cộng
sản chủ nghĩa xuất hiện hình thức công hữu về tư liệu sản xuất. Trong ba mặt của
quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản và đặc trưng
cho từng xã hội. Quan hệ trong phân phối sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ giữa
người với người cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản
xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng. Bên cạnh các quan hệ về
mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân
phối sản phẩm lao động là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận
động của toàn bộ nền kinh tế, nó có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất
nhưng ngược lại cũng có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã
hội.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối,
tác động qua lại lẫn nhau dựa trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất. Chúng do con người tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển một cách
khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người.


II: Phân tích Quy luật về qh sx phải phù hợp với trình độ của llsx
1 : Tính chất và trì nh độ của llsx
a) Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và lao động.
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân
lên tính chất xã hội hóa. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở
trình độ phổ thông, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi trình
độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hóa, hiện đại, quy mô mở rộng, phân công lao

động xã hội phát triển, trình độ người lao động nâng cao,…thì lực lượng sản xuất
mang tính chuyên môn hóa.
b) Trình độ của lực lượng sản xuất:
Gắn liền với tính chất của lực lượng sản xuất là trình độ của lực lượng sản
xuất, thể hiện được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch
sử của xã hội loài người . Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả
năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động, thực hiện quá trình
cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ
lực lượng sản xuất thể hiện ở: trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội,
trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh nghiệm kỹ năng của con
người và trình độ phân công tổ chức lao động. Công cụ lao động của con người từ
thủ công như cầm tay,đồ đá, đồng, sắt,..đến máy móc cơ, và cuối cùng phát triển
hiện đại hơn với khả năng tự động hóa cao.Quy mô sản xuất từ nhỏ, khép kín,…
đến thay đổi, mở rộng thành rất lớn và mang tính toàn cầu hóa…..Không chỉ thế,
khoa học công nghệ hiện đại phát triển trải qua các cuộc cách mạng đã được áp
dụng vào sản xuất, thể hiện được sự nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất .


Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt
nhau.Sự thay đổi trình độ của llsx chính là nguyên nhân làm thay đổi tính chất của
llsx.
2 :Nội dung của quy luật
Giữa lực lượng sả n xuất và quan hệ sản xuất tồn tại mối quan hệ biện chứng,
chúng tác động qua lại lẫn nhau và tồn tại không tách rời nhau; tạo thành một quy
luật tất yếu và cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội.
a. Llsx quyết định qhxh.
Sự vận động,phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên
biến đổi và phát triển nhanh, ngược lại quan hệ sản xuất lại thường có tính ổn định
trong một thời gian dài. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:

do người lao động không ngừng nâng cao kĩ năng, trau dồi kinh nghiệm, khoa hoc
kĩ thuật thì ngày càng tiến bộ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ... và khi lực
lượng sản xuất đã biến đổi đến một giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ
quan hệ sản xuất cũ và hiện có lỗi thời, lạc hâu, không còn phù hợp . Việc xoá bỏ
quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt
vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và dẫn đến sự ra đời của một phương
thức sản xuất mới. Sự vận động của mâu thuẫn này tuân theo quy luật “từ sự thay
đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại”, “quy luật phủ định của phủ
định”, khiến cho quá trình phát triển của sản xuất xã hội vừa diễn ra tuần tự lại vừa
có tính nhảy vọt
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất
là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ
cho lực lượng sản xuất phát triển. Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích
ứng với trình độ của lự c lượng sản xuất tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và
kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng


của lực lượng sản xuất .Như vậy lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát
triển của quan hệ sản xuất, một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn
thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất mới .
.Biểu hiện của những mâu thuẫn này chính là những cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp. Đấu tranh giai cấp phát triển đến tột đỉnh xẽ chuyển thành cách mạng xã hội.
b. Qhsx tác động trở lại llsx.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân
theo tính tất yếu khách quan: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản
xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất,
song nó cũng chỉ ra rằng, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội

của quá trình sản xuất, luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát
triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của lực
lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại này của quan hệ sản xuất. Nó làm
nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất
hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính
tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định trong
lực lượng sản xuất. Liên hệ với đặc điểm của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay là sản xuất nhỏ, thủ công phân tán và phát triển không đồng đều; để phát huy
tiềm năng của lực lượng sản xuất cần phải có nhiều hình thức quan hệ sản xuất
khác nhau.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo 2 hướng:




Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

thì nó sẽ mở ra một địa bàn rộng rãi, một khuynh hướng phù hợp và một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .


Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp, lỗi thời hay “ tiên tiến giả tạo” so với

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm và gây khó khăn cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm
thời , cuối cùng quan hệ sản xuất đó sẽ bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của llsx là quy
luật chung nhất của sự phát triển xã hội, là quy luật phổ biến tác động trong toàn

bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa loài người trải qua 5 phương
thức sản xuất, tương ứng là 5 chế độ xã hội( SLIDE 24): công xã nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội cộng sản tương lai. Nhưng
không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết tuần tự trải qua tất cả các phương thức
sản xuất. Thực tế, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một
hay một số phương thức sản xuất để tiến đến PTSX cao hơn. Ví dụ: Cách mạng Tư
sản Pháp 1979 đã phá vỡ QHSX phong kiến lỗi thời, tạo điều kiện cho lực lượng
sản xuất tạo điều kiện cho tư bản phát triển. Trong lịch sử phát triển nội tại của chủ
nghĩa tư bản, từng ngày, từng giờ, LLSX mới hình thành tạo ra lớp người lao động
mới, với yêu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất và cấu trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa để tiến tới xây dựng một hình thái kinh tế xã hội mới- thực hiện tính nhân
đạo, nhân văn sâu sắc…Biểu hiện đỉnh cao là Cách mạng tháng Mười Nga 1917
hình thành nên hệ thống mới: xã hội chủ nghĩa.
Xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định được đặc trưng bởi những quan
hệ sản xuất nhất định, hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất xã
hội. Mỗi hình thức quan hệ sản xuất thích ứng với một trình độ phát triển nhất định


của lực lượng sản xuất, và là cơ sở để hình thành các thành phần kinh tế khác nhau
trong nền kinh tế. Các thành phần kinh tế hiện nay ở nước ta: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Ta có thể thấy được rằng, sự ra đời của các thành phần kinh tế đó
là dựa trên quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất.

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUY LUẬT ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1: Sự tất yếu phải vận dụng quy luật vào trong công cuộc xây dựng và
đổi mới đất nước của Đảng ta.

Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản và phổ biến của xã hội. Quy luật “cơ bản” nghĩa là quy luật này
quyết định các quy luật khác và các quy luật khác muốn giải quyết triệt để thì
cũng phải hướng tới quy luật này.(Thuyết trình: muốn chứng minh, giải thích vì
sao đạo đức bây giờ lại xuống cấp, tệ nạn tham những rộng khắp, để giải thích nó,
chúng ta phải tìm về kinh tế, tìm về quy luật này. Rất nhiều nguyên nhân nhưng cái
chính là sự tác động của mặt trái của kinh tế thị trường)Trong quá trình xây dựng
đường lối phát triển kinh tế, cần ưu tiên, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển; đặc biệt là ưu tiên phát triển con người và khoa học kỹ thuật, công nghệ
nhằm tạo ra hiệu quả, năng suất lao động cao hơn. (Liên hệ: Cần ưu tiên về con
người -> chủ thể của LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.Khoa học công nghệ-> Chủ thể
của LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT -> năng suất lao động)Đồng thời, muốn lực lượng
sản xuất phát triển nhằm nâng cao năng suất lao động, thì đòi hỏi con người phải
tích cực cải tạo những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu kìm hãm, trói buộc


lực lượng sản xuất phát triển. Trong quan hệ sản xuất cần phải thực hiện đa dạng
hoá các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm nhằm thu hút, kích
thích người lao động tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, tạo ra năng suất lao
động cao và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Trước đổi mới, chúng ta vận dụng không đúng quy luật này, xây dựng quan hệ
sản xuất không trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, như đưa vào
hợp tác xã quy mô cấp cao quá nhanh, cải tạo công thương nghiệp ồ ạt mang tính
chiến dịch, tuyệt đối hóa sở hữu, thậm chí đồng nhất giữa quan hệ sở hữu với quan
hệ sản xuất… Về pháp lý, tự liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao
động là chủ sở hữu có quyền sở hữu, chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản
phẩm làm ra nhưng trên thực tế thì người lao động chỉ là người làm công, chế độ
lương lại không hợp lý, không phản ánh đúng số lượng và chất lượng lao động của
từng cá nhân đã đóng góp… dẫn tới tình trạng đơn vị kinh tế mất dần tính chủ
dộng, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả ; nhưng

không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm nên người lao
động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình, sinh ra tiêu cực trong phân phối, chỉ có
một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất tức là quan hệ sản xuất
phải tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo thì chúng ta lại coi nhẹ lợi ích cá
nhân người lao động, dẫn đến triệt tiêu động lực bên trong của người lao động .
Trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém thì quan hệ sản xuất lại quá phát triển,
phát triển với mức độ cao đã để lại rất nhiều hậu quả.
Đối với thực tế lịch sử nước ta, để thay đổi bộ mặt đất nước, từ nghèo nàn lạc
hậu, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp và chuyển nhanh sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.


Bởi những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất rất cần thiết được coi trọng và vận dụng vào xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, nhất là khi nước ta đang trong thời kì quá độ lên xã hội chủ
nghĩa, có những bước chuyển biến quan trọng về mọi mặt : kinh tế, văn hóa, xã
hội, đời sống,…
2. Sự thay đổi của đất nước ta nhờ vận dụng quy luật vào công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa.
Nắm vững được quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất giúp cho Đảng ta vận dụng có hiệu quả quy luật trong con đường đưa đất
nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Quá trình đổi
mới đã đặt ra nhiều lý luận quan trọng , đồng thời cũng đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn nhờ áp dụng quy luật trên vào việc giải quyết những vấn đề lý luận đó
một cách đúng đắn.
Từ năm 1986 đến nay, đối với nước ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường hợp với xu thế thời đại và điều kiện cụ thể của quốc gia. Tuy nhiên, chúng
ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế

độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua thời ký quá độ. Đi lên xã hội chủ nghĩa,
nước ta thực hiện chính sách từng bước đổi mới đất nước, đưa đất nước phát triển
tiến lên mục tiêu đã đề ra. Tại đại hội lần thứ VI (1986), Đảng ta đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội
dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Những thành
tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ trương
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Điểm yếu nổi lên là kinh tế của
chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu… vì vậy khâu trọng yếu mà nước ta phải thực
hiện đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá


đất nước, xây dựng cơ sơ vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng không
phải đạt được kết quả ngay tức thì, mặc dù lực lượng sản xuất của nước ta không
ngừng phát triển, trình độ của người lao động không ngừng được nâng lên, công
tác giáo dục và đào tạo được chú trọng…nhưng chưa đúng yêu cầu của thời ký đổi
mới, không có tính cạnh tranh. Tư liệu sản xuất tuy phát triển song vẫn còn thấp
kém, lạc hậu, không đều, sở hữu tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng phân hoá giàu
nghèo. Nhưng Đảng và Nhà nước ta nhạy bén trước thời cuộc khắc phục tình hình,
với việc đưa ra quan hệ sản xuất bằng con đường đúng đắn với cơ chế tồn tại nhiều
thành phần kinh tế do đố tồn tại cùng một lúc nhiều quan hệ sản xuất khác nhau
tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau, với lực lượng sản xuất thấp
kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất không đồng đều, khắc phục
tình trạng lực lượng sản xuất thấp kem lại sử dụng quy luật quan hệ sản xuất quá
cao hoặc không phù hợp, điều này hợp quy luật bước đầu vận dụng đúng quy luật.
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công
nghiệp hoá – hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt
trọng trách này, thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành
phần kinh tế tư nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Trong suốt quá

trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với
từng yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất. Đó là một quá trình vận động, phát triển
liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn:
+ 1986 -1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế
quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống
KTXH và giải phóng sức sản xuất.
+ 2005 – 2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài


vào nước ta đạt kết quả cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ
USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng kí mới và tăng thêm đạt
150 tỉ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 –
2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu
đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người
đạt 1.168 USD, chỉ số HDI đã liên tục tăng cao.
+ Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 20 nước và vùng lãnh thổ,
ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát
triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước mắt và
tạo được những năng lực gối đầu cho thời kỳ sau. Cơ sở vật chất của các ngành
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục thể thao…đều
được tăng lên đáng kể.
+ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng,
hình thức và cơ sở vật chất,chất lượng giáo dục – đào tạo từng bước chuyển biến
phát triển.
+ Vấn đề việc làm và đời sống của nhân dân được giải quyết có nhiều hiệu quả,
công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp nhất là ở các

vùng cao, xã nghèo, đạt được kết quả tốt. Đời sống nhân dân của người vùng cao
được cải thiện rõ rệt, các công tác xã hội ngày càng nhiều, được mở rộng và đạt
được những kết quả tốt.
+ Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ.
Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và
bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.


Đạt được những thành tựu như trên là do Đảng và Nhà nước ta vận dụng
đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất của nước ta đem lại.

C:KẾT LUẬN.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượgn sản xuất và quan hệ sản xuất là mối
quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh
tế xã hội của quá trình sản xuất . Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình
đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó là m xuất hiện
nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sanr xuất. Sự vận động của mâu
thuẫn này cũng tuân theo qui luật “từ những thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại “ khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã
hội vừa diễn ra với tính chất tiết kiệm, tuần tự, lại vừa có tính nhẩy vọt với những
bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
Mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là nội dung cơ bản của “.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất “. Sự tác động của qui luật này tạo ra nguồn gốc và
động lực cơ bản nhất đối với sự vận động , phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Thông qua nghiên cứu, chúng em cũng muốn chỉ ra sự tác động mạnh mẽ
của qui luật đối với con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, khiến nước ta

đã có một bước chuyển mình rõ rệt trong sự phát triển kinh tế thị trường ,đây sẽ là
kim chỉ nam để chúng ta khai thác mọi tiềm năng trong lĩnh vực kinh tế, nhanh
chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nâng cao đời sống của nhân
dân.




×